Thứ Tư
01 May 2024
9:41 PM
ĐĂNG NHẬP


Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

[ BÀI VIẾT MỚI · Forum rules · TÌM KIẾM · RSS ]
FORUM » TRANG PHẬT GIÁO » TRUYỆN PHẬT GIÁO » Phật Tổ đạo ảnh
Phật Tổ đạo ảnh
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 18 Oct 2015, 1:42 PM | Message # 151
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 73. Thiền sư Hồng Loa Triệt Ngộ (1741-1810)

Sư tên là Nhất, tự Nột Đường, hiệu Mộng Đông, họ Mã, người đất Phong Nhuận. Thời ấu thơ đã thông minh, tinh thông Nho học. Năm 22 tuổi nhân vì mang bệnh nặng mà nhận thấy thân vô thường, tìm đến am Tam Thánh, Phòng Sơn bái lão nhân Vinh Trì xin xuất gia, thọ giới cụ túc. Sư tham dự các pháp hội, thấu suốt yếu chỉ tam quán, thập thừa. Sau đến tham kiến Sư Túy Như Thuần Ông chùa Quảng Thông, và chứng đuợc đại sự. Khi sư Túy Ông về chùa Vạn Thọ, sư nối pháp tại chùa Quảng Thông, danh tiếng vang khắp Nam Bắc, hưng thịnh tông phong. Những năm sau cùng, sư trụ tại Mão Hồng Loa xiển dương Tịnh Độ Tông, chư tăng nhân tề tụ đông đảo, dần dần trở thành đạo tràng vang bóng một thời. Ngày 17 tháng 12 năm Canh Ngọ, năm Gia Khánh, sư tập họp đồ chúng niệm Phật rồi an nhiên mà hóa, thọ 70 tuổi. Hỏa táng thu được cả trăm xá lợi. Sư biên soạn Mộng Đông Tập lưu hành.



Bài tán:

Pháp môn viên đốn

Pháp sự vô phương*

Chí vào dòng thánh

Tâm nơi An Dưỡng**

Niệm niệm vô tư

Trùng trùng hoa tạng

Thích Ca, Di Đà

Không thiếu muối, tương.

……………………….

*Tiếng dùng để chỉ con đường Phật pháp vượt ngoài thời gian, không gian, hiển bày rõ ràng, không một hướng cố định vì Phật pháp là pháp bất định.

**Tên gọi khác của Cực Lạc



Bài kệ: 

Ngày 28 tháng 3 năm 1985

Tuyên công thượng nhân viết:    



Dùng văn hiển đạo dựng cơ đồ

Uyên bác, suốt thông giải nghi ngờ

Khắp chốn thuyết minh độ quần chúng

Ngồi trên chiếu pháp phá mê mờ.

Quy tâm tịnh độ Cực Lạc quốc  

Lập chí thanh cao ngang thánh tiên

Hồng Loa Triệt Ngộ, Mộng Đông Tập

Tây phương cứu cánh đốn ngộ viên.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 18 Oct 2015, 1:43 PM | Message # 152
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 74. Thiền sư Thạch Chung Tùng Ba (?-?)

Sư họ Đoàn, người Hạc Dương, bẩm sinh thông minh, sớm biết thế gian như tuồng huyễn hóa nên lễ bái thượng nhân Đức Chu xuất gia, tham thiền, và được lão nhân Dã Trúc ấn chứng. Sư đến chùa Thạch Chung khai pháp, đây là ngôi chùa do sư Pháp Quang sáng lập. Khi sư lưu lại đây, cảnh chùa trở thành một già lam nhất vùng núi Kê Túc. Trăm việc bỏ dỡ đều được sư trùng tu, không nề lao khổ chỉ vì pháp và vì nngười, vô ngã tướng, vô nhân tướng. Đây là sự may mắn cho môn phái Kế Sơn.



Bài tán:

Vì pháp, vì người

Lấy pháp làm trọng

Ngã pháp vốn không

Tám gíó chẳng động.

Hưng khởi công trình

Cung dưỡng tam bảo

Tào Khê, Hoàng Bách

Chày cối mặc tình.



Bài kệ:    

Ngày 11 tháng 4 năm 1985

Tuyên công thượng nhân viết:    



Thông minh hiểu đạo thuở còn thơ

Khổ cầu tông giáo, nhớ nhân xưa

Tùy duyên sạch nghiệp sau và trước

Gặp việc e dè tâm khẩu chừa.

Chịu thân đói lạnh giương cờ pháp

Nằm gai nếm mật dựng tùng lâm

Trúc xanh Tùng Ba Thạch Chung tự

Sông không ngừng chảy tự ngàn năm.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 18 Oct 2015, 2:05 PM | Message # 153
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.01 Thanh Nguyên Hành Tư Thiền Sư

Tổ Thanh Nguyên [Hành] Tư người đất An Thanh, Cát Châu, họ Lưu, xuất gia từ thuở bé, mỗi khi cùng người luận đạo sư chỉ im lặng. Nghe pháp Tào Khê liền đến tham vấn: “Nên làm thế nào để không rơi vào thứ bậc?”. Tổ hỏi: “Ông từng làm những gì rồi đến đây?. Sư thưa: “Thánh đế cũng không làm”. Tổ hỏi: “Rơi vào thứ bậc gì?”. Đáp: “Thánh đế còn không làm thì đâu còn có thứ bậc”.Tổ nói: “Đúng vậy, đúng vậy. Hãy khéo gìn giữ”. Tổ liền khiến sư làm thủ chúng, chẳng lâu sau, tổ bảo: “Ông hãy phân hóa ra một phương, không nên đình trệ ở đây.” Sư trở về quê cũ, kiến lập chùa Tĩnh Cư, núi Thanh Nguyên, thuyết pháp hơn ba mươi năm. Năm Khai Nguyên thứ 18, ngày 13, tháng 11, sư thăng đường cáo chúng, kiết gia thị tịch. Vua Hy Tông tặng hiệu là Hoằng Tế Thiền Sư, tháp hiệu là Quy Chân.



Bài tán:

Thánh đế còn chẳng làm

Thứ bậc há còn rơi

Hoa sen trong biển lửa

Núi tuyết hồng mặt trời.



Phát huy đại thần cơ

Bay lượn trên dấu cổ

Khuôn mẫu của ngàn đời

Ba tông làm thủy tổ.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 9 tháng 1, năm 1984

Đại thần thông đại cơ đại dụng

Thánh đế chẳng trụ há còn tông

Đạo ngôn tuyệt, thứ bậc vong

Tâm hành xứ diệt tây đông bao gồm

Đến một phương dựng nền đạo pháp

Căn bổn Không, dạy khắp quần manh

Ngàn sau truyền lại hậu sinh

Vô công vô tướng, "như vầy tôi nghe".


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 18 Oct 2015, 2:13 PM | Message # 154
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.02 Thạch Đầu Hi Thiên Thiền Sư 

Sư sinh tại Thụy Châu, Cao An, họ Trần. Năm 20 tuổi đến Tào Khê được thế độ. Sau khi tổ Đại Giám thị tịch, sư vâng theo di ngôn đến yết kiến sư Thanh Nguyên. Sư Thanh Nguyên hỏi: “Ông từ đâu đến?”. Sư đáp: “Từ Tào Khê đến”. Hỏi: “Đến đây được chút gì không?” Đáp: “Khi chưa đến Tào Khê cũng không mất gì”. Sư lại hỏi: “Đại sư Tào Khê có nhận biết hòa thượng chăng?”. Sư Thanh Nguyên hỏi: “Ông nay nhận biết ta chăng?”. Đáp: “Nhận biết”. Lại hỏi: ‘Thế nào là nhận biết?”. Sư Thanh Nguyên nói: “Các con vật có sừng tuy nhiều nhưng chỉ một con Lân cũng đủ”. Sư theo lời mang thư đến thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng, khi trở về sư xin ở lại đây. Hòa thượng hứa khả cho cái rìu cùn này ở lại núi. Vậy nay xin được đi. Sư Thanh Nguyên bỏ chân xuống. Sư đảnh lễ từ tạ. Sau trụ tại Nam Đài núi Nam Nhạc, Lương Đoan thuyết pháp tại chùa Đâu Suất. Năm Trinh Nguyên thứ 6, đời vua Đường Đức Tông, tháng 12, sư thị tịch, vua tặng thụy là Vô Tế Đại Sư, tháp tên là Kiến Tướng.



Bài tán:

Nguy cơ đơn độc

Cơ trí song toàn

Thân theo di chúc

Yết kiến cao phong

Sao là nhận biết

Sừng, chỉ sừng lân

Đường Thạch Đầu trơn

Phát đại trí năng.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 10 tháng 1, năm 1984

Hai mươi tuổi Tào Khê tìm đạo

Đăng đường nhập thất chứng bồ đề

Vâng theo di mệnh cầu thầy

Phát minh tâm địa độ bầy tâm mê

Không đâu đến nơi về chẳng có

Không bợn nhơ há lại uốn quanh

Thạch Đầu đường hẹp gập ghềnh

Khắp cùng pháp giới tây đông tung hoành.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 22 Oct 2015, 0:02 AM | Message # 155
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.03 Dược Sơn Duy Nghiễm Thiền Sư

Sư họ Hàn, sinh tại Giáng Châu, 17 tuổi xuất gia, thông kinh luận, nghiêm trì giới luật. Buổi sơ cơ sư tìm đến thất của sư Thạch Đầu, chưa khế hợp được. Vâng lời đến gặp sư Mã Tổ, ngộ được tiền duyên, sư trở lại với sư Thạch Đầu. Một ngày nọ, trên bệ đá, sư Thạch Đầu hỏi: “Ông ở đây thường làm việc gì?” Sư đáp: “Một việc cũng chẳng làm”. Hỏi: “Chỉ ngồi yên chăng?. Đáp: “Ngồi yên tức là có làm”. Hỏi: “Ông nói không làm, vậy cái không làm đó là gì?. Đáp: “ngàn thánh cũng không biết”. Sư Thạch Đầu nói kệ khen rằng:

“Cùng đến trú đây chẳng rõ tên

Nhậm vận tùy cơ chẳng tướng hình

Kẻ trí trước đà không thấu suốt

Người sau cũng chẳng rõ ngọn ngành”

Sau sư khai pháp tại Dược Sơn. Năm Giáp Dần hiệu Thái Hòa thứ 8 (834) đời vua Đường Vân Tông, sư tạ thế. Tháp dựng phía Đông của viện, vua tặng hiệu là Hoằng Đạo đại sư, thụy là Hóa Thành.



Bài tán:

Hai lạy Thạch Đầu

Vàng đà luyện thuần

Một việc chẳng làm

Ngàn thánh không biết.

Trên đá nở hoa

Ngàn gió đưa hương

Một tiếng kêu dài

Như sấm như chớp.



Bài kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 11 tháng 1, năm 1984

Trước lạy Thạch Đầu chưa khế cơ

Dưới tòa Mã Tổ ngộ tánh chân

Một việc chẳng làm, như vô sự

Ngàn thánh, ngôn từ chẳng biện phân.

Cùng trú một nơi mà chẳng biết

Mới rõ cơ duyên tự thuở nào

Một tiếng kêu dài như sấm chớp

Lay kẻ ngàn năm giữa mộng đời.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 22 Oct 2015, 0:07 AM | Message # 156
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.04 Thiên Hoàng Đạo Ngộ Thiền Sư 

Sư họ Trương, sinh tại Vụ Châu, Đông Dương, xuất gia năm 14 tuổi, tham kiến sư Thạch Đầu, hỏi: “Lìa định tuệ thì lấy pháp gì để dạy người?”. Sư Thạch Đầu nói: “Trong ta không còn nô bộc thì còn lìa cái gì?”. Sư nói: “Như vậy đã rõ ràng”. Sư Thạch Đầu hỏi: “Ông nắm bắt được hư không chăng?”. Sư thưa: “Như vậy không kể từ hôm nay trở đi”. Sư Thạch Đầu nói: “Chưa hỏi ông từ sớm đến chiều hướng về đâu mà lại?” Sư đáp: “Ngộ đạo thì chẳng còn là người từ bên nào cả”. Sư Thạch Đầu nói: “Ta đã biết nơi ông đến.”. Sư thưa: “Thầy có bằng chứng gì mà lại vu oan cho người?”. Sư Thạch Đầu nói: “Ngay nơi thân của ông đây”. Sư thưa: “Tuy là vậy, nhưng làm thế nào để chỉ rõ cho người sau?”. Sư Thạch Đầu nói: “Ông nói ai là người sau?”. Sư nghe qua liền đốn ngộ. Sư đến trụ ở chùa Thiên Hoàng. Năm Nguyên Hòa thứ 2 (807) đời vua Đường Hiến Tông, ngày 13 tháng 4, sư thị tịch, có bốn người nối pháp là Sùng Tín, Tuệ Chân, Văn Tê U Nhàn.



Bài tán:

Đường Thạch Đầu trơn

Lừa phỉnh anh tài

Một trượt ngã nhào

Ba học khó thu

Lỗ mũi chọc trời

Trên đất dong thuyền

Đến thẳng đầm rồng

Mở mắt sau đầu.



Bài kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 25 tháng 1, năm 1984

Rời định tuệ còn có gì để thuyết

Há ngữ ngôn, văn tự ấy diệu khoa

Đường Thạch Đầu dễ trượt khéo mà qua

Lối ông Mộc quanh co đừng vụng bước.

Chẳng giữ bộc nô, cần luôn tinh tấn

Lao nhọc khéo bày chỉ uổng công phu.

Chia bên này, bên kia lại nhiếp thu

Chỉ một niệm ta bà ha phàm với thánh.



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 22 Oct 2015, 0:09 AM | Message # 157
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.05 Đại Điên Bảo Thông Thiền Sư 

Sư là con cháu của vua nhà Trần, người Dĩnh Xuyên. Ông nội làm quan nên khoảng giữa thời Khai Nguyên sinh ra sư trong triều quận. Từ thuở nhỏ đã hâm mộ Vân Lâm và sư Dược sơn Duy Nghiễm, thờ thiền sư Huệ Chiếu làm thầy. Sau khi thọ giới, đồng đến Nam Nhạc tham kiến hòa thượng Thạch Đầu, được pháp vô úy. Năm Trinh Nguyên thứ nhất đời Đường sư vào núi La Phù đến Triều Dương, lập chùa Ngưu Nham và Linh Sơn. Hàn Dũ hỏi đạo, tôn kính lưu áo lại, sự việc này có ghi trong Truyền Đăng Lục. Năm Trường Khánh thứ tư (824), một hôm sư cáo biệt chúng rồi thị tịch, thọ 93 tuổi. Sư soạn kinh Kim Cang, Tâm Kinh Thích Nghĩa. Tháp dựng bên trái chùa Linh sơn.



Bài tán:

Chứng cùng tột lý

Há nệ viên, thiên

Nhướng mày, nháy mắt

Chuốc lấy đảo điên.

Lời không động tĩnh

Hiển lý u huyền

Muôn người bái phục

Y thư lưu truyền.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 17 tháng 1, năm 1984

Đại Điên thiền sư đứng đầu

Dòng vua xe áo châu du khắp miền

Gắng công khuyên nhủ bạn hiền

Tri âm ý chí tham thiền hiển minh

Văn công quy mệnh giáo trình

Thứ dân ngưỡng đức cầu xin khấu đầu

Trời cao đất rộng dài lâu

Núi sông đen trắng một màu mông mênh

Pháp bổn lưu biến tam thiên

Thập phương phổ hóa lưu truyền tuyệt luân.



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 22 Oct 2015, 0:12 AM | Message # 158
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.06 Vân Nham Đàm Thịnh Thiền Sư 

Sư họ Vương, người Kiến Xương. Sư sinh ra có phần thịt nhô lên ở chỗ vai bày ra khi mặc áo ca sa. Đầu tiên đến tham học với sư Bách Trượng hai mươi năm nhưng nhân duyên không khế hợp. Sau sư tìm đến sư Dược Sơn Duy Nghiễm. Một hôm, đang đứng hầu Thầy, sư Dược Sơn hỏi: “Sư Bách Trượng thuyết giảng điều chi?”. Sư đáp: “Đạo của sư Bách Trượng ngoài ba câu thì bỏ ra, trong sáu câu thì lấy vào.” Sư Dược Sơn nói: “Ngoài ba ngàn dặm vui vì mất giao tiếp”. Lại hỏi: “ Còn nói pháp gì nữa?”. Sư đáp: “lúc chúng lên tòa tu định thì sư Bách Trượng dùng gậy đuổi đi, sau thì gọi chúng, khi chúng quay đầu lại, sư hỏi: “Cái gì đó?”. Sư Dược Sơn nói: “Sao không sớm nói với ta, nay nhân ông đến đây mà ta mới thấy Hải huynh”. Sư nghe xong liền đốn ngộ, lễ bái. Sau đó sư khai pháp ở Vân Nham. Năm Hội Xương Tân Dậu thứ nhất đời vua Đường Vũ Tông sư thị tịch, hỏa táng thu được hàng ngàn xá lợi, thụy hiệu là Vô Trụ đại sư, tháp tên là Tịnh Thắng.

Bài tán:

Hai mươi năm Bách Trượng

Chẳng rõ lời khuyên lơn

Trở lại nơi đỉnh Dược

Siêu xuất vượt quần môn.

Cái đó là cái gì?

Một lời tan thành bụi

Linh phù ngay trong tay

Là bảo kinh tam muội.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 18 tháng 1, năm 1984

Ba câu, sáu câu, chẳng câu nào

Gọi đến, đuổi đi, theo với nhau

Là chi? Phá chấp vọng cầu

Lành thay! hoàn thuở ban đầu bản lai

Sớm chẳng thuyết vì thời chửa đến

Thành cơ duyên, thỏa mối ưu tư

Xưa nay lắm chuyện, tổ sư

Chẳng màng lao khổ, có dư phiền hà.


Đại Bi Chú
 
Cường Date: Thứ Hai, 26 Oct 2015, 9:22 PM | Message # 159
Major general
Group: Disciples
Messages: 352
Status: Tạm vắng
A Mi Đà Phật !
A Mi Đà Phật !
A Mi Đà Phật !
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 10 Nov 2015, 10:35 PM | Message # 160
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.07 Long Đàm Sùng Tín Thiền Sư 

Sư người Chử Cung, lúc chưa xuất gia làm việc tại một tiệm bánh trước chùa, mỗi ngày đều cúng dường thiền sư [Đạo Ngộ] Thiên Hoàng mười cái bánh. Thiền sư nhận lấy rồi đưa lại cho ông một cái, nói: “ Tặng lại ông làm ân đức cho con cháu”. Sùng Tín thưa: “Đã là tương lai của con, sao Thầy lại nóí là tặng cho con?”. Thiền sư nói: “Tương lai của ông thì đưa cho ông, như vậy có lỗi gì?”. Sùng Tín nghe liền tỏ ngộ, xin xuất gia. Một hôm sư hỏi Thầy: “Từ ngày con vào đây đến giờ vẫn chưa được dạy tâm yếu.” Thiền sư nói: “Từ lúc ông vào đây, ta chưa từng không chỉ rõ tâm yếu cho ông”. Sư hỏi: “Chỉ ở chỗ nào?”. Đáp: “Ông mang trà đến, ta vì ông nhận lấy. Ông mang cơm, ta vì ông thọ thực. Ông cúi chào, ta vì ông trả lễ, như vậy chỗ nào là chẳng chỉ rõ tâm yếu?”. Sư suy nghĩ hồi lâu. Thiền sư Thiên Hoàng nói: “Thấy thì thấy liền, suy nghĩ thì không đúng nữa”. Sư theo đó mà tỏ ngộ.



Bài tán:

Dâng sư mười chiếc bánh

Đổi lại một tầm nhìn*

Ngay đó mà nhận biết

Cơ phàm thánh hiển minh. 

Nơi thiên tánh tiêu dao

Dù sao dời chớp cuốn

Rồng ẩn đáy vực sâu

Bầu hư không trăng hiện.

…………………………

* độc cụ chích nhãn 獨具隻眼 có nhãn quan hoặc kiến giải đặc thù, riêng biệt.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 24 tháng 1, năm 1984

Điểm tâm nướng bánh đỡ lòng

Ban ân con cháu thoát vòng ly tan

Thể vô tướng, thực cúng dàng

Dạy người đại trí rõ chân Bồ đề.

Mặc áo, ăn cơm bày pháp yếu

Đón người, đãi khách hiểu thiên cơ

Tùy duyên ngộ được nguyên sơ

Miễn cưỡng tạo tác đường tơ lạc lầm.



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 10 Nov 2015, 10:38 PM | Message # 161
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.08 Động Sơn Lương Giới Thiền Sư

Sư người Cối Khê, họ Du xuống tóc tại núi Ngũ Tiết yết kiến sư Đại Duy tham cứu công án “vô tình thuyết pháp” nhưng chẳng khế ngộ. Sư Đại Duy chỉ đến gặp sư Vân Nham thì tĩnh ngộ. Khi từ giả sư Vân Nham, nhân lội qua sông thì chợt đại ngộ, nói kệ:

Rất ngại hướng ngoại cầu

Xa xôi cùng ta thông

Nay riêng ta tự đến

Nơi nơi được gặp sông.

Sông nay chính là ta

Mà ta chẳng phải sông

Cần theo đó mà hội

Mới khế hợp như như.

Sư thuộc đời Đường, cuối đời Đại Trung, khai pháp tại Động Sơn ở Tân Xương, hưng thịnh khắp nơi. Lại được Tào Sơn [Bản Tịch] nối truyền tông chỉ nên huyền chỉ của Động Sơn truyền rộng khắp trên dưới. Một hôm, sư đánh chuông từ biệt chúng, an tọa sắp hóa. Đồ chúng kêu khóc, không ngăn được bi thương. Sư hốt nhiên mở mắt, sai bày trai tăng kéo dài đến bảy ngày sau mới mất. Lúc đó là năm Hàm Thông thứ mười, sư thọ 63 tuổi, thuỵ là Ngộ Bản thiền sư, tháp tên là Tuệ Giác.



Bài tán:

Trên cao gặp chân sư

Thực là bậc kỳ tài

Chân bước trên bóng nước

Như hỗ mọc cánh dài.

Năm vị cùng mở bày

Gạt ra ngoài thiên kiến

Nêu cao nghĩa huyền thâm

Một vòng giáp đất trời.



Bài kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 2 tháng 2, năm 1984

Động sơn, sơn động ai cư trú

Nước sâu, khe thẳm ta lội qua

Thật hư, nhiễm tịnh một nhà

Ta, người hoán chuyển há là khác nhau.

Ngộ được chân như cùng thể dụng

Giải thoát tức nhân pháp tánh không

Đến đi hai mắt trợn tròn

Trai tăng tiệc lớn ăn còn như không.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 10 Nov 2015, 10:43 PM | Message # 162
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.09 Đức Sơn Tuyên Giám Thiền Sư 

Sư họ Chu, người Giản Châu, tham kiến sư Long Đàm [Sùng Tin]. Một đêm nọ, sư Long Đàm nói: “Canh khuya sao ông không xuống phòng?”. Sư liền bước đi rồi quay lại nóí: “Bên ngoài trời tối đen”. Sư Long Đàm đốt đèn lồng rồi đưa cho sư. Sư định cầm lấy thì Long Đàm liền thổi tắt. Sư đại ngộ, liền sụp lạy. Sư Long Đàm hỏi: “Ông thấy được gì?”. Đáp: “Từ đây trở đi sẽ không còn nghi về thoại đầu lão hòa thượng truyền rao trong thiên hạ.” Ngày hôm sau sư Long Đàm thăng đường nói: “Ở đây có một Hán tử, răng như lưỡi gươm, miệng tựa chậu máu, chỉ đập một gậy thì quay đầu. Một ngày kia sẽ lên tận non vắng mà dựng đạo của ta vậy.” Sư mang sớ sao để nơi pháp đường châm lửa đốt. Đến năm Hàm Thông thứ 6, tháng 12, đời vua Đường Ý Tông sư bảo đồ chúng: “Nơi không mà truy cầu âm hưởng thì chỉ lao tâm. Biết là mộng thì cái biết đó cũng là không thì còn có sự gì nữa.” Sư đoan tọa mà hóa, thụy hiệu là Kiến Tánh thiền sư.



Bài tán:

Thổi tắt ngọn đèn

Quang minh chói rạng

Mấu chốt mở toang

Ba tâm chẳng còn

Khí thâu Phật tổ

Bồ tát nô tỳ

Một cây gậy trắng

Ôi thôi, lất phất.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 3 tháng 2, năm 1984

Chấp vào văn tự chướng bổn minh

Cống cao ngã mạn gánh tàng kinh

Sao sớ Thanh Long là của báu

Hạc vàng bay tận chín tầng xanh.

Đốt đèn, thổi tắt, tuyên chân nghĩa

Một gậy đang mê phải giật mình

Lên tận non cao hoằng đại pháp

Giáo hóa bao trùm vạn chúng sinh.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 10 Nov 2015, 11:07 PM | Message # 163
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.10 Tào Sơn Bổn Tịch Thiền Sư 

Sư họ Hoàng người Phủ Điền, thuở nhỏ theo Nho học, năm 19 tuổi vào núi Linh Thạch tại Phúc Châu xuất gia. Tham kiến sư Lương Giới, Động Sơn. Sư Động Sơn hỏi: “Tên là gì?”. Đáp: “Bổn Tịch”. Hỏi: “Là gì?”. Đáp: “Bổn tịch vốn không tên”. Sư Động Sơn biết là đây bậc pháp khí. Nhập thất được vài năm sư từ giả ra đi. Sư Động Sơn lại hỏi: “Ông đi về đâu?”. Đáp: “Đi đâu cũng bất biến”. Hỏi: “Nơi bất biến đó há có chỗ đi ư? ” Đáp: “Đi cũng là bất biến” . Sau sư khai pháp ở vùng Nghi Hoàng,Tào sơn, người đến học rất đông. Sư lại lập Tam Trụy Tứ Cấm, Quân Thần Thiên Chánh Tụng hiển phát ý chỉ Động Sơn. Năm Nguyên Phục Tân Dậu sư hỏi đồ chúng: “Hôm nay ngày mấy?”. Đáp: “thưa là ngày rằm tháng 6”. Sư nói: “Sáng mai ta ra đi”. Sáng hôm sau sư thắp hương rồi an tọa mà hóa, táng nơi chân núi phía Tây, thụy hiệu là Nguyên Chứng, tháp tên Phước Viên.



Bài tán:

Nước từ động chảy ngược

Sư thừa kế diệu tuệ

Từ phương nào đến đây

Khai mở năm vị này

Bảo kính trên đài cao

Chiếu khắp muôn chủng loại

Chẳng chấp vào hư huyền

Há còn có điều nghi.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 4 tháng 2, năm 1984

Không xưng bổn tịch cũng không tên

Chẳng từ đâu đến tích hình chẳng ghi

Dụng trí chuyển đạo uy nghi

Hành vi cao thượng tâm trì tuệ đăng

Xứ xứ bất biến khó bàn

Đến được bảo sở tâm tràn an vui

Chánh chân an tọa qua đời

Như nhiên giải thoát, độ người hữu duyên.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 08 Jan 2016, 0:43 AM | Message # 164
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.11 Nham Đầu Toàn Hoát Thiền Sư

Sư họ Kha, người Tuyền Châu. Thuở nhỏ đến lễ sư Thanh Nguyên, được sư Thanh Nguyên thí phát xuất gia, đến Trường An thọ giới cụ túc tại chùa Bảo Thọ. Sư cùng sư Tuyết Phong, sư Khâm Sơn là bạn đồng tu, cùng tinh tấn. Sư yết kiến sư Ngưỡng Sơn [Tuệ Tịch], lại tham học với sư Đức Sơn, mang tọa cụ lên pháp đường chiêm ngưỡng. Sư Đức Sơn hỏi: “Làm gì vậy?”. Sư bèn quát một tiếng lớn. Sư Đức Sơn nói: “Ông tăng già này đã qua những nơi nào?”. Đáp: “Qua hai công án”. Ngày hôm sau sư Đức Sơn lại hỏi: “Xà lê là người mới đến phải chăng?”. Đáp: “Phải”. Hỏi: “Ông học ở đâu cái pháp hư đầu* ấy rồi đến đây vậy?”. Đáp: “Toàn Hoát tôi chẳng hề kiêu mạn”. Sư Đức sơn nói: “Ông về sau chẳng nên phụ lão tăng”. Sư trụ tại Nham Đầu, Ngạc Châu. Lúc đó bờ sông nước đục khó đi, sư ở lại làm một bến đò cho người. Sư dựng tông phong, độ người khắp nơi. Năm Quang Khải nhà Đường, có giặc loạn đòi hỏi sư cung cấp tiền bạc và lương thực nhưng sư không không có gì để cung ứng sau sư bị trúng đao nhọn mà hóa. Môn nhân hỏa táng thu được 49 hạt xá lợi, dựng tháp ghi hiệu là Thanh Nham thiền sư.

………………

*Lược hư đầu hán (掠虛頭漢) Cũng gọi Lược hư hán. Tiếng dùng trong Thiền lâm. Lược là cướp lấy; Hư là giả dối không thực. Lược hư đầu hán là kẻ chỉ biết bắt chước lời nói và hành động của những người khác, chứ bản thân không có thực chất. Tắc 10, Bích nham lục (Đại 48, 150 thượng), chép: Triệu châu hỏi: Sau 3, 4 tiếng hét, ông hiểu như thế nào? Vị tăng không trả lời. Triệu châu liền đánh và nói: Đây đúng là gã Lược hư đầu hán! [X. Vân môn Khuông chân thiền sư quảng lục Q.thượng].



Bài tán:

Đá vỡ bờ tan

Đạo đức thanh cao

Sư người nối pháp

Như sấm nổ vang

Như rồng bay lượn

Đường Nham Đầu sâu

Kêu một tiếng lớn

Người nghe mất mạng.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 16 tháng 2, năm 1984

Tìm tri thức gặp Thanh Nguyên

Tâm hằng cầu pháp thân quên nhọc nhằn

Hét lên đoạn dứt tử sinh

Câu ca lay tĩnh vô minh, điếc mù.

Câu phó chúc Đức Sơn gìn giữ

Nhận ngọn đao kẻ dữ, giới trì

Nhân duyên quả báo rõ bày

Nham Đầu Toàn Hoát bậc thầy chúng tăng.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 08 Jan 2016, 0:50 AM | Message # 165
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.12 Vân Cư Đạo Ưng Thiền Sư 



Sư họ Vương, sinh tại Ngọc Điền, U Châu, xuất gia từ nhỏ, 25 tuổi thành đại tăng, du phương tham kiến sư Động Sơn. Sư Động Sơn mỗi khi thấy sư cơ phong không hề câu thúc, trác tuyệt nên thường tán thán: “Dù về sau có ngàn vạn người cũng không thể nắm giữ người này được”. Một hôm, sư Động Sơn hỏi: “Kẻ đại xiển đề làm muôn tội đại nghịch thì hiếu dưỡng ở đâu?”. Đáp: “Đó là chỗ bắt đầu cho hiếu dưỡng”. Từ đó sư Động Sơn để sư là thủ chúng trong thất. Sư trụ trì tại núi Vân Cư 30 năm, hoằng pháp khắp nơi, đồ chúng lên đến 1,500 người. Nam Xương Chung Vương hộ trì, nguyện tôn làm thầy nhiều đời. Năm Thiên Phúc Nhâm Tuất thứ hai đời Đường, vào ngày 3 tháng giêng, sư hỏi thị giả: “ Hôm nay là ngày gì?”. Đáp: “Ngày mùng 3”. Sư nói: “Ba mươi năm sau chỉ nên gọi ta là căn gốc”. Nói xong thì hóa, thụy là Hoằng Giác thiền sư, tháp tên là Viên Tịch.



Bài tán:

Cơ phong không câu thúc

Chí khí luôn cương trực

Mây vương đỉnh núi xanh

Tuyết rơi đầy chén bạc.

Kẻ là đại xiễn đề

Chỗ khởi thành hiếu dưỡng

Ngọc đi thì châu lại

Con mắt cùng tỏ thông*

……………………

*Mục bất năng lưỡng thị nhi minh, nhĩ bất năng lưỡng thính nhi thông 目不能兩視而明, 耳不能兩聽而聰 (Khuyến học 勸學) Mắt không thể cùng nhìn hai bên mà trông rõ, tai không thể cùng nghe hai điều mà hiểu thông.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 17 tháng 2, năm 1984

Thần cơ phóng túng biến thông

Chiết phục ngoại đạo chánh tông quy về

Sẳn Phật tánh, đại xiển đề

Người hèn kém cũng trọn bề thiện căn

Vân Cư trụ trì độ tăng

Chung vương xưng tán thế nhân nương nhờ

An nhiên đứng giữa gió mưa

Pháp đăng, y bát kế thừa ngàn năm.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 08 Jan 2016, 1:02 AM | Message # 166
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.13 Tuyết Phong Nghĩa Tồn Thiền Sư

Sư họ Tăng, người đất Nam An, Tuyền Châu. Sư đến sư Đức Sơn tham học, hỏi: “Người học theo tông thừa có phần hay chẳng có phần?”. Sư Đức Sơn đánh cho một gậy, hỏi: “Đạo là gì?”. Sư nói: “Không hiểu.” Sáng hôm sau lại thỉnh ý. Sư Đức Sơn nói: “Tông của ta không lời, thật không có một pháp gì để trao cho người”. Về sau ta nghe sư Nham Đầu nói: “ngày sau muốn truyền đại giáo thì luôn luôn phải từ tâm mình lưu xuất. [Nếu được vậy] thì tương lai đối với ta có thể che cả trời đất”. Sư ngay lời này liền đại ngộ, liền lạy tạ, kêu lên: “Sư huynh, hôm nay mới thật được thành đạo tại Ngao Sơn.” Lại tham kiến sư Động Sơn. Sư Động Sơn nói: “Theo nhân duyên thì ông hợp với sư Đức Sơn”. Sau sư trở về đất Mẫn (Phúc Kiến), khai pháp Tuyết Phong. Năm Khai Bình thứ hai đời vua Thái Tổ nhà Hậu Lương (907-923), vào ngày 2 tháng 5 sư thị tịch. Vua Ý Tông ban áo ca sa tía, hiệu là Chân Giác Đại Sư.”



Bài tán:

Có anh, có em

Như khảy đàn sắt

Trên đỉnh Ngao sơn

Động địa kinh thiên

Vượt qua phàm thánh

Điên đảo anh hiền

Hai tông chân bước

Con cháu nối truyền.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 18 tháng 2, năm 1984

Tuyết Phong Nghĩa Tồn cao chí khí

Gậy Đức Sơn nào có tránh đâu.

Chẳng lập ngôn thuyết, lời, câu

Há còn châm chước, nông sâu so lường.

Tự tánh lộ bày chân thật nghĩa

Ngao đầu kia độc chiếm dũng nhân

Phong ba điên đảo đất bằng

Trên trời dưới đất khí thần thanh cao.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 08 Jan 2016, 1:04 AM | Message # 167
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.14 Đồng An Đạo Phi Thiền Sư 

Sư khai pháp tại chùa Đồng An, Hồng Châu núi Thê Phụng. Không ai biết sư là người ở đâu.

Có một vị tăng hỏi: “Gia phong của hòa thượng là gì?”.

Sư nói: “Gà vàng về trời ôm con

Hoài thai thỏ ngọc nhập dòng tử vi”

Lại hỏi: “Hốt nhiên có khách đến nhà thì phải làm sao?”

Đáp: “Sớm mai vượn hái quả vàng

Ngọc hoa phượng ngậm chiều tàn hồi quy”.

Sư thị tịch. Tháp dựng tại chùa, trước chùa khoảng vài dặm đường.



Bài tán:

Ngọc thố hoài thai

Dưỡng dục gia phong

Tôn quý chẳng giữ

Giai cấp nào còn



Ngàn thánh mê mờ

Vạn cơ chớ tạo

Thê Phụng rạng tông

Tiếp trước mở sau.

…………………………

* Thông võng 惘. ◇Luận Ngữ 論語: Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi 學而不思則罔, 思而不學則殆 (Vi chánh 為政) Học mà không suy nghĩ thì mờ tối, suy nghĩ mà không học thì nguy hại.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 1 tháng 3, năm 1984

Chẳng rõ thiền sư tự chốn nào

Đồng An giáo hóa độ trần lao

Gà vàng bay tận trời cao vút

Thỏ ngọc tông nhà Tử Vi sao

Vượn hái đào tiên thôi đói khát

Phượng ngậm hạnh hoa giải não sầu

Tiếp trước mở sau hoằng chánh đạo

Nhiếp phàm quy thánh nhập diệu môn.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 08 Jan 2016, 1:07 AM | Message # 168
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.15 Vân Môn Văn Yển Thiền Sư 

Sư họ Trương, người Gia Hưng, bản chất minh mẩn, trí tuệ biện tài, theo sư [Chí] Trừng xuống tóc xuất gia. Lúc đầu sư đến tham yết Mục Châu. Hỏi: “ Việc riêng chưa sáng tỏ, xin Thầy chỉ cho thấy”. Sư Mục Châu mở cửa nhưng khi thấy sư thì liền đóng ngay lại. Sư gõ cửa ba lần như vậy. Đến ngày thứ ba, sư Mục Châu mở cửa, sư liền sấn ngay vào. Sư Mục Châu giữ lại, nói: “Nói mau, nói mau.” Sư còn đang suy nghĩ thì sư Mục Châu đuổi ra, bảo : “Ôi, cái khoan cùn đời Tần”. Nói rồi liền đóng cửa lại. Một chân Sư bị thương, ngay đó liền đại ngộ. Lại chỉ đến tham học với sư Tuyết Phong. Sư đến gặp, sư Tuyết Phong vừa nhìn thấy sư liền hỏi: “Đến đây làm gì?’. Sư liền đê đầu lễ, từ đó rất hợp ý. Sau đó khai pháp tại Vân Môn, các phương xưng tán là Vân Môn Tông. Tháng tư năm Can Hòa thứ bảy, sư thị tịch. Tháp dựng tại Linh Thụ, thụy là Đại Từ Vân Khuôn Chân Hoằng Minh Thiền Sư.



Bài tán:

Vừa bước đến Mục Châu

Liền bị gãy một chân

Lời gởi nơi đầu núi

Chấn động núi Tượng Cốt.

Là Thầy, chỗ nương nhờ

Như sâu ở trong cây

Vân Môn khắp thiên hạ

Giáo đạo ngọn cờ bay.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 9 tháng 3, năm 1984

Tổ Vân Môn thí cam lồ

Cứu người truyền pháp, mê đồ dưới trên

Trí tuệ hùng biện cầu riêng

Từ bi hỷ xả ứng duyên cơ người

Chân trong cửa đóng, ngộ rồi.

Oai nghi đảnh lễ vì lời được nghe

Tận vị lai, giáo pháp ân

Cổ kim chẳng dễ mấy lần gặp ai.


Đại Bi Chú
 
atoanmt Date: Thứ Sáu, 08 Jan 2016, 8:29 AM | Message # 169
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 5081
Status: Tạm vắng



AToanMT
 
atoanmt Date: Thứ Bảy, 09 Jan 2016, 9:50 AM | Message # 170
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 5081
Status: Tạm vắng



AToanMT
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 09 Jan 2016, 2:59 PM | Message # 171
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.16 Huyền Sa Sư Bị Thiền Sư 

Sư họ Tạ, người huyện Mân, Phúc Kiến. Sư đến tham yết sư Tuyết Phong. Sư Tuyết Phong thấy khổ hạnh của sư nên gọi là đầu đà. Một hôm sư Tuyết Phong hỏi: “Cái gọi là đầu đà ấy là gì vậy?”. Sư đáp: “Thực không dám dối gạt người”. Ngày hôm sau sư Tuyết Phong lại gọi sư hỏi: “Sư Bị đầu đà, tại sao không tham yết khắp chốn?”. Sư đáp: “Đức Đạt Ma không đến Đông thổ, nhị Tổ không đến Tây thiên.” Sư Tuyết Phong cho là phải. Mỗi khi nói đến Sư Bị Đầu Đà thì xem như là một Huyền Sa xuất thế. Một hôm sư cho người mang thư đến cho sư Tuyết Phong, sư Tuyết Phong mở ra thì chỉ thấy ba tờ giấy trắng. Sư Tuyết Phong hỏi vị tăng đưa thư: “Hiểu không?”. Thưa: “Không hiểu”. Sư Tuyết Phong nói: “Chưa thấy đạo thì người quân tử dù đi trên ngàn dặm cũng chẳng khác một luồng gió mà thôi”. Vị tăng trở về thuật lại. Sư nói: “Lão già ở đầu núi này qua rồi mà chẳng biết”. Năm Khai Bình thứ hai đời Hậu Lương, sư thị tịch, thọ 70 tuổi. hạ lạp 44 năm. Tháp do một vị tướng tại đất Mân dựng.



Bài tán:

Giấy trắng vừa dâng

Thư nhà tin thông

Cha hiền con thảo

Như không hợp không.

Huyền Sa cọp dữ

Nêu ra tông phong

Người ba thứ bệnh

Mù điếc ngọng câm.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 15 tháng 3, năm 1984

Trụ trì Phật pháp đầu đà

Tây thiên đông độ ma ha hóa hoằng

Hiếp tôn giả, ngồi chẳng nằm

Y không cất chứa, nhãn căn hợp hòa

Trang thư trắng, ngàn dặm xa

Biện tài vạn quyển cũng là Không thôi

Khác thường chân tướng rồng, voi

Chúng sinh nương tựa trau dồi Ba La.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 09 Jan 2016, 3:00 PM | Message # 172
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.17 Cổ San Hưng Thánh Quốc Sư 

Sư họ Lý, thời Đại Lương, từ nhỏ đã không thích mùi thịt cá, lòng ưa thích khi nghe tiếng chuông chùa và tiếng kinh kệ. Năm 12 tuổi chợt thấy có luồng khí trắng hiện ra chỗ sư ngồi. Sư liền đề một bài kệ trên tường:

Khí trắng từ đâu mau sửa đổi

Dừng ngay việc hiển hiện điềm yêu

Định trừ tà hạnh quy chân kiến

Hẳn nhiên nhập thánh, cõi phàm siêu.

Viết xong bài kệ, luồng khí trắng tan mất. Năm 15 tuổi lại mộng thấy một vị Phạm Tăng đến bảo: “Thời kỳ xuất gia đã đến”. Sư liền theo sư [Đạo] Quy ở núi Bạch Lộc xuống tóc. Sư tham kiến sư Tuyết Phong, sư Tuyết Phong kéo lại hỏi: “Là cái gì?”. Sư hốt nhi ên ngộ đạo, buông được vọng tâm, chỉ xua tay. Sư Tuyết Phong biết sư đã ngộ nên ấn chứng. Sau đó vua đất Mân dựng chùa Dũng Tuyền mời sư trụ trì, tặng hiệu là Hưng Thánh, truyền pháp lâu dài.



Bài tán:

Đến thẳng nơi pháp hội

Mũi tên vút Tân La

Có đường lên trên trời

Một khi năng cọ mài

Chẳng nhảy qua cửa đá

Cứu cánh làm việc gì?

Đường hiểm rền sấm sét

Ngàn xưa vẫn còn đây.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 17 tháng 3, năm 1984

Thấy quái chẳng quái quái tự dừng

Khí trắng mấy luồng mê hoặc tâm

Tà chánh họa phúc đều chẳng kể

Thị phi cong thẳng há suy tầm.

Phạm tăng báo mộng thời khắc đến

Tuyết Phong tông chỉ chớ phóng tâm

Dũng Tuyền, Cổ Sơn thuyết pháp chủ

Hư không thế giới mặc thong dong.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 09 Jan 2016, 3:00 PM | Message # 173
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.18 Đồng An Quan Chí Thiền Sư 



Sư xuất thân đất Hồng Châu, Đồng An, không rõ tên họ là gì. Lúc sắp thị tịch sư thăng đường nói:

“Trước tháp đông con giòng giống đẹp

Năm ông trước núi sự ra sao?”.

Ba lần nêu ra như trên nhưng không ai ứng đối được. Sư tự nói:

“Bên rèm trăng sáng xếp thành hình

Muôn dặm nghe câu hát thái bình”.

Lại nói: Phải như lừa thì mới được.



Bài tán:

Tơ buông ngàn thước

Rồng độc nay hiện

Cấm điện sâu kín

Ngựa sắt chuông vàng.

Gia phong hưng khởi

Trang sách hoằng thông.

Là người như lừa

Chỉ tây nói đông.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 18 tháng 3, năm 1984

Đã không có họ cũng không tên

Đồng An Quán Chí há thật danh

Năm lão nhiều con nên đa sự

Tự thuở còn thơ vốn ít lời.

Vượt hẳn muôn người thâm diệu lý

Hỏi đáp đông tây ẩn đạo nguyên

Thiền sư sau trước truyền tâm ấn

Đối cơ thuyết pháp diễn hư huyền.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 09 Jan 2016, 3:01 PM | Message # 174
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.19 Song Phong Quảng Ngộ Thiền Sư 



Sư húy là Cảnh Khâm, họ Vương, người đất Ích Châu, Tây Thục. Thuở nhỏ xuất gia tại chùa Hắc Thủy, núi Nga My. Năm 21 tuổi thọ giới cụ túc, tham kiến khắp nơi, sau đến tham kiến sư Vân Môn, cơ duyên khế hợp nên được ấn chứng. Bấy giờ họ Lưu đã chiếm Lĩnh Nam, vùng này lại rất chuộng Phật giáo. Các thiền sư như Linh Thụ Tri Thánh, Vân Môn, Khuông Chân – trong đó có sư - đều được người đương thời tôn kính. Vua Nam Hán là Lưu Thịnh thường mời sư đến tham vấn Phật pháp, rất vừa ý nên ban tặng sư áo ca sa. Khoảng đầu niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ hai (977) ngày 21 tháng 2, sư và các môn đồ trò chuyện thâu đêm, sau đó thắp hương, chắp tay mà hóa. Sư hoằng pháp được 62 năm, thọ 82 tuổi. Tháp dựng tại nơi sư tu hành, táng toàn thân. Đến năm Đại Trung Tường Phù thứ 9 (1016) cửa tháp vỡ, nhục thân của sư vẫn như lúc còn sống. Môn đồ nghinh thỉnh đặt tại núi Song Phong, dân chúng địa phương sùng bái, đều cho là linh hiển.

Bài tán:

Nga My thoát tục

Kiên trì giới Phật

Sinh tử đại sự

Lễ khắp danh đức.

Phủ phục Vân Môn

Cuồng tâm liền tuyệt

Thân tại Song Phong

Ngàn sau bất diệt.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 30 tháng 3, năm 1984

Nga My đạo tràng Phổ Hiền

Sinh anh tài tụ khí thiêng khác thường

Văn chương võ nghệ tuyệt luân

Siêu phàm mộ đạo thánh tăng nhân từ

Hoằng giáo Quảng Ngộ thiền sư

Già Na tôn giả giải trừ oan khiên

Song Phong thờ nhục thân thiêng

Từ thuở quá khứ lưu truyền vị lai.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 09 Jan 2016, 3:01 PM | Message # 175
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.20 Hương Lâm Trừng Viễn Thiền Sư 



Sư họ Thượng Quan người đất Miên Trúc, Hán Châu. Lúc còn ở trong chúng đến tham kiến sư Vân Môn. Một vị tăng hỏi: “Nhìn kìa, một căn nhà của dân bị cháy”. Sư hỏi: “Cháy ở đâu?”. Đáp: “Không thấy a?”. “Không thấy”. Vị tang nói” “Ôi, đồ mù”. Lúc đó mọi người trong chúng đều cho rằng sau sư cũng sẽ chẳng làm nên việc gì. Lúc bấy giờ có một người tên là Giá Khoan nghe chuyện liền than rằng: “Người này thật đáng là sư huynh của ta, sau tất được đạo vậy.” Sau đó sư đến làm phương trượng tại Hương Lâm viện ở Thanh Thành Tứ Xuyên. Một vị tăng hỏi: “Phận sự của người tu là gì?” Đáp: “Tháng chạp lửa thiêu núi”. Lúc sắp thị tịch sư gởi lời từ biệt tri phủ Tống Công Đang, nói: “Lão tăng sắp đi đây”. Vị thông pháp hỏi: “Ông cuồng sư này, đã 80 tuổi còn đi đâu nữa?” . Lại nói: “Bậc thiện tri thức thì đi hay ở đều tự tại”. Sư n ói với đồ chúng:“Lão tăng tứ thập niên phương đả thành nhất phiến.” Nói xong thì hóa, tháp dựng tại núi nơi sư tu hành.



Bài tán:

Một câu kinh người

Đặt bày khôn lường

Thêm bạn đồng học

Thêm tuyết trên sương.

Bốn mươi năm đi qua

Vẫn chưa hết lắm lời

Công tựu thành một phiến

Chim Quy hót ra máu.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 31 tháng 3, năm 1984:

Trà trộn phàm phu ít người hiền

Trọn ngày chung đụng cơ duyên chẳng gần

Mù không thấy lửa cháy lan

Trời lạnh không ngại gọi hàng hiền nhân

Bốn mươi năm thành một lần

Tám vạn tiền kiếp như bằng ba tăng

Bước chân về cõi Tịch Quang

Trống chiều chuông sớm vang vang diệu kỳ.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 09 Jan 2016, 3:02 PM | Message # 176
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.21 Địa Tạng Quế Sâm Thiền Sư 



Sư họ Lý, người đất Thường Sơn, Chiết Giang. Tham vấn sư Huyền Sa. Sư Huyền Sa hỏi: “Ba cõi duy tâm, ông hội thế nào?”. Sư chỉ chiếc ghế, hỏi: “Hòa thượng gọi vật ấy là gì?”. Sư Huyền Sa bảo: “Là cái gh ế dựa.” Sư nói: “Hòa Thượng không hội ba cõi duy tâm.”Sư Huyền Sa lại nói: “Ta nói vật ấy làm bằng tre gỗ. Ông nói nó làm bằng thứ gì?” Sư đáp: “Quế Lâm tôi cũng nói nó làm bằng tre gỗ.” Sư Huyền Sa nói: “ Khắp đại địa không dễ gì tìm được một người hiểu Phật pháp.” Sư nghe xong thì thông suốt, chẳng còn nghi hoặc. Sư khai pháp tại viện Địa Tạng. Năm Thiên Thành thứ 3 (928) đời Hậu Đường (923-936), vào mùa thu, sư có chút bệnh, vài ngày sau thì an tọa mà hóa, đệ tử hỏa táng thu xá lợi, dựng tháp nơi phía Tây của viện, thụy hiệu là Chân Ứng thiền sư.



Bài tán:

Không chân mà bước

Ba cõi duy tâm

Buông nắm giữa đời

Dọc ngang vô ngại.

Trồng lúa được cơm

Khắp nơi tôn quý

Địa Tạng Cổ Phật

Ánh sáng còn đây.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 5 tháng 4, năm 1984:

Ba cõi duy tâm dựng hội nào

Ghế ngồi, nhánh trúc cũng vào giả danh

Ông theo như vậy lìa toan tính

Tôi tuyệt suy tư, tận ngữ ngôn.

Vô tri kỷ, đại địa hư không

Ai nghe mà biết, mênh mông vi trần

Thiền sư thắp sáng ứng, chân

Môn đồ tứ chúng bước lần theo sau.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 09 Jan 2016, 3:05 PM | Message # 177
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.22 Trùng Hú Tuệ Ngộ Thiền Sư 

Sư họ Hà, người Phúc Châu. Từ nhỏ đã không ăn thịt cá, có ý nguyện xuất gia nên đến Cổ Sơn theo quốc sư Thần Yến xuống tóc, đắc pháp được thọ ký hành pháp tại Cổ Sơn. Niên hiệu Hiển Đức, đời Hậu Chu (951-960) sư theo lời mời của vua trụ trì chùa Quang Mục. Một hôm có một vị tăng hỏi: “ Thế nào là đại đạo?”. Sư nói; “Ta không có tiểu đạo”. Lại hỏi: “Thế nào là tiểu đạo?”. Đáp: “Ta không biết đại đạo”. Sau sư trụ tại chùa Khai Tiên ở Lư Sơn. Vãn niên lại trụ tại chùa Tịnh Đức ở Kim Lăng, đồ chúng quy tụ nghe pháp rất đông, tiếng tăm vang xa.



Bài tán:

Thiếu thời được nhập thất

Phá tan cánh cửa đá

Một câu vừa thốt ra

Vạn sự đều hanh thông.

Đường xa hay lối gần

Bước bước vương bụi trần

Tôi không hề biết có

Sư tử lại rên than.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 6 tháng 4, năm 1984:

Chưa mê bản tính không thịt, cá

Thoát tục ly trần chẳng tranh hơn

Trèo lên núi Cổ nhập sư thất

Ứng theo thế chủ mở pháp môn.

Có không lớn nhỏ đều hý luận

Chân ngụy thực hư lạc văn ngôn

Hàng tâm ly tướng vô sở chấp

Muôn vật khoe tươi đẹp nét xuân.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 09 Jan 2016, 3:08 PM | Message # 178
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.23 Hoàng Long Hối Cơ Thiền Sư 



Sư họ Trương, người Thanh Hà, thừa kế thiền sư Huyền Tuyền [Sơn] Ngạn làm thầy. Sư hỏi: ”Ý nghĩa của việc tổ sư từ Tây Trúc đến đây là gì?”. Sư Huyền Tuyền cầm một quả bồ kết (tạo giác: sừng đen) đưa lên, hỏi: “Hiểu không?”. Đáp: “Không hiểu”. Sư Huyền Tuyền bỏ xuống, nói: “Quả bồ kết dùng để giặt quần áo”. Sư cúi lạy, nói: “Tin biết Phật pháp không sai khác”. Sư Huyền Tuyền hỏi: “Ông thấy được gì?”. Đáp: “Con từng thưa hỏi sư Nham Đầu, sư Nham Đầu bảo: [Ông trở lại giải cứu chổ vướng mắc chăng?], giải cứu vướng mắc ấy cũng là tháo gỡ trói buộc. Hòa thượng vừa đưa ra quả bồ kết cũng là giải cứu chỗ trói buộc, thế mới biết đạo không có khác”. Sư Huyền Tuyền cười lớn, sư có chỗ tỉnh ngộ. Có người hỏi: “hai đầu cùng hợp, thỉnh sư giải rõ”. Sư đáp ”Đốt đai quần có thơm chăng?”. Hỏi: “Lúc gió yên sóng lặng là thế nào?”. Đáp: “Đầu sào trăm thước, dù thêm năm lạng cũng phải theo”.



Bài tán:

Phật pháp vốn không khác

Ha ha, giữ yếu chỉ

Chén bát bằng lưu ly

Tháo mở thì vào được.

Đốt đai thương tiếc hương

Ông nóng nảy, ta cười

Sóng yên vì gió lặng

Ai người đến buông câu?.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 7 tháng 4, năm 1984:

Tây lai có ý nghĩa chi

Đưa quả bồ kết, hiểu gì nói ngay

Giặt quần áo sạch mỗi ngày!.

Bái tạ pháp thí đức dày ân thâm

Phá mở trói buộc minh tâm

Phản hoàn nguyên bổn thiên chân thấy liền

Gắng công khiến sóng gió yên

Đầu sào trăm thước chớ nên biếng lười.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 09 Jan 2016, 3:10 PM | Message # 179
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.24 Lương Sơn Duyên Quán Thiền Sư

Sư trụ ở Lương sơn, Lãng Châu, không rõ sư họ gì, thường đăng tòa, nói:

Tơ buông ngàn thước

Ý tại đầm sâu

Một câu vang trời

Mây trắng khác thường.

Thuyền đơn tự chèo

Chẳng khua sóng trong

Đi ngang qua biển

Hiếm gặp ấn chứng.

Một vị tăng hỏi: “Sư xiển dương nhà nào, thừa tự tông phong nào?”. Đáp: “Rồng sinh rồng con. Phượng sinh phượng con”.



Bài tán:

Có tả cũng không thành

Có vẽ cũng không xong

Thong thả như sấm chớp

Nhanh chóng như dòng sông.

Đổi sách hay xuyên mành

Tay cầm sao Bắc Đẩu

Một khúc hát vô sanh

Sóng nước diễn thần chú.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 29 tháng 5, năm 1984:

Lời cao vắng kẻ tri âm

Lẻ loi, vò vỏ nhận thầm đắng cay

Ngang trời áng pháp vân bay

Thuyền đơn sóng nhẹ một tay khua dầm

Cửa Không pháp lớn voi rồng

Lão tôn bể giáo ví dòng phụng lân

Chúng tinh chánh vị Bắc thần

Cổ kim rạng rỡ một vầng chiếu soi.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 09 Jan 2016, 3:12 PM | Message # 180
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.25 Trí Môn Quang Tộ Thiền Sư

Sư trước trụ tại Bắc Tháp, sau về Trí Môn. Một vị tăng hỏi: “Thể của bát nhã là gì?”. Đáp: “như con trai ngậm vầng trăng sáng.” Lại hỏi: “Gì là dụng của bát nhã?”. Đáp: “Như thỏ mang thai”. Một vị tăng ghi lại khi sư thăng đường, nói: “Một câu trong thai mẹ, ngày nay cũng nêu ra như thế. Các ngươi không thể thương lượng đạo lý. Lại có người nào thương lượng được chăng?. Nếu chẳng được thì 30 năm sau cũng đừng đưa ra.



Bài tán:

Chưa ra thai mẹ

Vùng đất hứa hẹn

Đã ra thai mẹ

Thấy chùy chẳng bén.

Giữ được lông mày

Lỡ mất chóp mũi

Ba mươi năm sau

Đạo còn ghi khắc.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 31 tháng 5, năm 1984:

Thể bát nhã, nói được chăng?

Đáp: như trai ngậm vầng trăng rạng ngời

Dụng Đại Phương Quảng diệu vời

Đáp: Như loài thỏ dưỡng nuôi giống bầy

Diện mục khi chưa xuất thai

Thành tựu đạo nghiệp bản hoài là đây

Lìa công án, lướt thướt mày

Thái hư đầy ắp mũi quay lên trời.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 09 Jan 2016, 3:16 PM | Message # 181
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.26 Pháp Nhãn Văn Ích Thiền Sư

Sư họ Lỗ, người đất Dư Hàng, tham kiến sư Địa Tạng Quế Lâm. Một hôm sư từ tạ ra đi, sư Quế Lâm hỏi: “Thượng tọa nói ba cõi duy tâm, vạn pháp duy thức.”Rồi chỉ một phiến đá trước sân nói: “Nếu phiến đá kia là đạo thì ở trong tâm hay ở ngoài tâm?” Đáp: “Trong tâm”. Sư Quế Sâm hỏi: “Người hành cước dựa vào điều gì, vì sao lại đặt phiến đá trong tâm?”. Sư không đáp được, tức thì buông bọc hành lý xuống, chưa bi ết phải làm sao. Khoảng một tháng sau, sư trình kiến giải. Sư Quế Sâm nói: “Phật pháp không phải như thế”. Sư đáp: “Tôi đã tận cùng nghĩa lý”. Sư Quế Sâm nói: “Nếu luận về Phật pháp thì tất cả đều hiện hành”. Sư nhân đó đại ngộ. Sau trụ tại Kim Lăng, ba lần tọa đạo tràng. Vào tháng 7 năm Hiển Đức thứ năm, vua đích thân đến vấn an. Sư cạo tóc, tắm gội từ biệt chúng rồi kiết già thị tịch. Thụy hiệu là Đại Pháp Nhãn Thiền Sư, tháp hiệu là Vô Tướng.



Bài tán:

Một lời khuất phục

Nửa tháng độc phát

Như đất trồi lên

Như trời hợp lại.

Dựng lập tông phong

Cơ quyền sinh sát

Thiên hạ thanh lương

Lục thao tam lược*.

..........................

*六韜三略 Binh thư do Khương Tử Nha 姜子牙 và Hoàng Thạch Công 黃石公 soạn ra.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 7 tháng 6, năm 1984:

Đầu lại thêm đầu thạch tại tâm

Cúi đầu nín lặng thậm thâm truy tầm

Buông duyên phản chiếu nguồn tâm

Hốt nhiên thông suốt chẳng mong bên ngoài.

Pháp Phật thành chẳng bởi ai

Tự tánh thanh tịnh ly khai hồng trần

Vua cảm đức, lễ tự thân

Vũ trụ hóa hiện muôn xuân hợp hòa.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 09 Jan 2016, 3:23 PM | Message # 182
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.27 Thái Dương Cảnh Huyền Thiền Sư 

Sư họ Trương, người đất Giang Hạ, Hồ Bắc. Xuất gia làm đại tang năm 19 tuổi. Tham yết thiền sư Lương Sơn, hỏi: “Thế nào là đạo tràng vô tướng?”. Thiền sư chỉ vào bức họa Bồ tát Quán Thế Âm, nói: “Đó là do Ngô Xử Sĩ vẽ.” Sư định đáp lời thì thiền sư ngăn lại, nói: “Đó là hữu tướng ư, đó là vô tướng ư?”. Sư nghe liền tỉnh ngộ, đảnh lễ. Thiền sư bảo: “Sao không nói một câu xem sao?”Sư đáp: ”Nói tức không lời, sợ lên giấy bút”. Thiền sư cười nói: “Lời này từ bia chăng?” . Sư quán sát thần sắc của thiền sư thật hung tráng mặc dù tự thuở bé thơ chỉ ăn ngày một buổi”. Sư trụ tại Thái Dương, chân không đi quá xa, suốt 50 năm hông không chạm chiếu. Vào ngày 19 tháng 7 năm Thiên Thánh thứ năm đời vua Tống Nhân Tông (1027), sư gởi bài kệ cho quan thị lang Vương Lược:

Tôi nay tám mươi lăm

Nhân tu đến thế ấy

Nếu hỏi sẽ về đâu

Tướng đảnh trọn khó thấy”.

Sư dừng bút và hóa, tháp dựng tại núi xưa.





Bài tán:

Đạo tràng vô tướng

Nơi nào chẳng thấy

Chẳng xoay mà chuyển

Liền vượt phương tiện.

Sợ lên giấy bút

Khắc văn trên bia

Vào giữa đêm nay

Riêng mặt trời hiện.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 8 tháng 6, năm 1984:

Như nhiên vô tướng đạo tràng

Lòng người chấp cứng nguy nan chỗ này

Lừa cơn khát, mơ rừng mai*

Bánh vẽ đỡ dạ, dối bầy trẻ con

Sợ lạc văn tự, tuyệt ngôn

Giữ gìn khuôn phép chén cơm đúng thời

Khó nhìn thấy tuổi tám mươi

An tọa mà hóa khắp nơi trùng trùng.

…………………………………………

* Lấy tích Tào Tháo lừa quân sĩ trong cơn khát nước bằng cách bảo rằng đi thêm vài dặm đường sẽ gặp một rừng mai.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 10 Jan 2016, 1:25 AM | Message # 183
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.28 Tuyết Đậu Trọng Hiển Thiền Sư 



Sư họ Lý, người đất Toại Ninh. Thuở còn trẻ thâm hiểu kinh, biện luận sắc bén ít người sánh kịp. Sư tham yết sư Trí Môn, hỏi: “Không khởi một niệm thì có lỗi gì?”. Sư Trí Môn gọi sư lại gần. Sư vừa bước đến thì sư Trí Môn dùng phất trần đánh vào miệng sư. Sư định mở miệng thì lại bị đánh nữa. Sư hốt nhiên khai ngộ.

Sư trụ tại Thúy Phong, sau lại về trụ tại Tuyết Đậu. Một vị tăng hỏi: “Bản nguyên của chư Phật là gì?”. Đáp: “Ngàn ngọn núi lạnh”. Hỏi: “Chưa rõ được chỗ hướng thượng, có sự [pháp môn] gì hay chăng?”. Đáp: “Giọt mưa đọng trên hoa ngoài hang núi”. Ngày 7 tháng 7 sư tắm gội, thay áo, ngồi quay đầu về hướng Bắc, an nhiên mà hóa. Tháp táng toàn thân, dựng nơi phía Tây chùa. Thụy hiệu là Minh Giác Đại Sư.

Bài tán:

Một niệm chẳng khởi

Con mắt trần mê

Hốt nhiên bị đánh

Hang lạnh xuân về.

Mặt trời xuất hiện

Khôn lường đại nhân

Trăng thu Động Đình

Sáng như dòng bạc.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 9 tháng 6, năm 1984:

Cơ phong minh mẫn biện tài

Không khởi một niệm chẳng hay lỗi gì?

Gọi đến đánh liền một khi

Còn suy nghĩ khó thoát nghi cột xiềng.

Chập chùng núi lạnh lặng yên

Hoa tươi mưa điểm trên triền động xa

Động Đình một bóng trăng ngà

Vốn hàng kiệt xuất gọi là trượng phu.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 10 Jan 2016, 1:28 AM | Message # 184
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.29 Thiên Thai Đức Thiều Quốc Sư 

Sư họ Trần, người đất Long Tuyền, Xử Châu, từng tham vấn 54 vị thiện tri thức, sau đến Kim Lăng yết kiến thiền sư Pháp Nhãn. Sư Pháp Nhãn vừa nhìn thấy biết là bậc pháp khí. Khi sư Pháp Nhãn thượng đường, một vị tăng hỏi: “Thế nào là giọt nước nguồn Tào?”. Sư Pháp Nhãn đáp: “Là giọt nước nguồn Tào”. Vị tăng ra vẻ không hiểu, nhưng sư ở dưới tòa nghe được liền đại ngộ, tất cả những nghi hoặc trước kia đều như băng tan. Sư liền đem chỗ ngộ thưa với sư Pháp Nhãn. Sư Pháp Nhãn nói: “Ông về sau sẽ là thầy của hàng quốc vương, làm rạng rỡ đạo của chư Tổ. Ta thật không sánh kịp”. Sư về núi Thiên Thai, tìm những di tích của Trí Giả Đại Sư (538-597), ở lại chỗ đại sư cư trú ngày xưa. Tại đây, sư đề bài kệ:

Trên đỉnh rõ diệu huyền

Chẳng tại nơi nhân sinh

Ngoài tâm không một pháp

Mắt nhìn khắp núi xanh.

Sư Pháp Nhãn đọc bài kệ này, nói: “Như bài kệ này thì có thể dựng được tông phong của ta.” Năm Khai Bảo thứ 5, sư tập họp đồ chúng, tạm biệt rồi an tọa thị tịch. Tháp dựng tại núi xưa.

Bài tán:

Làm thầy quốc vương

Thọ ký Thanh Lương

Một giọt Tào Khê

Tràn đầy đại địa.

Đồi hoa phía trước

Cao Ly tuệ nhật

Tiếp cận Vĩnh Minh

Gương tông hiện thực.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 10 tháng 6, năm 1984:

Tham cầu tri thức khắp vùng

Pháp Nhãn khí trọng chậm chân hận lòng

Tào Khê một giọt nước trong

Dứt liền nghi hoặc chất chồng non xanh

Làm thầy hoàng đế xiển minh

Trời người, các chốn quần sinh giáo truyền

Phá tăm tối, tông cao huyền

Lìa xa tình ái, hiện tiền chánh tri.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 10 Jan 2016, 1:34 AM | Message # 185
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.30 Kim Lăng Pháp Đăng Thiền Sư 



Sư người đất Ngụy Phủ, sư không học mà biết đạo, biện tài vô ngại, được vào cửa pháp của sư Pháp Nhãn. Sư thượng đường, nói: “Ta vốn muốn ẩn trong núi rừng để che dấu chỗ vụng về cùng dưỡng bệnh qua ngày, nhưng hiềm vì tiên sư có lưu lại một công án chưa phân tỏ, nay mang ra cùng người”. Một vị tăng hỏi: “Công án tiên sư lưu lại chưa phân tỏ là gi?.” Sư liền đánh và nói: “Tổ phụ không tỏ, họa cho con cháu”. Hỏi: “Lỗi tại nơi đâu?”. Sư đáp: “Lỗi tại nơi ta mà lụy sang đến ngươi đó”. Vua nghe kể liền cho người hỏi sư: Công án tiên sư lưu lại chưa phân tỏ là gi?.” Đáp: “Hiện phân tích”. Một vị tăng lại hỏi: “Mật ý của Tổ sư từ Tây Trúc đến là gì?”. Đáp: [Diệt] khổ. Lại hỏi: “Đại ý Phật pháp là gì?”. Đáp: “Hãy hỏi tiểu ý, từ đó sẽ biết được đại ý.



Bài tán:

Chuông vàng treo cổ cọp

Sư buộc thì sư mở

Trăm hình hài, một vật

Hai tranh thì một được.

Đại ý của Phật pháp

Quên đạo lý ngàn xưa

Tổ phụ chẳng tường tận

Phân tích hiện tại chưa. 



Kệ: 

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 14 tháng 6, năm 1984:

Sinh ra biết túc mạng thánh nhân

Biện tài bát nhã không ngăn tu hành

Thân đạm bạc chốn rừng xanh

Thượng đường hoằng giáo xiển minh pháp thiền

Biện bạch chẳng tận hiện tiền

Tháo mở trói buộc một miền rong chơi

Oan ương con cháu để đời

Chưa thông tự ngã, dừng thời chẳng nên.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 10 Jan 2016, 1:38 AM | Message # 186
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.31 Đầu Tử Nghĩa Thanh Thiền Sư 

Sư họ Lý người đất Thanh Xã, thuở nhỏ nghe kinh, khi nghe kinh Hoa Nghiêm đến câu: “Tự Tánh Tức Tâm” hốt nhiên tỉnh ngộ. Sư tham kiến sư Phù Sơn Viên Giám. Lúc bấy giờ sư Viên Giám mộng thấy được chim ưng rất đẹp nên nuôi dưỡng. Sư Viên Giám lại bảo sư nghiệm về câu chuyện ngoại đạo vấn Phật về vô ngôn và hữu ngôn. Ba năm sau sư Viên Giám hỏi: “Ông thấy được thoại đầu ấy chăng?”. Sư toan đáp thì sư Viên Giám liền chặn miệng sư lại. Sư khai ngộ, liền đảnh lễ. Sư Viên Giám nói: “Nay ngươi đã khế hợp được huyền cơ rồi đó”. Sư đáp: “Chỗ có được đã nhả ra ngay tại chỗ”. Suốt ba năm sau mỗi khi sư Viên Giám nói đến tông chỉ Tào Động thì sư liền hiểu dễ dàng, sáng như mặt trời hiện trên đỉnh núi. Sư Viên Giám nói: “Ông thay ta nối tiếp tông phong Tào Động, không nên lưu lại đây”. Sư trụ tại núi Đầu Tử, sau đi về Hải Hội, chỉ mặc áo cũ, không giữ vật gì quý giá. Năm Nguyên Phong Quý Hợi, vào tháng 5 đời vua Tống Thần Tông sư thăng đường để lại bài kệ và thị tịch, đồ chúng hỏa táng thu xá lợi năm màu, táng tại am Tam Phong.



Bài tán:

Mộng gặp chim ưng xanh

Trời sinh thân tuấn tú

Đạp ngã cả Phù Sơn

Dập tắt ánh mặt trời.

Lưỡi sấm gió cuồn cuộn

Luyện thánh, rèn đúc phàm

Chan hòa ánh xuân tươi

Khúc hát rung động trời.

..........

*Kinh đô nước Sở 楚 ngày xưa, nay thuộc về địa phận tỉnh Hồ Bắc.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 16 tháng 6, năm 1984:

Thi kinh vào được cửa Không

Chân tông tự tánh tức tâm, ngộ rồi!

Ngoại đạo hỏi Phật không lời

Bên trong sáng tỏ miệng người lặng câm.

Phát huy Động Thượng núi xuân

Như mưa hoa, pháp Phù Sơn nồng nàn

Lìa chấp trước, thánh siêu phàm

Tiêu diêu khoái lạc chẳng màng ngữ ngôn.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 10 Jan 2016, 1:40 AM | Message # 187
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.32 Thiên Y Nghĩa Hoài Thiền Sư



Sư họ Trần người đất Vĩnh Gia, Ôn Châu Lạc Thanh, tham yết sư Minh Giác (Tuyết Đậu). Sư Minh Giác bảo: “Như thế cũng chẳng được. Không như thế cũng chẳng được. Như thế, không như thế cũng chẳng được”. Sư định đáp thì sư Minh Giác đánh đuổi ra. Cả đến bốn lần đều như vậy. Lại khiến sư gánh nước, bửa củi. Sư chuyên tâm tu, chợt có chỗ ngộ, liền trình kệ:

Một hai ba bốn năm sáu bảy

Một mình trên đỉnh* núi lam

Minh châu quyết đoạt dưới hàm ly long

Một câu khám phá Duy Ma Cật.

Sư Minh Giác nghe xong, vỗ vào ghế tán thán. Sau đó sư trụ bảy nơi, hoằng pháp trong nước. Lúc sư sắp tịch, môn đồ hỏi: “Pháp cứu cánh là gì?”. Sư đưa nắm tay lên, nằm xuống buông chiếc gối mà hóa. Tháp dựng tại phía Đông chùa, táng toàn thân. Đời vua Tống, Sùng Ninh ban thụy hiệu là Chấn Tông thiền sư.

……………………

*Nhận, nhà Chu 周 định 8 thước là một nhận (chừng sáu thước bốn tấc tám phân bây giờ).



Bài tán:

Gánh nước chẳng dễ

Bửa củi cũng khó

Đoạt được minh châu

Tùy thuận chạy quanh.

Núi đồi thơ thẩn

Dựng cột làm chùa

Thuyền đi trên đất

Sóng gợn mấy vòng.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 28 tháng 11, năm 1984:

Dáng này kiểu nọ bất truyền

Gậy [kim cang] hét phá liền mối nghi

Đoạt châu, tháo gỡ, trình thi

Lời vàng chuyển đạo xưa nay mật huyền

Môn nhân hỏi đạo bản nguyên

Nắm tay biểu thị cơ duyên diệu kỳ

Vô bệnh an tọa hồi quy

Đốn ngộ sinh tử thoát ly buộc ràng.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 10 Jan 2016, 2:01 AM | Message # 188
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.33 Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư 

Sư họ Vương, người đất Dư Hàng, sau đến ngọn Thiên Trụ ở núi Thiên Thai yết kiến Thiều quốc sư tập tu thiền, được trọng và mật trao huyền chỉ, nói: “Ông có duyên với vị sư trước, sau này hãy đại hưng Phật pháp. Trung Ý Vương mời khai mở chùa Linh Ẩn trên núi. Năm sau đó đi về Vĩnh Minh. Một vị tăng hỏi: “Diệu chỉ của Vĩnh Minh là gì?”. Đáp: “Thắp thêm hương cho sáng tỏ”. Hỏi: “Xin sư chỉ rõ hơn”. Đáp: “Nên vui mừng vì mất tất cả giao tế”. Vị tăng lễ bái. Sư nói: Hãy lắng nghe ta nói kệ:

Muốn biết yếu chỉ Vĩnh Minh

Hãy nhìn hồ nước trước cửa

Mặt trời chiếu, hiện quang minh

Gió đưa thì sóng gợn.

Lại hỏi: “Đại viên kính là gì?”. Đáp: “Bồn cát vỡ tung”. Ngày 26 tháng 12, năm Khai Bảo thứ 8 sư thắp hương cáo biệt đồ chúng mà hóa. Tháp dựng tại Đại Từ, sau dời về Vĩnh Minh. Vua Tống thái Tông ban tặng biển ngạch là Thọ Ninh Viện.



Bài tán:

Đập vỡ bồn cát

Làm kính đại viên

Chiếu diệu càn khôn

Thấp cao đều ứng.

Hoằng khai tông môn

Bao quát thánh hiền

Mắt sông miệng biển

Tất cả là lệnh.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 4 tháng 12, năm 1984:

Thiền Tịnh như cọp mang sừng

Hồng danh Phật Tổ muôn phần chấn hưng

Ba đời pháp nhãn truyền tông

Tịnh độ chín phẩm tâm thông nối hàng

Đại viên kính rạng tuệ quang

Bản tông hiển lộ vỡ tan cát, bồn

Sóng êm phẳng lặng mặt hồ

Tác phong rạng rỡ vô cùng độc tôn.



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 10 Jan 2016, 11:29 PM | Message # 189
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.34 Phật Ấn Liễu Nguyên Thiền Sư 

Sư họ Lâm, tự là Bảo Giác, người đất Phù Lương. Khi sinh ra có ánh sáng, tóc râu đều đủ. Lên 2 tuổi đã biết tụng thi thư, lúc trưởng thành lãm thông điển tịch, thường không mở sách ra hai lần. Nhân đọc kinh Lăng Nghiêm có chỗ ngộ, từ biệt cha mẹ xuất gia, lễ bái chùa Bảo Tích học kinh Pháp Hoa, thọ giới cụ túc. Sau đó yết kiến sư [Thiện] Tiêm ở chùa Khai Tiên, Lư Sơn, đối đáp sắc bén nên được khen thưởng, trở thành đệ tử nối pháp. Sư lại tham vấn sư Viên Thông [Cư] Nột. Sư Viên Thông nói: “Khí phách tương tự sư Tuyết Đậu, sẽ là hàng kiệt xuất của hậu lai”. Sư lại làm thư ký cho chùa. Sư trụ tại chùa Thừa Thiên ở Giang Châu, sau đó đến Hoài Nam, Thập Phương. Sau về chùa Khai Tiên ở Lư Sơn phát huy tông phái xưa, được bổ nhuận tại Kim Tiêu. Sau lại đến Đại Ngưỡng Vân Cư ở Giang Tây. Trong suốt 40 năm giao tiếp cùng hàng nhân sĩ đương thời. Năm Nguyên Phù thứ nhất đời Tống, vào ngày 4 tháng giêng có một người khách đến nói đã hiểu được tâm. Sư cười mà hóa, như sư Chân Chiếu.



Bài tán:

Trúng độc Lăng Nghiêm

Chết tại Khai Tiên

Răng bén ngà hung

Các phương nhức đầu.

Lấn thánh ép hiền

Vớt rồng, bắt phượng

Tả đúng như sư

Cười đời tan mộng.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 19 tháng 3, năm 1985:

Ấn thiền sư ấn Phật tâm

Đông Pha cư sĩ phương Đông nghiêng rừng

Lọt lòng râu tóc anh hùng

Lớn lên đọc tụng tinh thông điển phần

Lăng Nghiêm đại định kiên tâm

Pháp Hoa chiếu diệu kinh văn thật, quyền.

Vô sở trụ, cười qua đời

Bốn phương trên dưới tùy thời dọc ngang.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 10 Jan 2016, 11:32 PM | Message # 190
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.35 Vân Cư Đạo Tề Thiền Sư 



Sư họ Kim, người đất Hồng Châu, tham vấn các thiền hội không dừng nghỉ. Sau đó đến gặp Pháp Đăng thiền sư, cơ duyên hòa hợp. Sư có bài tụng:

“Tiếp vật lợi sinh diệu kỳ

Chủ ngoài nào có thứ gì tốt hơn

Nhà ta tự có cháu con

Tương lai hữu dụng lại còn tốt tươi”.

Sư lại bảo môn đồ: “Tổ Đạt Ma nói rằng kinh Lăng Già khả dĩ ấn tâm. Ta đọc kinh ấy, có câu kệ rằng:

“Các pháp không pháp thể

Thuyết rằng chỉ có tâm

Nếu không thấy tự tâm

Liền khởi sinh phân biệt.

Đáng là bậc cha hiền

Lời lời đều như thực.”

Một vị tăng hỏi: “Thế nào là Phật?. Sư đáp: “Ông là ai?”. Sư trụ tại ba xứ Đông Thiền, Song Lâm, và Vân Cư, sưu tập và trước tác huyền ngữ xưa, thịnh hành ở thế gian.



Bài tán:

Thế nào là Phật?

Mày tên là chi?

Tâm không thấy tâm

Xứ nào phân ly.

Dòng ngoài không giống

Đạo ta không con

Đời xưa hẳn vậy

Đại từ đại bi.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 20 tháng 3, năm 1985:

Núi Vân cao dừng chân sư tử

Đất Giang Tây long tượng đại hưng

Đạo công chiếu pháp độ tăng

Đuốc hoa kim cổ xóa tan u trầm.

Lăng Già kinh ấn tâm, khai nhãn

Bát nhã văn ly tướng, độ mê.

Từ bi hỉ xả tứ thiền

Cõi này, phương ấy khắp miền quy y.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 10 Jan 2016, 11:34 PM | Message # 191
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.36 Phù Dung Đạo Khải Thiền Sư 

Sư họ Thôi, người đất Nghi Châu. Thuở nhỏ học tịch cốc nơi núi Y Dương, sau thi Pháp Hoa kinh mà được độ. Sư tham yết sư Đầu Tử, nơi hải hội sư thưa: “Ngôn giáo của Phật Tổ như cơm nước hằng ngày, nếu ngoài những thứ này thì người và nơi chốn đều không?”. Sư Đầu Tử nói: “Ông nói đi, với các thiên tử, Nghiêu Thuấn cũng là không cả ư?” Sư định đối đáp nhưng sư Đầu Tử dùng phất trần ngăn lại, bảo: “Ông mà khởi niệm thì liền ăn 30 gậy đó”. Sư hốt nhiên khai ngộ, liền lễ bái lần nữa rồi từ tạ. Sư Đầu Tử nói: “Hãy đến chỗ xà lê”. Sư không ngoảnh lại. Sư Đầu Tử nói: “Ông hãy đến chỗ không còn nghi ngại”. Sư bịt tai, đi thẳng. Sau sư trụ tại Đông Kinh, Thiên Ninh. Sư được ban áo ca sa màu tía hai lần, và tặng hiệu là Định Chiếu thiền sư, nhưng sư đều không nhận. Ngày 14 tháng 7 năm Mậu Tuất, đời vua Tống Huy Tông, thời Trọng Hòa nguyên niên, sư viết kệ từ biệt đồ chúng, và thị tịch.

Bài tán:

Đạo hạnh của sư

Ngọc ẩn Kinh Sơn

Nguyện lìa danh lợi

Tán tụng chẳng cần.

Kiêu vinh ngạo quyền

Ai người chẳng thẹn

Sư biểu trong pháp

Ngàn năm tương quan.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 20 tháng 3, năm 1985:

Không thoái, nghe một ngộ ngàn

Trăm chốn vạn loại cũng bằng như như

Ba mươi gậy, khởi ngôn từ

Chẳng còn nửa chữ, suy tư tuyệt dòng

Tạ từ nhẹ bước phiêu bồng

Che tai chẳng ngó, lý thông, sự tường.

Pháp môn mẫu mực cho đời

Quy phạm, khuôn phép rạng ngời cổ kim.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 10 Jan 2016, 11:47 PM | Message # 192
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.37 Viên Chiếu Tông Bổn Thiền Sư



Sư họ Quản, người đất Vô Tích, Thường Châu, đến Trì Dương tham yết sư Thiên Y Nghĩa Hoài. Sư Nghĩa Hoài nêu câu hỏi: “Bồ tát Thiên Thân từ nội cung Di Lặc xuống trần. Bồ tát Vô Trước hỏi rằng 400 năm ở nhân gian bằng một ngày một đêm nơi cõi trời kia. Bồ tát Di Lặc trong một lúc, thành tựu cho 500 ức thiên tử chứng pháp nhẫn vô sinh, chưa rõ là pháp gì?”. Sư Thiên Thân đáp: “chỉ nói pháp ấy, pháp ấy là pháp gì?”. Sư nghe một lúc sau thì tỏ ngộ. Một hôm trong thất có người hỏi: “Tức Tâm tức Phật, lúc ấy thì thế nào?”. Sư đáp: “Giết người, phóng hỏa thì có khó khăn gì?”. Danh tiếng sư từ đó vang khắp. Tháp dựng tại Tô Châu Linh Nham, táng toàn thân.



Bài tán:

Người thuyết pháp ấy

Phạm âm thâm diệu

Tức Phật tức tâm

Chỉ một nụ cười.

Phóng hỏa sát nhân

Khảy đàn khác điệu

Vui náo cung đình

Pháp đăng tỏa chiếu.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 21 tháng 3, năm 1985:

Vô Trước hóa độ Thiên Thân

Lưỡi này hồi Tiểu, hướng căn Đại thừa

Năm ức chứng pháp vô sinh

Sáu thức thể tánh tịnh minh cũng đồng

Diệu nghĩa tiềm ẩn chưa thông

Điêu tàn thế sự, thử trông nhân tình

Kinh bốn bể, động cung đình

Đức nghiệp Tông Bổn, một vành càn khôn.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 10 Jan 2016, 11:50 PM | Message # 193
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.38 Linh Ẩn Văn Thắng Thiền Sư 



Sư thừa kế thiền sư Đạo Tề ở núi Vân Cư. Một vị tăng hỏi: “Gương xưa lúc chưa đánh bóng thì như thế nào?”. Đáp: “Là gương xưa”. Hỏi: “Sau khi đánh bóng thì thế nào?”. Đáp: “Là gương xưa”. Hỏi: “Chưa rõ về chỗ phân biệt hoặc không phân biệt”. Đáp: “Soi thì biết”. Hỏi: “Thế nào là gia phong của hòa thượng?” Đáp: “Chớ nên nghi ngờ chỗ nguyên sơ”. Hỏi: “Hốt nhiên gặp khách đến thì phải làm sao?”. Đáp: “Nên uống trà”.



Bài tán:

Gương lau chưa lau

Ai xét phân đây

Trở lại xét đoán

Hai đầu ba tay.

Chớ lạ nguyên sơ

Gia phong không khác

Khách đến tiếp đãi

Uống trà rồi đi.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 22 tháng 3, năm 1985:

Bảy Phật quá khứ Hàng Châu

Cổ đức Linh Ẩn tịnh tu ngày này

Thiền sư Văn Thắng bậc thầy

Tăng già, học giả quy lai thỉnh cầu

Chén trà mời khách, đạo sâu

Ngưỡng trông đỉnh biếc người mau tìm về

Gương tâm chiếu rạng trầm mê

Bắc Đẩu ngàn dặm bốn bề quang huy.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 10 Jan 2016, 11:58 PM | Message # 194
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.39 Đan Hà Tử Thuần Thiền Sư 

Sư họ Cổ ở Kiếm Châu. Năm 16 tuổi xuất gia, đến với sư Phù Dung và đạt được yếu chỉ. Một lần nọ sư thăng đường, nói: “Trong vũ trụ có một vật báu ẩn tại Hình Sơn. Triệu pháp sư vì sao giải nói tung tích mà không nói rõ cho người biết?. Ngày nay Đan Hà tôi mở khai vũ trụ, đập phá Hình Sơn, vì các người mà khai mở. Những người có mắt nên nắm lấy, chống giữ”. Một hôm, sư nói: “Trở lại thấy được gì chăng? Chim cốc* đứng trên tuyết thì màu sắc không đồng. Trăng sáng chiếu trên cụm hoa lau** cũng chẳng giống nó”. Mùa xuân năm Tuyên Hòa sư thị tịch, táng toàn thân, tháp dựng phía Nam núi Hồng Sơn.



Bài tán:

Nhập thất Phù Dung

Quên đường lại qua

Đập nát Hình Sơn

Không gốc mà dựa.

Vua tôi hợp đạo

Trăng lau**, chim* ẩn

Quay thuyền từ lại

Đưa người vô số.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 26 tháng 3, năm 1985:

Hai mươi tuổi tăng tìm người trí

Định tuệ trì nhập thất Phù Dung

Hình Sơn báu vật đất trời

Biển khơi nghiệp tựa mây trôi bềnh bồng

Phá chấp tướng còn đâu chỗ trụ

Tức Bồ Đề quy giác, phản mê

Ngã nhân quay chiếc thuyền về

Cùng sang bến giác chớ hề ngờ chi.

………………………………

*Lô tư 鸕鷀 chim cốc, một giống chim ở nước, lông đen mỏ dài, hơi khum khum, tài lặn xuống nước mò cá ăn.

**Lô hoa 蘆花 cỏ lau, sậy, thường mọc ở bờ nước, dùng làm mành mành, lợp nhà.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 11 Jan 2016, 1:04 AM | Message # 195
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.40 Tông Trách Từ Giác Thiền Sư



Sư họ Tôn, người đất Lạc Châu, đắc pháp với sư Quảng Chiếu, và thừa kế Trường Lô. Một vị tăng hỏi: “Tổ Đạt Ma quay mặt vào vách, ý nghĩa như thế nào?”. Sư lặng yên một lúc, vị tăng đảnh lễ. Sư nói: “Hôm nay bị ông tăng này hỏi, tôi câm miệng”. Sư thăng đường, nói: “Đông đến tiết trời hàn thực, có một trăm lẻ năm người sống, trên đường vô số người chết. Chui đầu vào nơi gai gốc, lại bảo là chúng sinh khổ. Bái lạy xong rồi thì sao nữa?. Trên đống xương lại bồi thêm đất. Chỉ có người xuất gia, không đi trên con đường vô sinh. Này đại chúng, nên hướng về điều gì?. Nam Thiên Thai hay Bắc Ngũ Đài. Tham cứu!. 



Bài tán:

Mở một mối đạo

Thiền Tịnh đối lập

Nào quyền nào thật

Ngàn thánh chẳng biết.

Đại sĩ ứng hóa

Nghịch thuận khó lường

Rừng đông lập hội

Hùng Nhĩ diện bích.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 27 tháng 3, năm 1985:

Giới Chi Thôi núi Miên hỏa táng

Âm và dương sai khác bất hồi quy.

Văn công cấm nổi lửa hồng

Người trí thuyết pháp một đồng xương khô

Xuất gia danh lợi thờ ơ

Riêng lòng siêu thoát vượt bờ bay cao

Nếu hỏi cứu cánh là đâu

Tùng xanh trúc biếc non đầu hoa mai.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 11 Jan 2016, 2:55 AM | Message # 196
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.41 Trường Lô Sùng Tín Thiền Sư 



Sư thọ yếu chỉ riêng trong thất của sư Viên Chiếu. Sau trụ ở chùa Trường Lô. Một vị tăng hỏi: “Lúc Phật chưa xuất thế thì sao?”. Sư nói: “Trời tạnh thì mang giày chạy”. Hỏi: “Sau khi xuất thế thì sao?”. Đáp: “Mưa xuống thì để chân không mà đi”.



Bài tán:

Trời tạnh mang ủng

Phật chưa xuất thế

Sau xuất ra sao

Chỉ ngay như vậy.

Như bò không sừng

Cọp lại có cánh

Gương trí tròn sáng

Đêm sông băng cuộn.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 29 tháng 3, năm 1985:

Truyền y thụ bát chỉ ngay

Thăng đường nhập thất mở bày ma ha.

Phật chưa xuất thế mang giày chạy

Tăng đã hưng thịnh chân không đi

Bò không sừng khó mà trì

Cọp kia thêm cánh dễ phi lên trời

Trí ngọc vạn dặm rạng ngời

Giúp người giúp vật khắp nơi chẳng cùng.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 11 Jan 2016, 3:17 AM | Message # 197
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.42 Trí Giả Tự Như Thiền Sư 

Sư họ Hạ, người phủ Thọ Xuân, lúc sinh ra có ánh sáng lành hiện quanh nhà. Năm 14 tuổi theo học sư Tịnh Chiếu ở Gia Hòa. Sư Tịnh Chiếu đưa ra nhân duyên Lương Toại gặp Ma Cốc. Hỏi: “Lương Toại nhận biết về nơi chốn ra sao?”. Sư tức thì rỗng suốt. Sau sư được sư Sùng Tín ở Trường Lô ấn tâm, đ ư ợc chỉ định đến Tiêu Sơn trụ trì. Một vị tăng hỏi: “Thế nào là Phật?’ Đáp: “Mặt vàng không phải là gắn vàng vào.” Hỏi: “Thế nào là việc hướng thượng của Phật?.” Đáp: “Một mũi tên, một hoa sen”. Vị tăng đảnh lễ. Sư bấm ngón tay ba lần. Sau sư trụ tại núi Linh Nham, Tô Châu. Lại lui về Bao Sơn và thị tịch tại đây. Tháp dựng phía sau chùa.

Bài tán:

Vừa lọt lòng mẹ

Chiếu sáng điềm lành

Tiếp cận liền biết

Căn xưa không che.

Dẫn người đời sau

Tâm từ cùng khắp

Đỉnh núi Linh Nham

Viên âm còn đây.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 30 tháng 3, năm 1985:

Thông túc mạng ngôi nhà rực sáng

Cao rộng thay, trí tuệ biện tài

Quy y tam bảo trọn đời

Cúi mình quy hướng về nơi thượng thừa

Truyền y pháp Tín công ấn chứng

Tiếng thần chung khai trí học tăng

Dạy người chẳng ngại khó khăn

Khoác áo dũng mãnh, Nham phong vững vàng.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 12 Jan 2016, 4:41 AM | Message # 198
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.43 Chân Hiết Thanh Liễu Thiền Sư

 

Sư họ Ung, người đất Tả Miên. Lúc còn bồng trên tay vào chùa thấy tượng Phật thì vui mừng, nhìn không chớp mắt, mọi người đều cho là kỳ lạ. Thi kinh đắc pháp, đến chỗ của sư Đan Hà. Sư Đan Hà hỏi: “Cái ta trước kiếp Không là gì?” Sư không trả lời được. Ông đến đây náo loạn à?. Sư bỏ đi. Một ngày nọ, sư leo lên núi Bát Vu, hốt nhiên khế ngộ, khi về đứng bên thầy. Sư Đan Hà đưa bàn tay ra, nói: “ Ta sắp nói cho ông biết đây”. Sư hoan hỷ bái tạ. Sau thăng đường nói: “Dưới một bàn tay của thầy tôi, có đủ tài nghệ, nhưng tìm kiếm chỗ mở miệng chẳng thể được”. Sư thị tịch tại Cao Ninh, Sùng Tiên, tháp dựng tại phía Tây Hoa Tướng Ô, thụy là Ngộ Không thiền sư.  



Bài tán:

Dưới lòng bàn tay

Có đủ tài nghệ

Vừa nói thoáng qua

Người nghe diễu cợt.

Luồng sáng đêm trăng

Đầm trong không ảnh

Khéo vụng chẳng có

Kim vàng ẩn kín.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 31 tháng 3, năm 1985:

Dứt cuồng nghe được chuông Bồ Đề

Niệm Không, hạt bụi chẳng hề vướng thân

Đan Hà tay mở ngụy, chân

Thanh Liễu cứng miệng, tích tung chẳng còn.

Muốn hé răng, lưỡi thì khó mở

Cúi rạp mình hớn hở lòng vui

Đêm tràn ánh nguyệt một trời

Đầm trong ảnh hiện không dời tây đông.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 12 Jan 2016, 4:44 AM | Message # 199
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.44 Thiên Đồng Hoành Trí Thiền Sư

Sư họ Lý người đất Thấp Châu, đắc pháp tại chùa Tịnh Minh, 14 tuổi thọ giới cụ túc, 18 tuổi du phương cầu học, đến Nhữ Châu Hương Sơn thì không phát huy thêm được gì, sau đó tham vấn có chỗ tỉnh ngộ. Sau đó yết kiến sư Đan Hà, sư Đan Hà hỏi: “Trước kiếp Không thì như thế nào?” Sư đáp:

“Đáy giếng ểnh ương toan nuốt trăng

Ba canh không dựa bóng trăng vàng”.

Sư Đan Hà nói: “Chưa ở đây mà đã đổi đường” . Sư định đối đáp thì sư Đan Hà đánh một phất tử, bảo: “Đã nói rằng không nương dựa”. Sư nghe liền tỉnh ngộ, liền đảnh lễ. Sư Đan Hà nói: “Sao không nói một câu?”. Đáp: “Hoành Trí hôm nay không hợp cơ nên có tội”. Sư Đan Hà nói: “Chưa rảnh để đánh ông đấy”. Sau sư trụ tại các chùa Trường Lô, Thiên Đồng, nơi có nhiều người tu hành. Ngày 8 tháng 10 năm Đinh Sửu Thiệu Hưng đời nhà Tống, sư đoan tọa cáo chúng, đề bài kệ, và hóa. Nhục thân quàng 7 ngày, sắc diện như còn sống. Tháp dựng tại Đông Cốc.



Bài tán:

Đan Hà một phất

Vứt bỏ hòn bùn

Vượt qua kiếp Không

Tự sờ lấy mũi

Ba canh chẳng dựa

Mất tiền chịu khổ

Một núi Thái Bạch

Pháp tuôn đại địa.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 8 tháng 4, năm 1985:

Tuổi thơ vào Tịnh Minh lìa tục

Quyết lòng xa ái, nhạt tình thân

Ếch nằm đáy giếng khó nuốt trăng

Không trung thừa sức chim Bằng bay cao.

Suy luận tức sai đệ nhất nghĩa

Biện phân tự trái nẻo ngàn trùng

Xưa nay pháp chủ Thiên Đồng

Đan Hà phất tử tỏ thông kinh huyền.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 12 Jan 2016, 4:46 AM | Message # 200
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
3.45 Từ Thụ Hoài Thâm Thiền Sư

Sư thừa kế thiền sư Bảo Phúc Cư Hú. Một vị tăng hỏi: “Thế nào là Phật?”. Sư đáp: “Lượng tài mà bổ chức vụ”. Vị tăng nói: “Sau khi bổ chức thì như thế nào?”. Sư đáp: “Cây tích trượng của Thiên Thai Tông”. Hỏi: “Thể chân thực là gì?”. Sư đáp: “Hôm nay thích trời lạnh”. Vị tăng nói: “Ý chỉ là gì?”. Sư đáp: “Ngàn núi vạn núi có tuyết”. 



Bài tán:

Tam giác hoàn chỉnh

Lượng tài bổ chức

Cây gậy Thiên Thai

Tùy duyên du thực.

Hôm nay rất lạnh

Núi tuyết một màu

Thể tánh chân thật

Nhớ mãi ngàn thu.



Kệ:

Tuyên Công thượng nhân viết ngày 10 tháng 4, năm 1985:

Thiền tông đoạn ngay tâm ý thức

Phân biệt suy lường diệt sở tri

Hỏi đây đáp đó ngôn điên đảo

Sự lý cắt chia ngữ thị phi.

Thực tánh hôm nay ngầm ẩn chứa

Đâu là cứu cánh, Tuyết Sơn trì.

Ậm ừ ứng đối qua con tạo

Ý lời tan tác, niệm còn chi.


Đại Bi Chú
 
FORUM » TRANG PHẬT GIÁO » TRUYỆN PHẬT GIÁO » Phật Tổ đạo ảnh
Search:


TỰ-ĐIỂN TRỰC-TUYẾN :

Từ Điển Online
Bấm vào dấu V để chọn loại Tự-Điển
Gõ Chữ muốn tìm vào khung trắng dưới đây:
Xong bấm GO