Thứ Năm
18 Apr 2024
10:07 PM
ĐĂNG NHẬP


Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

[ BÀI VIẾT MỚI · Forum rules · TÌM KIẾM · RSS ]
FORUM » TRANG PHẬT GIÁO » TRUYỆN PHẬT GIÁO » Phật Tổ đạo ảnh
Phật Tổ đạo ảnh
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 26 Sep 2015, 11:56 PM | Message # 51
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 36. Thiền sư Cổ Sơn Linh Kiệu (? _ ?)

Không rõ sư từ đâu đến, cùng thiền sư Linh Mặc ở núi Ngũ Tiết được Mã Tổ ấn tâm. Sư ẩn cư trong động trước núi Cổ sơn, do đó lấy tên sư. Chùa Dũng Tuyền vốn có cái đầm sâu là hang của một con rồng độc, thường làm hại dân. Một vị quan tòng sự tên là Bùi Trụ thỉnh sư điều phục rồng dữ. Sư đến đầm đó tụng kinh Hoa Nghiêm. Rồng trồi lên nghe kinh rồi bỏ đi. Dân chúng cảm ân đức sư nên dựng chùa nơi đây thỉnh sư trụ trì. Sư khai pháp năm thứ tư đời Đường. Vua ban hoành phi Hoa Nghiêm hoằng hóa đại pháp. Về sau không rõ sư về đâu. Đây là dựa theo quyển Hoằng Thích Lục và quyển kỷ yếu của Phúc Kiến.  



Bài tán:

Khế cơ Mã Tổ

Thần châu vô giá

Xiển dương Hoa Nghiêm

Rồng nép dưới thềm.

Mở rộng Thạch Cổ

Sấm sét hóa truyền

Uy nghi muôn thuở

Tỏa sáng ngày đêm.



Bài kệ: 

Ngày 16 tháng 12 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Cổ sơn Phúc Kiến diệu pháp tràng

Cao tăng dựng đạo trải thời gian

Thiền sư Linh Kiệu hàng long độc

Hổ phương* ban tặng dưới triều Đường.

Sử sách Hoa Nghiêm ghi đức nghiệp

Biển ngạch Dũng Tuyền chép ổ hang

Chẳng rõ cuối cùng đâu dấu tích

Kim cổ trong ngoài rạng nguyệt quang.

…………..

*hoành phi, tấm biển treo ngang giữ nhà


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 26 Sep 2015, 11:57 PM | Message # 52
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 36. Thiền sư Nga Hồ Đại Nghĩa (745-818)

Sư họ Từ, người Cù Châu, Tu Giang, kế thừa pháp của Mã Tổ. Vua Đường Hiển Tông thường vời vào điện Lân Đức luận nghĩa và đối đáp Phật pháp. Pháp sư thường yên lặng. Sư lấy dụ vua Thuận Tông hỏi Thi Lợi thiền sư: “Chúng sinh khắp các cõi làm thế nào kiến tánh thành Phật?”. Thiền sư Thi Lợi nói: “Phật tính như trăng trong nước. Thấy được nhưng không nắm bắt được. Vì vua mà nói rằng Phật tính không thấy tức thấy. Trăng trong nước thì làm sao mà nắm bắt được”. Vua lại hỏi: “Phật tính là gì?”. Sư đáp: “Không lìa chỗ bệ hạ hỏi”. Vua thầm khế hội. Vị thượng thư tên Lý Cao hỏi: “Cái dụng đại bi của thiên thủ thiên nhãn là gì?”. Sư nói: “Vua dùng các ông làm gì?”. 



Bài tán:

Nga Hồ có biệt tài

Không phải chỉ tám đấu

Luận nghĩa nơi Lân Đức

Pháp sư thường lặng thinh.

Thế nào mới là thiền

Chỉ tay vào hư không

Phật tánh không sao thấy

Nói lời lưu đời sau.



Bài kệ:

Ngày 14 tháng 12 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Thiên địa tạo hóa ẩn diệu huyền

Núi sông linh khí lộ chân nguyên

Nga Hồ Đại Nghĩa thường im lặng

Bậc thánh Trọng Ni chẳng ngữ truyền.

Thấy đâu Phật tính mà toan đắc

Đạo pháp chuyên cần chớ thản nhiên

Từ bi nên dụng ngàn tay, mắt

Hoàng đế đâu rời trăm tôi hiền.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 26 Sep 2015, 11:57 PM | Message # 53
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 37. Thiền sư Hoàng Bách Hy Vận (?- 850)

Sư người Phúc Châu, tham vấn tổ Bách Trượng một câu cứu cánh hằng ngày. Tổ Bách Trượng đề xướng nhìn lại nhân duyên, nói: “Trước kia lão tăng bị Mã đại sư quát cho một tiếng đến ba ngày sau tai vẫn còn điếc”. Sư nghe vậy bất giác le lưỡi. Tổ nói: “Về sau phải chăng ông không theo học Mã Tổ?”. Sư đáp: “Không phải vậy. Hôm nay nhờ thầy mà thấy được cái dụng nơi đại cơ của Mã Tổ, mà chưa thấu suốt được Mã Tổ. Nếu thừa kế Mã Tổ thì sẽ mất hết cháu con”. Tổ Bách Trượng nói: “Như thị. Như thị. Cái thấy đồng với thầy thì giảm phân nửa đức của thầy. Cái thấy vượt hơn thầy thì mới có thể truyền thụ. Ông đã được cái thấy hơn thầy rồi đó”. Khi Bùi tướng quốc tại Uyển Lăng lập chùa, thỉnh sư khai pháp. Năm Đại Trung thứ ba, đời Đường Tuyên Tông sư thị tịch. Thụy là Đọan Tế thiền sư, tháp tên Quảng Nghiệp. 



Bài tán:

Cùng muốn chặt ngắn chân*

Vì Mã Tổ thè lưỡi

Uy nghi và đoan chánh

Không đến nơi Lĩnh Bắc

Gậy pháp đập mở mắt

Như lửa nung đốt đá

Con cháu ở dưới chân

Chính thị kẻ đạo tặc.

………………………………

*Cẳng chân, từ đầu gối đến chân. § Tục gọi là tiểu thối 小腿. ◇Nguyễn Du 阮攸: Tính thành hạc hĩnh hà dung đoạn 性成鶴脛何容斷 (Tự thán 自嘆) Chân hạc tánh vốn dài, cắt ngắn làm sao được.



Bài kệ:

Ngày 21 tháng 12 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Tiếng gào Mã Tổ điếc ba ngày

Cơ hồ chết dỡ sống lại ngay

Dựa nơi tuệ trí, ai thầy tớ

Nào thánh nào hiền, khế đại tông

Vườn thiền hộ pháp Bùi Hưu lập

Ông dạy tăng nhân dưỡng khí hùng

Nhập đạo yếu môn mê mộng tỉnh   

Cháu con vạn thế nối dòng Không.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 26 Sep 2015, 11:58 PM | Message # 54
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 37. Thiền sư Triệu Châu Tùng Thẩm (778-897)

Sư họ Hác, người Tào Châu, từ nhỏ đã theo thầy tại bổn châu xuất gia, sau đến Trì Dương tham vấn tổ Nam Tuyền. Tổ hỏi: “Ai là sa môn?”. Sư đến trước tổ bái lạy. Tổ nói: “Vào Đông trời lạnh, xin hòa thượng trân trọng vạn phúc”. Tổ biết là bậc pháp khí nên cho nhập thất. Một hôm, Sư hỏi tổ Nam Tuyền: “Đạo là gì?”. Tổ nói: “Đạo không dính dáng gì đến việc biết hay không biết. Biết là vọng. Không biết là vô ký. Đến được chỗ không nghi tức là đạo, như thái hư rỗng rang, không thể dùng tên gì để gọi được. Sư nghe rồi liền đốn ngộ. Sau sư đến giới đàn lưu ly thọ giới, lại trụ ở viện Quán Âm, truyền pháp huyền đến khắp thiên hạ, người người tôn kính. Ngày 24 tháng 11 năm Càn Ninh thứ tư, sư quay mặt về hướng tây mà hóa, thọ 120 tuổi, thụy là Chân Tế Đại Sư.



Bài tán:

Cải trắng đất Trấn Châu

Trái bầu nơi tường đông

Cây bách ở trước sân

Đất rộng há hồ đồ.

Cửa ải của Triệu Châu

Anh qua như không qua

Chỉ nam mà nói bắc

Đập nát bệ nấu trà.



Bài kệ:

Ngày 3 tháng 1 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Tào châu, Triệu châu lại Trấn châu  

Cải trắng, dầu tùng đến trái bầu

Cho vào lò luyện cùng nung nấu

Hốt nhiên thông suốt chẳng có, không

Bản lai ngộ triệt lìa chư tướng

Sinh tử rõ thông vạn sự dừng

Chỉ vì chưa rõ nên nhiều nghĩa

Bắc Nam lặn lội luống chạy rong.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 0:25 AM | Message # 55
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 37. Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu (771-853)

Sư sinh tại Phúc Châu, họ Triệu. Năm 23 tuổi đếm tham vấn tổ Bách Trượng. Tổ Bách Trượng cho nhập thất nhân vì thấy lửa cháy mà phát ngộ, được giữ chức điển tọa. Tổ Bách Trượng tuyển chọn người trụ trì ớ Quy Sơn, cho gọi sư đến, nói: “Ta thì ở đây hóa duyên. Quy Sơn là thắng cảnh, ông nên đến ở lại đó nối truyền tông phái của ta, rộng độ người đời sau để rạng rỡ thêm.” Thưa rằng: “Tôi đang làm thượng thủ ở đây, làm sao đến đó trụ trì được?”. Tổ Bách Trượng nói: “Nếu trước tăng chúng mà có thể nói được một câu siêu xuất thì có thể cùng ở đây". Nói rồi liền chỉ vào chiếc tịnh bình, hỏi: “Nếu không được gọi là tịnh bình thì ông gọi là gì?”. Thưa: “Cũng không được gọi là miếng gỗ vậy”. Tổ Bách Trượng toan hỏi sư, sư đá tung chiếc bình mà đi ra. Tổ cười nói: “đệ nhất tọa nên để cho Sơn tử thôi” Sau đó sư đến Quy Sơn, xưng là tông Quy Ngưỡng. 



Bài tán:

Đá tung tịnh bình 

Quy Sơn nổi sóng

Trâu ngủ li bì

Dưới bóng dương xanh

Chẳng tịch chẳng nhàn

Ai biết vì đâu

Một cành đâm chồi

Gió xuân đào lý.



Bài kệ:

Ngày 22 tháng 12 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Dưỡng pháp tử, Phúc Châu thiêng khí

Con người họ Triệu điển kinh thông

Đá bình, chẳng nói mông lung

Thành tựu đạo khí, minh công mới là.

Quy Sơn cao diệu đầu Nam quốc

Tổ Hựu phẩm tiết vượt Tây kinh

Mận đào nẩy lộc một cành

Vạn phương tam bảo hưng bình Phật môn.



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 0:27 AM | Message # 56
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 38. Thiền sư Mục Châu Đạo Minh (780-877)

Sư họ Trần, người Mục Châu, lúc sinh ra ánh sáng lạ tỏa đầy phòng, mắt có hai đồng tử, trên mặt có bảy nốt ruồi. Một dịp đến chùa Khai Nguyên, lòng thấy quen thuộc dường như đã từng đến nơi đây, sau đó xin phép cha mẹ xuất gia. Sư trì giới du phương, theo học yếu chỉ của tổ Hoàng Bách, được bổ làm thủ chúng, sư Lâm Tế Nghĩa Huyền nhân nơi sư mà khai phát. Sư Vân Môn Văn Yển đến hỏi đạo, ba lần cửa đóng, khiến sư Vân Yển cảm thấy như không được vững vàng. Khi sư Vân Yển đối đáp, ngộ nhập thì được giới thiệu đến gặp sư Tuyết Phong. Sau đó sư về chùa Khai Nguyên, đan giày cỏ nuôi mẹ. Một hôm có bọn cướp đánh vào, sư lấy một chiếc giày cỏ lớn treo trên thành. Bọn cướp dùng hết sức vẫn không nhấc lên được, kinh hãi thối lui nên trong vùng được an ổn. Lúc lâm chung, sư cho gọi đệ tử đến, nói: “Ta đã hết duyên chốn này nên ra đi”. Nói rồi an tọa mà hóa. Đồ chúng dùng củi thơm hỏa táng, được xá lợi nhiều như mưa. Lại đúc tượng thờ trong chùa. Sư thọ 98 tuổi, xuất gia 76 năm. 



Bài tán:

Cơ duyên như ánh chớp

Diệu dụng tợ rồng thần

Bảy tám món cổ quái

Tìm kiếm cũng về không.

Tay buông xuống nhàn hạ

Kiến lập nên hai tông 

Treo một chiếc giày cỏ

Giặc cướp sợ tránh ông.



Bài kệ:

Ngày 8 tháng 3 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Ánh sáng lạ, mắt có hai đồng tử

Chùa Khai Nguyên dường như đã cố tri

Thọ trai nghiêm tịnh tì ni

Cẩn ngôn khế hợp hành vi diệu kỳ.

Đan giày cỏ nuôi mẫu thân đạm bạc

Hết duyên trần thị tịch xá lợi thiêng

Nối liền giáo hóa cơ duyên

Đức ân vĩnh viễn lưu truyền thái không.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 0:30 AM | Message # 57
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 38. Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền (?- 867)

Sư người Nam Hoa, Tào Châu, họ Hình. Tại Hoàng Bách, hỏi: “Đại ý Phật pháp là gì?”. Tổ Hoàng Bách đánh cho một gậy. Ba lần hỏi đều bị đánh như vậy nên từ giả ra đi. Tổ chỉ cho đến tham vấn sư Đại Ngu. Sư nghe được ngôn thuyết của sư Đại Ngu mà tỏ ngộ. Sư trở lại chỗ Hoàng Bách, lại hỏi lời trước. Sư Hoàng Bách nói: “Lão Đại Ngu thật lắm chuyện. Chờ đến khi bị đánh đau thì biết ngay”. Sư nói: “Nói chờ làm chi, đánh ngay đây này”. Nói rồi cung tay đấm. Tổ Hoàng Bách nói: “Thật là phong cách của kẻ điên, dám đến đây nhổ râu cọp”. Sư quát lớn. Tổ Hoàng Bách nói: “Thị giả đâu, hãy đưa tên điên này lên sảnh đường”. Về sau sư trụ ở Lâm Tế, Trấn Châu, khiến tông chỉ của tổ Hoàng Bách rất hưng thịnh. Ngày 10 tháng 4 năm Hàm Thông thứ 8, sư an tọa mà hóa. Thụy hiệu là Tuệ Chiếu thiền sư, tháp tên Trừng Linh. 



Bài tán:

Nhận liền ba gậy 

Gãi sai chỗ ngứa

Đầu ghềnh Cao An

Bệnh cũ gặp thuốc.

Buông duỗi móng vuốt

Mất bảy mất tám

Mở tung cửa trời

Chánh pháp diệt độ.



Bài kệ: 

Ngày 27 tháng 12 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Lâm Tế một trời long tượng bay

Đại Ngu, Hoàng Bách đại từ tâm

Ba lần đánh hét cơ không ngộ

Một nắm tay đưa đoạn mê lầm.

Dám vuốt râu hùm không sợ chết

Nguyện cầu quả giác há dùng dằng

Chấn hưng tông chỉ khai tòa pháp

Trấn Châu mưa nhẹ, gió mang mang.



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 0:35 AM | Message # 58
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 38. Thìền sư Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch (807-883)

Sư họ Diệp, người Hoài Hóa. Năm 14 tuổi cha mẹ muốn sư có người hôn phối, sư không ưng thuận nên cắt ngón tay hết lòng quỳ trước cha mẹ xin được xuất gia cầu chánh pháp mong đáp nghĩa sinh thành. Sư được cha mẹ cho như ý. Đầu tiên sư tham vấn sư Đam Nguyên, rõ huyền chỉ. Sau đó đến Quy Sơn, vào được chỗ huyền áo. Một hôm tổ Quy Sơn hỏi: “Từ nơi nào đến?”. Sư đáp: “Giữa ruộng”. Tổ nói: “Giữa ruộng bao nhiêu người?”. Sư dựng cuốc khoanh tay. Tổ nói: “Hôm nay trên núi Nam có người cất lều cỏ”. Sư vác cuốc đi ra. Về sau sư trụ tại Ngưỡng Sơn. Một vị tăng đến chỗ sư nằm, hỏi: “ Phải chăng pháp thân cũng thuyết pháp?” Sư nói: “Ta không giảng được, nhưng có một người có thể giảng”. Hỏi: “Người có thể thuyết giảng ấy hiện ở đâu?” Sư đẩy cái gối ra. Tổ Quy Sơn nghe chuyện, nói: “ Họ Tịch sử dụng lưỡi kiếm tuyệt diệu !”.  



Bài tán:

Bỏ xuỗng bỏ cuốc 

Lừa giết Quy Sơn

Vác mai bước ra

Kiếm lạnh hơi sương.

Cha đó con đó

Hậu sinh khả úy*

Mây bay về núi

Cù Đàm đông độ.

………………….

*Màu xanh từ màu lam mà ra, ý nói người sau giỏi hơn người trước.



Bài kệ: 

Ngày 28 tháng 12 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Hoa chưa nở, lá rụng rơi về cội

Quyết chí xuất gia cự tuyệt hôn nhân

Cắt ngón tay, toàn thân cầu chánh đạo

Dứt ái ân, hoàn phục tánh nguyên chân.

Giữa đồng trống, lắm người an nhiên đứng

Trên dốc cao, ít kẻ bạn truông, đèo

Lưỡi gươm tuệ cắt lưới tình vọng dục

Rạng rỡ hào quang Quy Ngưỡng giáo môn.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 0:38 AM | Message # 59
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 38. Thiền sư Linh Thọ Như Mẫn (? - 920)

Sư người Phúc Kiến, thừa kế sư Trường Khánh từng có ảnh hưởng lớn đối với họ Lưu, được kính trọng, ban hiệu là Tri Thánh đại sư. Một vị tăng hỏi: “Lý cao siêu của Phật pháp là gì?”. Sư đưa hai tay ra. Lại hỏi: “Có duyên xứ nào?”. Sư nói: “Mặt trời mọc phương đông, mặt trăng lặn phương tây”. Trong suốt 30 năm sư chưa từng được mời giữ chức thủ tọa. Có người hỏi: “Vì sao không thỉnh mời?” Sư nói; “Ta đã là thủ tọa từ khi mới vừa sinh ra. Một ngày nói là xuất gia. Một ngày nói là hành cước”. Một hôm sư bảo đồ chúng ra cổng chùa đón một vị thủ tọa. Quả thực, sư Vân Môn đến. Sư hoằng pháp vùng núi Lĩnh hơn 40 năm, để lại nhiều kỳ tích. Vua Quảng Chủ dự định dấy binh, muốn thỉnh sư vào hỏi ý kiến. Sư biết trước nên an tọa mà hóa. Khi vua đến, hỏi một hòa thượng: “Sư bệnh khi nào?”. Đáp: “Không hề có bệnh, riêng lưu lại một phong thư cho đại vương”. Vua mở thư, thấy một tấm thiếp ghi: “Người trời có mắt. Thượng Tọa trong viện”. Vua hiểu ý nên ra lệnh lui binh. Sau đó trân trọng cung thỉnh vị sư đệ nhất khai đường thuyết pháp. Tại Vân Môn cũng dựng tháp thờ táng theo nghi lễ, Quảng Chủ ban tặng thụy hiệu là Linh Thụ thiền sư, tháp Chân Thân. 



Bài tán:

Sư an tọa đạo tràng

Tôn sùng đại chánh pháp

Bảy tám điều quái lạ

Tùy cơ duyên hí lộng.

Cùng người ba mươi năm

Lưu tờ thư hồi đáp

Thành tựu được việc lớn

Trên tòa cao gánh vác.



Bài kệ: 

Ngày 21 tháng 12 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Pháp tràng Linh Thụ tiếp mây xanh

Mai giữa trời đông lạnh mặc tình

Cửa Phật chân không là chân lý

Tăng già giới luật tịnh tham sân.

Trông chờ thủ tọa Văn công đến

Không mong Quảng chủ hỏi giao phong

An tọa qua đời thành đạo lớn

Tự tại thoát ra há bận lòng.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 0:43 AM | Message # 60
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 39. Thiền sư Hưng Hóa Tồn Tưởng (830-925)

Lúc đầu sư đến đạo tràng Lâm Tế, tiếp đó làm thủ tọa tại Tam Thánh. Từ sư Đại Giác, sư nghe việc tiên sư Lâm Tế nhờ cái đánh hét của tổ Hoàng Bách mà hội nhập được đạo lý. Một hôm, sư khai đường, dâng hương, nói: “Nén hương này vì sư huynh Tam Thánh. Tam Thánh đối với ta rất keo kiệt. Sư Đại Giác thì đối với ta rất rộng rãi, không bằng cúng dường Lâm Tế tiên sư.” Về sau vua Đường Trang Tông thỉnh sư, hỏi: “Trẩm đến trung nguyên được một báu vật, nhưng chưa có ai lượng giá”. Sư nói: “Xin bệ hạ cho xem”. Vua mở khăn bịt đầu để xuống chân. Sư nói: “Vật báu của vua ai dám lượng giá”. Vua Trang Tông rất vui. Lúc sắp mất, sư hỏi đồ chúng: “Có biết lão tăng không?”. Đồ chúng không đáp được. Sư ném gậy an tọa mà hóa. Thụy hiệu là Quảng Tế thiền sư. Tháp tên Thông Tịch.



Bài tán:

Cởi bỏ chiếc tăng y 

Mặt mày đà đổi khác

Thấu đáo suốt xương tủy

Toàn chánh lệnh nêu ra

Sông Hô Đà cuồn cuộn

Nước Hưng Hóa sóng tuôn

Trên cục thịt đỏ hỏn

Sinh ra sư tử con



Bài kệ: 

Ngày 11 tháng 7 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Về Nam đồng tử Thiện Tài cầu

Sương khói trăm thành hỏi bến đâu

Gậy đánh, miệng gào, triệt yếu chỉ

Liễu ngộ ngoài tâm chẳng nửa câu.

Bảo vật nhà vua khôn lượng giá

Diện mục lão tăng mấy kẻ tường

Xác thân siêu thoát hào quang chiếu

Thanh cao đây ngã tịnh lạc thường.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 0:45 AM | Message # 61
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 39. Thiền sư Tây Tháp Quang Mục (?-?)

Sư kế thừa pháp của thiền sư Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch. Một vị tăng hỏi: “Nghe đúng là nghe như thế nào?”. Sư nói: “Không từ lỗ tai vào”. Hỏi: “Vậy thì từ đâu ra?”. Sư nói: “Nghe lại cái gì?”. Hỏi: “Ý của chư Tổ và ý của giáo pháp giống hay khác?”. Sư nói: “Giống cũng bỏ mà khác cũng bỏ. Nói đi, trên miệng một cái bình thì có thứ gì rót ra, đổ vào? ”. Hỏi: “Tổ sư từ phương Tây đến có ý gì?”. Sư nói: “Ông không có Phật tính”. Hỏi: ”Đốn là sao?”. Sư vẽ một vòng tròn. Hỏi: “Tiệm là sao?”. Sư vỗ tay trong khoảng không ba lần. 



Bài tán:

Kế thừa pháp Duy Ngưỡng

Sừng sững tháp phương Tây

Ý Tổ và ý pháp

Bình đổ ra, rót đầy.

Nếu hỏi nghe sao đúng

Thì không từ tai này

Hình tròn, ba tiếng vỗ

Đốn hoặc tiệm đều hay.



Bài kệ: 

Ngày 12 tháng 7 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Thủ nhãn tam tổ Quy Ngưỡng minh

Nghe kinh vô tự há nhĩ căn

Tự tánh bao la hư không giới

Pháp thân chu biến khắp không gian.

Lý đốn ngộ không qua thứ lớp

Sự tiệm tu hẳn nhập viên dung

Bậc đại tông, thiền sư Quang Mục

Quán cơ khế hợp độ muôn lòng.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 0:47 AM | Message # 62
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 40. Thiền sư Nam Viện Tuệ Ngung (860-952)

Sư người Hà Bắc, thăng đường, nói: “Trên khối thịt đỏ này có bức vách cao ngàn nhận*”. Một vị tăng hỏi: “Bức vách cao ngàn nhận trên khối thịt đỏ có phải là đạo của Hòa thượng không?”. Sư nói: “Phải”. Vị tăng liền xô ngã thiền sàng. Sư nói: “Ông như con lừa mù làm loạn”. Vị tăng suy nghĩ, sư liền đánh đuổi ra. Sư thị tịch vào năm Quảng Thuận thứ 2 đời Chu Thái Tổ.

……………

*Nhận: nhà Chu 周 định 8 thước là một nhận (chừng sáu thước bốn tấc tám phân bây giờ).



Bài tán:

Cứu giúp Bắc tông

Vung gươm linh kiệt

Tướng mạo oai nghi

Uy quang lẫm liệt.

Mưa tạnh mây tan

Gió đưa, cỏ nép

Hiện ra mặt mũi

Lớn thay, Nam Viện.



Bài kệ: 

Ngày 13 tháng 7 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Như kề vực, giẫm trên băng mỏng

Luôn đắn đo, e ngại lúc nói, làm.

Không tạo ác, thân tâm điều phục

Làm việc lành, chớ hại tha nhân.

Viên mãn quả công thành đạo lớn

Đủ đầy tuệ phúc chuyển càn khôn

Thị tịch, vô sinh nào có đến

Lưu truyền Nam Viện nối tông môn.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 0:49 AM | Message # 63
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 40. Thiền sư Tư Phước Như Bảo (? _ ?)

Sư là người nối pháp thiền sư Tây Tháp Quang Mục. Hỏi: “Gì là chỗ cần yếu nhất của tăng nhân?”. Sư nói: “Chỗ ấy ngay câu hỏi này”. Vị tăng nói: “(Khi) tôi chưa đưa ra câu hỏi trên (thì sao), thỉnh sư nói rõ”. Sư nói: “Ôi!”. Hỏi: “Các phương đều là diệu dụng, không rõ hòa thượng ở đây thì sao?”. Sư nói: “Ôi”. Hỏi: “Người xưa cầm chùy, dựng phất, lý ấy ra sao?”. Sư nói: “Á”. Hỏi: “Gia phong của hòa thượng là gì?”. Sư nói: “Ăn cơm xong thì uống ba chung trà”. Một hôm sư cầm bồ đoàn đưa lên trước đại chúng, nói: “Chư Phật chư Bồ tát và thánh nhân đạt lý đều từ đây mà ra”. Nói rồi ném bồ đoàn xuống đất, lấy tay mở khuy áo ngực, hỏi: “Làm gì sinh?”. Đồ chúng không đáp được. Một hôm sư nâng bồ đoàn để lên đầu, nói: “Các ông khó ứng đối với nhau từ bao giờ vậy?”. Đồ chúng không đáp. Sư ngồi xuống, nói: “Cũng vì tâm so lường”. 



Bài tán:

Nước trà Tư Phước đậm

Ăn xong uống ba chung

Phong cách của hòa thượng

Ôi a, pháp độ người.

Phật thánh và Bồ tát

Đầy dẫy trên bồ đoàn

Tất cả cùng an tọa

Sai đúng chẳng bận lòng.



Bài kệ: 

Ngày 17 tháng 7 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Thiền sư Như Bảo chẳng hé môi

Ối, a đây pháp tiếp đãi người

Việc tăng cấp bách là ngay đấy

Bí quyết Phật môn há lắm lời.

Dựng phất, cầm chùy gồm diệu nghĩa

Ăn cơm, mặc áo lộ chân huyền

Đặt ngược bồ đoàn tuyên chánh ấn

Thiên ma cung kính dám huyên thuyên.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 0:54 AM | Message # 64
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 41. Thiền sư Phong Huyệt Diên Chiếu (896-973)

Sư họ Lưu, người Dư Hàng, khi tham kiến sư Nam Viện, sư Nam Viện hỏi: “Một gậy ở phương Nam dùng để luận ra điều gì?”. Sư đáp: “Luận ra điều kỳ đặc”. Sư lại hỏi: “Một gậy của hòa thượng ngay đây thì luận ra cái gì?”. Sư Nam Viện cầm tích trượng, nói: “Pháp vô sanh dưới gậy này. Duyên đến thì cái thấy không phải từ thầy”. Sư nghe được lời này liền ngộ huyền chỉ, lưu lại sáu năm. Tứ chúng thỉnh sư trụ trì Phong Huyệt. Đến năm Thiên Phúc thứ hai, quan Châu Mục thỉnh khai pháp, nối pháp Nam Viện. Ngày 15 tháng 8 năm Khai Bảo thứ 6 đời Tống thái Tổ sư lên tòa thuyết kệ, an tọa mà hóa, thọ 78 tuổi, hạ lạp 59.  



Bài tán:

Đặc biệt thảo luận

Như giữ của báu

Dưới gậy vô sinh

Vâng giữ chánh hạnh

Mở kho pháp khí

Riêng mình mưu sinh

Diệu dụng phồn hưng

Trời đẹp bình minh.



Bài kệ:

Ngày 17 tháng 7 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Nam phương một gậy chẳng lưu tình

Voi rồng xuất hiện liễu vô sinh

Nghĩ suy, toan tính thành nhị nghĩa

Cuồng tâm, vọng chấp nhập tam đồ.

Bảy mươi tám tuổi hưng đại giáo

Năm mươi chín hạ ngộ diệu tông

Tinh cần bất thoái hoằng thệ nguyện

Pháp như trụ đá động thiên cung.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 0:58 AM | Message # 65
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 41. Thiền sư Báo Từ Đức Thiều (891-972)

Sư nối pháp thiền sư Tư Phúc Như Báo, không lưu lại ngôn ngữ văn tự. Thiền sư Tam Giác Chí Khiêm là người nối pháp của sư. 



Bài tán:

Không văn không lời

Đoạn tuyệt xướng họa

Sáng tối giao nhau

Thần quang cao khiết.

Một tông Quy Ngưỡng

Lâu không anh kiệt

Nhìn đảnh tướng sư

Tiếp nhận chân thuyết.



Bài kệ:

Ngày 19 tháng 7 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Hư vô thế sự ví vô ngôn

Trong quyền* có thực* bởi hữu duyên

Vượt trên văn tự lìa xướng họa

Thiểu dục, pháp đăng mãi kế truyền.

Tông phong Quy Ngưỡng ngời vũ trụ

Đạo cùng khắp chốn Hựu lão sư

Ý tổ, Đắc Thiều thừa kế vị

Học rồi dạy lại, chiếc thuyền từ.

…………………… 

*Sự ứng biến, thích ứng, tuy trái với đạo thường mà phải lẽ gọi là quyền 權. Đối lại với kinh hoặc thực實.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 10:29 PM | Message # 66
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 42. Thiền sư Thủ Sơn Tỉnh Niệm (926-993)

Sư họ Địch, người Lai Châu, sau trú ngụ tại Phong Huyệt. Một hôm trong pháp hội, sư Phong Huyệt nói: “Hãy chuyên cần gánh vác đại pháp”. Sư nói: “Xin được nghe yếu chỉ”. Sư Phong Huyệt thượng đường, đưa ra dụ đức thế tôn cầm hoa sen xanh trước đại chúng. Sư hỏi: “Lúc này là lúc nào?. Đạo thuyết những gì?. Nếu đạo vốn không thuyết được mà lại thuyết ra thì làm mai một các thánh nhân. Đạo thuyết gì?”. Sư phất tay áo đi ra. Sư Phong Huyệt ném gậy về phương trượng. Vị tăng thị giả hỏi: “Niệm kinh Pháp Hoa mà thậm chí không đối đáp được với hòa thượng”. Sư Phong Huyệt nói: “Nhân niệm kinh Pháp Hoa nên đã hội được lời ta”. Về sau sư trụ ở Thủ Sơn. Ngày 4 tháng 12 năm Thuần Hóa thứ 4 đời vua Tống thái Tông, giờ Ngọ, sư thượng đường từ biệt đồ chúng, nói kệ, an tọa mà hóa. Đồ chúng hỏa tang, thu xá lợi dựng tháp thờ. 



Bài tán:

Phất tay áo bước ra

Ghé vai vào gánh vác

Mật dụng và mật hạnh

Chùy ẩn trong túi kín.

Chợt xuất hiện Thủ Sơn

Các cửa ngõ mở toang

Này chim phượng, chim loan

Đường mây bay thênh thang.



Bài kệ:

Ngày 20 tháng 7 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Bởi khó, tu cần phải gắng công

Ghé vai gánh vác nghiệp tổ tông

Mong nghe diệu pháp cầu giảng rõ

Giáo* hòa với Mật*, đóa sen xanh.

Thuyết giảng việc gì, tay áo phất

Ném gậy dặn dò kẻ hậu sinh

Biết đã đến thời, an tọa hóa

Thoát ra ba cõi nhập thánh linh.

……………………………

*Hiển giáo và Mật giáo


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 10:38 PM | Message # 67
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 42. Thiền sư Tam Giác Chí Khiêm ( ?_? )

Sư là người thừa kế đại sư Báo Từ Đức Thiều tại Đàm Châu. Một vị tăng hỏi: “Thế nào là Phật”. Sư đáp: “Hãy mau lạy ba lạy”. Vị tăng đảnh lễ. Sư nói: “Một khi phất tay tức chuyển”.



Bài tán:

Thế nào là Phật

Mau lạy ba lạy

Phất tay tức chuyển

Thuyết cũng kỳ quái.

Càng đi càng chậm

Thùng sơn chẳng khoái.

Núi Tam Giác cao

Gió vờn cỏ nép.



Bài kệ: 

Ngày 24 tháng 7 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Quy Ngưỡng ít người, Chí Khiêm cao

Dừng cơn sóng đáp Báo Từ ân

Đừng hỏi lôi thôi, tánh tức Phật

Pháp là tiếp vật, chớ lăng xăng.

Vô minh quét sạch hư không vỡ

Tâm cuồng dừng lại rạng Bồ Đề

Dựng lập đạo tràng trên Tam Giác

Phổ độ muôn loài thoát bến mê.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 10:40 PM | Message # 68
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 43. Thiền sư Phần Dương Thiện Chiếu (947-1024)

Sư họ Du, người Thái Nguyên, từng tham kiến 71 vị thiện tri thức, sau đó đến Thủ Sơn. Hỏi: “Ý chỉ của sự việc cuốn chiếu nơi Bách Trượng là gi?”. Sư Sơn nói: “Phất tay áo toàn thể hiện”. Sư nói: “Ý thầy thế nào?”. Sư Sơn nói: “Nơi nào có dấu chân voi chúa thì chồn cáo đều ẩn trốn”. Sư nghe xong thì đại ngộ, nói kệ:

“Trăng Không muôn thuở hiện đầm trong

Lần mò mấy lượt mới tường thông”.

Hỏi: “Thấy đạo lý gì mà tự nhận như thế kia?”. Sư nói: “Chính nơi ta buông thân mệnh”. Về sau sư trụ ở Phần Dương, thường an tọa trên giường, hơn 30 năm không ra khỏi cửa. Đại chúng không dám gọi tên, thường gọi là sư Phần Dương. Sư ra lệnh bày một bữa tiệc, và sửa soạn hành trang, nói: “Tôi đi trước”. Nói xong buông đôi đủa mà hóa, vào năm Nguyên Thánh thứ hai đời vua Tống nhân Tông. Hỏa táng thu xá lợi dựng tháp.



Bài tán:

Hai thì được một

Cuốn chiếu Bách Trượng

Trăng tròn trên không

Mịt mờ tung tích

Hơn bảy mươi người

Ăn miếng bánh Hồ

Đại đạo rực sáng

Không dừng chuyển lưu. 



Bài kệ:

Ngày 25 tháng 7 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Tìm thầy nên khắp chốn lang thang

Quy về nương dựa nẻo thiện ân

Phất tay áo rộng chân như hiện

Voi múa vòi ngà cáo ẩn thân.

Thấy lý đạo gì tâm tự mãn

Nơi buông thân mệnh, ấy cội nguồn

Buông đôi đủa xuống, an nhiên hóa

Đầm trong nước biếc mạch Tào tuôn.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 10:43 PM | Message # 69
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 43. Thiền sư Hưng Dương Tự Đạt (?_?)

Sư người Kỳ Châu, núi Tam Giác, thừa pháp sư Chí Khiêm. Một vị tăng hỏi: “Cảnh giới chư Phật và cảnh giới chúng sinh cách xa nhau ra sao?”. Sư đáp: “Đạo bất khả đắc”. Vị tăng nói: “Thật ư?”. Sư nói: “Có như thế”. Hỏi: “Lọng hoa che tòa báu, ngày nay thầy nào khác lúc trên ổ chim Thước”. Sư nói: “Đạo bất khả thuyết”. Vị tăng nói: “Căn gốc sư ngày nay”. Sư nói: “Phật pháp nay trao đến ông”. 



Bài tán:

Chúng sinh nào khác Phật

Thuyết đạo bất khả đắc

Truyền cho ngươi một ít

Hối hận chẳng lặng thinh.

Bông tuyết giữa trời xuân

Chẳng luận bằng hay trắc

Người đất Dĩnh lỡ cười

Bắt giặc, mau bắt giặc!.

………………..

*Kinh đô nước Sở 楚 ngày xưa, nay thuộc về địa phận tỉnh Hồ Bắc. ◇Nguyễn Du 阮攸: Yên, Dĩnh thành trung lai hà vi? 鄢郢城中來何爲 (Phản chiêu hồn 反招魂) (Khuất Nguyên 屈原) Còn trở về thành Yên, thành Dĩnh làm gì?



Bài kệ:

Ngày 26 tháng 7 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Đại đức Tự Đạt tánh hoạt bát

Quán cơ thuyết giảng cái bất-thuyết

Trời mưa hoa báu diễn diệu âm

Đất trổ sen vàng ca diễm tuyệt.

Mở miệng nói liền sai Phật pháp

Động tâm rơi lạc chỗ da lông*

Nạn tai, bắt giặc thành hí luận

Bách tùng xanh mướt giữa trời đông.

………………

*thiển cận, lệch lạc như loài thú cầm.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 10:45 PM | Message # 70
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 44. Thiền sư Thạch Sương Sở Viên (986-1039)

Sư họ Lý, người Thanh Sương, Toàn Châu, đến tham kiến Phần Dương, sau hai năm vẫn chưa được cho nhập thất, mỗi khi gặp tổ đều bị mắng nhiếc. Một hôm sư than thở: “Từ khi đến chiếu pháp, chưa hề được khai thi. Nghĩ đến ngày tháng trôi qua mà việc mình chưa sáng tỏ, đâu là sụ lợi ích của người xuất gia”. Sư vừa nói xong, sư Phần Dương hét lớn: “Ông là một ác tri thức, lại dám đôi co với ta”. Nói xong giận dữ vung trượng xua đuổi. Sư định cầu xin nhưng sư Phần Dương che miệng sư lại, ngay đó sư đại ngộ, thưa: “Nay mới biết tông Lâm Tế vượt trên thường tình”. Sư ở lại hầu thầy suốt bảy năm. Sư Phần Dương khen ngợi, nói: “Ta chứng được tam muội từ tòa của tiên sư. Nay ông cũng được như vậy. Hãy đi về phương Nam làm hưng thịnh đạo ta”. Ngày 5 tháng giêng năm Khánh Lịch đời vua Tống nhân Tông sư thị tịch, hưởng thọ 54 tuổi, hạ lạp 32. Tháp dựng tại Thạch Sương, táng toàn thân. 



Bài tán:

Một cơ duyên riêng thoát

Núi ngàn thước an bằng

Miệng mũi kẻ nạp tăng

Chim thước chim quạ kêu

Vung lên thanh bảo kiếm

Quỷ khóc, kinh hãi thần

Thạch Sương làm trái ngược

Cưỡi trên lừa ba chân.



Bài kệ:

Ngày 27 tháng 7 năm 1983

Tuyên công thượng nhân viết: 



Hỏi tìm đức lớn đến Phần Dương

Thân cận hai năm chửa thuận đường

Gặp mặt miệng la khai lối bí

Đối đầu cây nện phá hang mê

Suy luận tức sai, im miệng lại!

Dứt đường ngôn ngữ, chớ huyên thuyên!

Tam muội thiền na ông đã chứng

Phương Nam độ khắp chín muồi duyên.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 10:47 PM | Message # 71
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 45. Thiền sư Hoàng Long Tuệ Nam (1002-1069)

Sư họ Chương, người Tín Châu, lúc đầu nương theo sư Trừng ở Lặc Đàm, cùng tiếp vật, đãi người. Sau đến Từ Minh lập thất. Sư Minh hỏi: “Đỉnh cao của tâm lão bà Triệu Châu khám phá là gì?”. Sư không đáp được. Hôm sau sư Minh lại gọi sư đến hết lời mắng nhiếc. Sư nói: “Mạ lị người khác có phải là ban bố pháp từ bi chăng?”. Sư Minh nói: “Ông lấy sự mạ lị thì có hội được không?”. Sư nghe xong liền đại ngộ, sau khai pháp tại Đồng An, sau về với bản gốc Hoàng Bách, cuối cùng về Hoàng Long. Khi ở trong thất sư thường hỏi ba câu: “Ai ai cũng có duyên sinh. Nơi nào là duyên sinh của thượng tọa”. Lại đưa tay ra, hỏi: “Tay ta có giống tay Phật không?.”. Lại đưa chân ra, hỏi: “Chân ta có giống chân lừa không?”. Không mấy người khế hợp ý chỉ. Ngày 17 tháng 3 năm Hi Ninh sư an tọa mà hóa, hỏa táng được xá lợi ngũ sắc, tháp dựng trước núi, thụy là Phổ Giác thiền sư.  



Bài tán:

Rường cột sư Từ Minh

Cứng tợ như sắt thôi

Một khi sư nhìn thấy

Tim cùng mật rụng rời.

Khám phá tâm lão bà

Lửa hồng và bông tuyết

Tài giỏi ví như trời

Hỏi ba câu cứng lưỡi.



Bài kệ:

Ngày 1 tháng 8 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Đăng đường, nhập thất gặp Từ Minh

Mắng la há phải pháp thí kinh?

Ngộ đạo do nơi lòng tự phản

Nếu như biết dụng thảy rành rành. 

Hỏi đến ba lần không kẻ biết

Trưng ra bảy lượt có ai cùng

Bông tuyết ở trong lò lửa dữ

Lửa hồng sen trổ đạo trùng hưng.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 11:03 PM | Message # 72
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 45. Thiền sư Dương Kỳ Phương Hội (992-1049)

Sư họ Lãnh, người Nghi Xuân, Viên Châu, tham kiến sư Từ Minh. Khi sư Minh thăng đường, sư hỏi: “Con chim kêu chit chit nơi u tĩnh, mây phiêu du trên đồi cao lúc đó như thế nào?”. Sư Minh đáp: “Ta giẫm trên cỏ hoang, ông vào trong xóm vắng”. Sư nói: “Quan không dung một vật nhỏ như cây kim khâu, xin hỏi thêm một câu”. Sư Minh liền hét lớn. Sư nói: “Hét lớn thật”. Sư Minh lại hét, sư cũng hét. Sư Minh hét liên tiếp hai tiếng, sư liền đảnh lễ. Sư Minh nói: “Chuyện riêng này xem ông gánh vác được không”. Sư phất tay áo đi ra. Đồ chúng đón sư đến Dương Kỳ. Năm Bính Tuất, Hoàng Hựu nguyên niên đời Tống nhân Tông, sư thị tịch, tháp dựng tại Vân Cái. 



Bài tán:

Đường hẹp lại gặp nhau

Nghiền nát thành tro bụi

Bước chân sư tử đi

Như Phấn Tấn tam muội.

Chim kêu tiếng chiu chít

Móng răng đã hoàn hảo

Đỏ hỏn trần trụi thân

Trời xuân lồng tiếng gió.



Bài kệ:

Ngày 1 tháng 8 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Hét đi hét lại liễu vô sinh

Bỏ mê về giác biết chủ ông

Bản lai diện mục không nơi chốn

Quê nhà chân thật tịnh hư không.

Cát làm xốn mắt, cần thể hội

Tai gặp âm thanh, chớ chấp trần

Tự do giải thoát lìa quái ngại

Vượt trên muôn vật hiện toàn thân.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 11:07 PM | Message # 73
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 45. Thiền sư Long Hồ Phổ Văn (?_?)

Sư là thái tử con vua Đường Hi Tông, ăn chay từ nhỏ, lớn không đọc sách thế tục. Khi vua Hi Tông chạy vào đất Thục, sư xuống tóc vân du, tham vấn sư Thạch Sương, hỏi: “Những di huấn của tổ sư có thể nào trao lại cho tôi chăng?”. Sư Sương nói: “không nên chê bai tổ sư”. Sư nói: “Tông chỉ trong thiên hạ đâu phải việc hư vọng”. Sư Sương nói: “Thật có vậy”. Hỏi: “Xin khai thị cho”. Sư Sương nói: “Chờ núi Ấn gật đầu ta sẽ chỉ cho ông”. Sư nghe liền tỉnh ngộ. Sau sư đến Thiệu Vũ, thấy cây cối xanh tươi liền lưu lại. Một hôm, một con rồng đến cầu tránh bị sét đánh, sư cho rồng vào tay áo. Rồng cảm ân sâu nên đào một cái hang làm thành suối nước, dân quanh vùng lập chùa, nhân việc ấy gọi tên là Long Hồ. Sư trụ ở đây hơn 30 năm, hoằng dương Phật pháp. Khi sắp thị tịch, nói kệ: “ Tôi gom lại những gì đã nghe thấy, nói lại cho quý vị”. Sau đó an nhiên qua đời. Tháp dựng tại núi cũ, thụy là Viên Giác thiền sư. 



Bài tán:

Con cháu nhà vua

Làm tôi pháp vương

Đắc ấn Thạch Sương

Bao che thân rồng.

Trải ba mươi năm

Chỉ giả nói chân

Ngày nay hiểu được

Trao anh cái thấy.



Bài kệ:

Ngày 3 tháng 8 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Nghiệp thiện sinh vào chốn đế vương

Đức sâu dứt đoạn sát sinh nhân

Thiện ác báo đền xen chẳng lệch

Nhiễm tịnh tương quan giả hóa chân.

Núi Án gật đầu không ngôn giáo

Biển tình hội ý biết nguyên lai

Khúc ca vô ngã nay nghe được

Bông hoa bất tử nở ngày mai.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 11:24 PM | Message # 74
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 46. Thiền sư Bạch Vân Thủ Đoan (1025-1072)

Sư họ Cát, sinh tại Hàng Dương, tham vấn sư Dương Kỳ. Sư Kỳ hỏi: “Ông từng theo học với ai?”. Sư đáp: “Hòa thượng Úc ở Trà Lăng?. Lại hỏi: “Nghe nói ông qua cầu gặp một kẻ điên đão thì có tỉnh ngộ nên viết một bài kệ lạ, ông còn nhớ bài kệ ấy chăng?”. Sư đọc lại bài kệ. Sư Kỳ cười đứng dậy bỏ đi ra. Sư ngạc nhiên khiến cả đêm không ngủ được, sáng sớm liền đến nơi thưa hỏi. Sư Kỳ nói: “Hôm qua ông có thấy lễ đuổi tà chăng?”. Sư đáp: “Thưa thấy”. Sư Kỳ nói: “Ông tính ra không bằng người kia”. Sư giật mình, thưa: “Ý thầy là gi?”. Sư Kỳ nói: “Hắn thích người cười, ông ngại người cười”. Sư đại ngộ, ở lại hầu thầy rất lâu, sau đó vân du khắp nơi. Năm Hi Ninh thứ 5 đời vua Tống Thần Tông, năm Bính Tuất, sư thị tịch, thọ 48 tuổi. 



Bài tán:

Hắn thích người ta cười

Ban ngày thắp đèn xanh*

Ông ngại người ta cười

Ngọc châu thôi lóng lánh.

Biết được ta với người

Cùng dây nhưng khác điệu

Muôn dặm như hư không

Con diều sắt bay bổng.

………………..

*Đèn để trên bàn học.



Bài kệ:

Ngày 21 tháng 8 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Người xưa gặp cảnh ngộ Bồ đề

Liền phá vô minh chẳng ngại nghi

Ông ngại người cười ông vụng tính

Hắn mừng ta thích chuyện thiên thì.

Lời ra sáng tỏ hư không tướng

Lập tức rõ thông tánh bản lai

Ai hay điệu khác đàn không khác

Phàm tục tuy nhiều, nhân hiếm thay.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 11:30 PM | Message # 75
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 37. Thiền sư Ngũ Tổ Pháp Diễn (?-1104)

Sư họ Đặng, người Miên Châu, tham vấn sư Thạch Vân, sau đến hỏi về việc sư Nam Tuyền và ngọc ma ni. Su Vân hét lớn. Sư tỉnh ngộ. Một hôm, sư Vân hỏi: “Có một số thiền khách từ Lư Sơn đến, có chỗ tỏ ngộ, dạy họ thuyết, họ cũng thuyết được, đưa ra nhân duyên họ cũng hiểu, nói lời ra đều thông đạt, nhưng họ lại chưa đến được chỗ đó. Sư khởi nghi, tự hỏi: “Đã ngộ được, đã rõ được, đã thuyết được, vì sao lại chưa đến được?”. Sư suy gẫm mấy ngày, hốt nhiên đại ngộ liền tìm gặp sư Bạch Vân. Sư Vân múa tay chân. Sau đó sư nói: “Tôi vì vậy mà toát mồ hôi lạnh khắp thân mình liền cảm được làn gió mát. Năm Sùng Ninh thứ ba đời vua Tống Huy Tông, ngày 25 tháng 6, sư thượng đường từ biệt đồ chúng, an nhiên mà hóa. Hỏa táng nhiều xá lợi như mưa, tháp dựng phía Nam núi Đông.



Bài tán:

Viên ngọc báu ma ni

Không từ người mà được

Một câu không tại đó

Thiền khách hết ngại nghi.

Cười lớn mà qua đời

Cửa miệng thu hẹp lại

Cơn gió cuốn mang theo

Phẩm cách bậc anh kiệt.



Bài kệ:

Ngày 22 tháng 8 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Ma ni bảo châu tự tính sanh 

Muốn cầu cần phải bỏ tham tranh

Thuyết ra thiện pháp dùng phương tiện

Biện tài vô ngại nối đèn tâm.

Toát mồ hôi lạnh, sư do đấy

Hoằng pháp nên ta độ tối tăm

Như mưa xá lợi phô đại định

Đông sơn tháp dựng hướng về Nam.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 27 Sep 2015, 11:42 PM | Message # 76
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 48. Thiền sư Viên Ngộ Khắc Cần (1063-1135)

Sư họ Lạc, người Bành Châu, làm thị giả cho sư Pháp Diễn. Có một vị quan làm trong bộ sử đến viếng sư Diễn. Sư Diễn nói: (Trần) Đề Hình thuở còn trẻ nếu đọc thơ diễm tình, có câu:

Tần hô Tiểu Ngọc nguyên vô sự, 

Chỉ yếu đàn lang nhận đắc thanh*. 

Vị quan vâng dạ. Sư Diễn nói: ”Hãy chú ý”. Khi ấy sư đứng bên cạnh, liền hỏi: “Hình hiểu không?”. Sư Diễn nói: “Ông ta nghe được rồi”. Sư hỏi: “Ông ta đã nghe, sao vẫn chưa phải”. Sư Diễn nói: “Ý tổ sư từ phương tây đến, cây bách trước sân”. Sư nghe thì có chỗ tỏ ngộ. Sau đó nhìn thấy một con gà bay đậu trên lan can, đập cánh gáy to, sư liền đại ngộ, thông suốt chỗ sở đắc. Sư Diễn nói với đồ chúng: “Thị giả của ta đã được lý thiền”. Ngày 5 tháng 8 năm Thiệu Hưng thứ 5, sư thị hiện có bệnh an tọa mà hóa. Tháp dựng tại Chiếu Giác, hiệu là ViênNgộ thiền sư, thụy là ChânGiác, tháp tênTịch Chiếu.

………………………

*Chúng tôi tìm thấy trong Ngũ Đăng Hội Nguyên 五灯会元 bài thơ của sư Pháp Diễn đọc cho ông Trần Đề Hình:

一段风光画不成 

洞房深处恼予情 

频呼小玉元无事 

只要檀郎认得声 

Chúng tôi phiên âm và dịch như sau:

Nhất đoạn phong quang họa bất thành 

Đỗng phòng thâm xử não dữ tình。 

Tần hô Tiểu Ngọc nguyên vô sự, 

Chỉ yếu đàn lang nhận đắc thanh.

(Một cảnh mà sao vẽ chẳng thành

Phòng hoa áo não mối tơ tình

Vô cớ lại kêu hoài Tiểu Ngọc

Bởi muốn tân lang nhận tiếng mình).



Bài tán:

Gà bay trên mặt đất

Như tỉnh một cơn mộng

Đứng trên sắc và thanh

Vô tác* nhưng diệu dụng.

Cưỡi sóng trên biển xanh

Xô núi Tu Di ngã

Một khúc phong lưu ấy

Tuệ nhãn sáng long lanh.

……………….

*Asamskrta (skt)



Bài kệ:

Ngày 28 tháng 8 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Quán cơ truyền giáo trí tuệ sâu

Đối duyên thí pháp độ quần mông

Hội tâm vi tiếu* truyền pháp ấn

Gật đầu không nói mặc nhiên thông.

Biết được âm thanh liền tỉnh mộng

Thấy, bay, nghe, gáy, bổn lai không

Xoay núi Tu Di, trời biển lật

Sơn hà đại địa diệt hoàn toàn.

………………….

*lấy tích “niêm hoa vi tiếu” của Đức Phật Thích Ca


Đại Bi Chú
 
atoanmt Date: Thứ Hai, 28 Sep 2015, 8:04 AM | Message # 77
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 5081
Status: Tạm vắng



AToanMT
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 28 Sep 2015, 11:38 PM | Message # 78
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 49. Thiền sư Đại Tuệ Tông Cảo (1089-1163)

Sư họ Hề, người Tuyên Thành, năm 17 tuổi đến viện Tuệ Vân Đông sơn xuống tóc xuất gia. Sư tham vấn sư Trạm Đường, theo hầu thầy. Khi sư Đường qua đời, sư theo lệnh thầy đến tham vấn sư Viên Ngộ. Khi sư Viên Ngộ thăng đường thuyết giảng, các nghi vấn của sư trước sau đều dứt, lại được khuyến khích tinh tiến. Sư hỏi: “Câu có câu không như dây leo là thế nào?”. Sư Ngộ nói: “Vẽ cùng không thành, tả cũng không xiết”. Lại hỏi: “Lúc cây ngã, dây leo khô thì sao?”. Sư Ngộ nói: “Cùng theo đến”. Sư nghe xong liền hiểu, nói: “Tôi đã hiểu”. Trương Ngụy Công thỉnh sư trụ tại Kính sơn, đồ chúng lên đến hai ngàn người. Do có người chủ mưu đố kỵ nên sư bị giáng chức, sau được ân xá. Năm Long Hưng thứ nhất, sư thị hiện có bệnh, nói: “Ngày mai ta đi”. Đến canh năm, sư đích thân viết tấm sớ, và viết thư gởi Trương Ngụy Công. Vị thị giả thỉnh sư nói kệ. Sư viết kệ xong, ném bút mà hóa. Thụy hiệu là Phổ Giác, Tháp là Bảo Quang. 



Bài tán:

Bảo Phong thì nghẹt mũi

Từ Minh lại điếc tai

Tuệ nhật sáng rực rỡ

Thiền trượng đánh đuổi rồng.

Cây ngã dây leo khô

Truyền chánh pháp chánh tông

Mùi tanh hôi ô uế

Lan rộng khắp không trung.



Bài kệ:

Ngày 29 tháng 8 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Mong tìm tri thức bạn hiền nhân

Chọn con mắt pháp, thấy trăng lồng

Ba tâm chẳng được, không qua lại

Liễu đạt tử sinh, bốn tướng không.

Thậm thâm bát nhã lìa năm uẩn

Sáu căn hổ dụng đại thần thông

Lúc hội nhân duyên nhiều đố kỵ

Cổ kim một khúc đợi thời cơ.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 28 Sep 2015, 11:41 PM | Message # 79
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 49. Thiền sư Hổ Khâu Thiệu Long (1077-1136)

Sư người Hàm Sơn, Hòa Châu. Đầu tiên tham vấn sư Sùng Tín ở Trường Lô, sau đến với sư Viên Ngộ. Sư Ngộ gặp sư, hỏi: “Thấy (mà chấp vào) cái nhìn thấy (lúc vật trước mặt) thì đó không phải là thực thấy. Thấy mà lìa (đối tượng) được thấy thì cái thấy nầy không thế đến chỗ hoàn hảo. Sư Ngộ lại đưa nắm tay lên, hỏi: “Có thấy không?”. Đáp: “Thấy”. Sư Ngộ nói: “Trên đầu lại chồng thêm một cái đầu”. Sư nghe nói hốt nhiên chứng ngộ. Sư Ngộ hét: “Ông thấy đạo lý gi?”. Đáp: “Dù cho trúc có mọc dày đặc cũng không ngăn được nước chảy qua”. Sư Ngộ gật đầu. Lại hỏi: “Người chủ kho báu nhu thuận như thế thì làm sao?”. Sư Ngộ nói: “Con cọp đang ngủ gật đó mà”. Sau đó sư khai đạo đó đây, sau thiên chương giáo, hoàn thành tại Hổ Khâu. Năm Thiệu Hưng thứ 6 đời vua Tống Cao Tông, ngày 8 tháng 5, sư thị tịch. Tháp dựng tại phía Nam núi Hổ Khâu. 



Bài tán:

Thấy mà chẳng phải thấy

Sao băng trời sấm chớp

Tre rậm nước vẫn xuôi

Trên mặt đất thuyền trôi.

Hổ dữ đang say ngủ

Ven rừng một mình ngồi

Gió về buông tiếng hú

Bất tuyệt tự muôn đời .



Bài kệ:

Ngày 30 tháng 8 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Thấy như không thấy, khó thấy thay

Tham được no cơm lại áo quần

Vốn không một vật, trần không khởi

Lại còn muôn mối chấp thân căn.

Gió lộng nước xao như thuyết pháp

Mưa tạnh trời trong, điện Phổ Quang

Nguy hóa thành an, tranh tạo hóa

Trước chưa từng được gặp thánh nhân.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 28 Sep 2015, 11:43 PM | Message # 80
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 50. Thiền sư Ứng Am Đàm Hoa (1103-1163)

Sư người Hoàng Mai, Kỳ Châu, họ Giang, theo hầu sư Hổ Khâu sớm minh bạch được đại sự. Nhân ngày giổ của sư Khâu, sư niêm hương khấn: “Trên đời hưng thịnh là lẽ thường, vô tình phạm phải sự cấm kỵ của lão hòa thượng, gây ra nhiều việc không hợp ý thầy. Từ đó đã buông đao xuống để cùng chia xẻ áo cơm suốt 20 năm. Nay làm chủ tòa ngồi trên thiền sàng treo đầu dê bán thịt chó, mà không ai biết. Tuy nhiên, mỗi năm đến ngày giỗ thầy lại dâng hương, càng tạo thành mối hận thiên thu”. Năm Tống Hiếu Tông, hiệu Long Hưng năm thứ nhất, ngày 13 tháng 6 sư thị tịch, tháp dựng phía trước núi Thái Bạch Thiên Đồng, táng toàn thân, thọ 61 tuổi, hạ lạp 43. 



Bài tán:

Buông bỏ gươm đao

Không cảnh thái hòa

Đốt tan dơ xấu

Hương trầm lan xa

Trước đồi Thái Bạch

Nét họa tự nhiên

Xuân trên đất Việt

Hoa nở Diệm Khê.



Bài kệ:

Ngày 31 tháng 8 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Đại sự chưa thông tựa đại tang

Đã thông đại sự nặng bi tâm

Dâng hương đảnh lễ sư Khâu ấy

Đóa hoa cung hiến bậc trời rồng.

Ngày tháng bình an thôi chinh chiến

Gió thuận mưa hòa vui với xuân

Đào lý đưa hương thơm vũ trụ

Giác mê cam lộ thấm ngàn phương.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 28 Sep 2015, 11:45 PM | Message # 81
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 50. Thiền sư Tế Điên Đạo Tế (1140-1209)

Sư Đạo Tế người Thiên Thai, là con cháu phò mã họ Lý, cha là Mậu Xuân lạy Tán Thiện trong thôn ẩn nơi Thiên Thai. Mẹ là Vương Thị mộng thấy nuốt mặt trời sinh ra sư. Năm 18 tuổi đến chùa Linh Ẩn theo Vĩnh Công ở Hạt Đường xuất gia đắc được yếu chỉ. Sau ngụ tại Tịnh Từ, tánh tình phóng khoáng không chừng, nói làm không câu nệ, chốn dâm phường, nơi trà rượu đều chẳng tránh né, người đương thời gọi sư là Tế Điên. Khi sắp qua đời, sư nói kệ:

“Ngổn ngang bừa bãi sáu mươi năm

Tường đông nghiêng ngã cạnh tường tây

Đến nay gom góp quay về lại

Vẫn một màu xanh nước tiếp mây”.

Sau khi sư qua đời, một vị tăng gặp sư dưới tháp Lục Hòa, gởi thư: “Còn nhớ xưa bị mũi tên trước mặt, đến nay vẫn còn rụng rời. Duy thấy mặt mà không biết người”. Về sau đến núi Thiên Thai thấy ghi sư là một trong 500 vị ứng chân (A la hán) tại đây.



Bài tán:

Không theo bản gốc

Thất đảo bát điên

Thế giới loạn cuồng

Dối lừa trời đất

Đạp đổ cối chày

Thoát vòng trói buộc

Đến ẩn Thiên Thai

Danh lưu truyền mãi



Bài kệ:

Ngày 4 tháng 9 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Mắt nhìn năm sắc chẳng nơi đây

Tai nghe tám điệu, dạ không hay

Mũi ngữi trăm hương lìa biện biệt

Lưỡi nếm bao mùi sá đắng cay?

Thân chạm đâu mong chi mềm mại

Ý duyên muôn pháp bặt dấu trần

Chê khen ưa ghét đều không bận

Như như liễu liễu kiến chân thân. 



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 28 Sep 2015, 11:47 PM | Message # 82
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 51. Thiền sư Mật Am Hàm Kiệt (1118-1186)

Sư người Phúc Kiến, họ Trịnh, tham kiến sư Ứng Am. Sư Am hỏi: “Chánh pháp nhãn tạng là thế nào?”. Sư đáp: “Đá văng chậu cát”. Sư Am gật đầu. Khi hoằng hóa sư ngụ tại Ô Cự, sau dời về Hoa Tạng tại Tưởng sơn, Tường phù. Sau nhận lệnh vua trụ tại chùa Linh Ẩn, Kinh sơn. Sau về Thái Bạch thì mất. Tháp dựng giữa núi Thiên Đồng, táng toàn thân.  



Bài tán:

Tịch diệt chánh pháp nhãn

Đạp chậu cát vỡ tan

Lệnh ấy đã đưa ra

An tọa dứt đất trời

Thóc và cám Phật Tổ

Vùi lấp con cháu ta

Mồ hôi và công sức

Còn nhắc đến đời sau



Bài kệ:

Ngày 6 tháng 9 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Chánh pháp nhãn tạng hỏi trước tiên

Thượng đường lại hỏi những nghi nan

Tâm trực đạo tràng thường phẳng lặng

Ý thành công đức quả nghiêm trang.

Hoa Tạng, Tường Phù làm tọa chủ

Kính Sơn, Linh Ẩn dạy cung vàng

Lui về Thái Bạch vào chân đạo

Phụng thờ dựng tháp giữa Thiên Đồng.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 28 Sep 2015, 11:49 PM | Message # 83
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 52. Thiền sư Phá Am Tổ Tiên (1136-1211)  

Sư họ Vương, người Quảng An, tham yết sư Mật Am tại Linh Ẩn, được chia tòa ngồi. Có một vị tăng hỏi: “Con cháu người Hồ không nắm bắt được. Xin chỉ rõ cho” . Sư nói: “Bắt làm chi?. Khi gió thổi thì tự nhiên nước gợn sóng”. Tháp dựng nơi chùa Tú Phong, Cô Tô.

……………………………….

*Gốc từ đất người Hồ hoặc đến từ bên ngoài Trung quốc. Ổ đây chỉ cho Phật pháp đến từ Ấn Độ.



Bài tán:

Bắt để mà chi

Sớm đã lộ bày

Gió thổi sóng gợn

Chim mây cùng bay.

Câu sau tiếng trước

Người chết vô số

Lá rụng trời thu

Phật tràng khó thấy. 



Bài kệ:

Ngày 8 tháng 9 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Phá Am Tổ Tiên con cháu đông

Tây Thục, Đông Ngô diễn đại tông

Hàm chia tòa pháp khuyên tinh tiến

Đừng ngu, khỉ vượn khó điều tâm.

Vốn không một vật nơi nào chấp

Nổi sóng muôn chiều luống uổng công

Hướng ngoại tìm cầu bao năm tháng

Mong ngóng cao xa tự nhọc lòng.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 28 Sep 2015, 11:54 PM | Message # 84
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 53. Thiền sư Vô Chuẩn Sư Phạm (1178-1249)

Sư họ Ung, người Tủu Châu, Tứ Xuyên. Thuở đầu tham yết sư Phật Chiếu ở dục Vương. Sư Chiếu hỏi: “Ông người xứ nào?”. Sư đáp:” Thưa người Kiếm Châu”. Lại hỏi: “Có mang được kiếm đến không?”. Sư liền hét lớn. Sư Chiếu cười, nói: “Gã đầu tóc bờm xờm này cũng làm loạn”. Sau đến Linh Ẩn Phá Am làm thượng thủ, cùng đến núi Thạch Duẫn. Có người đưa ra thoại đầu “con cháu họ Hồ”, sư nhân hầu thầy mà đại ngộ, về sau khai pháp tại Kính Sơn, dâng hương cúng dường Phá Am. Năm Thuần Hựu đời Tống, ngày 15 tháng 3 năm Mậu Thân (1249), viết kệ:

Lúc đến chẳng cầu chi

Đi cũng không ngăn ngại

Muốn hỏi nơi đầu mối

Cầu đá núi Thiên Thai .

Chốc lát thì thị tịch, tháp dựng tại Chiếu Am, táng toàn thân.



Bài tán:

Trước đồi Thạch Duẫn

Bắt đước khỉ vượn

Đáy thùng bễ rồi

Cờ pháp bay cao

Như sấm như sét

Như hùm như thỏ

Giọt sông Hô Đà

Đất nhuần cam lộ



Bài kệ:

Ngày 19 tháng 9 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Ngưỡng trông cao vợi, khó mà khoan

Sư Phạm ngàn thu lưu cổ kim

Mang gươm đến đấy mong tìm giặc

Biển khơi vung mác chém yêu tinh.

Tử sinh minh bạch thành đạo lớn

Giác tha, tự độ ngự tòa sen

Nếu hỏi lão tăng duyên sự ấy

Cầu đá Thiên Thai hãy đến tìm.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 28 Sep 2015, 11:59 PM | Message # 85
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 54. Thiền sư Tuyết Am Tổ Khâm (?-1287)

Lúc đầu sư tham yết sư Viễn ớ Song Lâm, sau đó tham sư Vô Chuẩn. Sư Chuẩn đưa ra thoại đầu chủ nhân ông, sư liền nhảy lên. Lại nói đến câu chuyện một vị sư bị kéo mũi, chuyện móng vuốt Phật Tổ, thì chẳng có lời gì nữa. Nhân có bệnh làm chướng ngại nên ở lại mười năm. Sau đó đi về núi Dục Vương, ngẫu nhiên đến trước điện Phật, bỗng dưng ngước mắt nhìn lên thấy cây tùng xưa kia hiện ra, những cảnh giới sở đắc nhất thời buông xuống, thấy rõ vùng đất chống tich trượng lại qua trong 30 năm của Kiến Sơn lão nhân là tuyệt hảo. Về sau sư khai pháp ở Đàm Châu, Long Hưng. Lúc lớn tuổi sư trụ tại Viên Châu, Ngưỡng Sơn.



Bài tán:

Phá vỡ lòng nghi

Cây bách tận trời

Kính sơn lập xứ

Kết giao tam quyền

An tọa Trung nguyên

Quét sạch mây mù

Thái bình muôn cảnh

Ngàn dặm Tuyết Nham



Bài kệ:

Ngày 20 tháng 9 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Tuyết Nham giá lạnh chẳng bao dân

Trong hàng phàm tục ít người nhân

Trước qua chốn cũ cùng lò luyện

Hiểu cạn biết sâu cũng thói thường.

Chuyên tâm trì chí về một cội

Thấy vạn mối trên lá cỏ lay

Trúc gầy tùng lớn đều có chỗ

Cơ thiền nơi cá nhảy diều bay.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 29 Sep 2015, 0:02 AM | Message # 86
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 54. Thiền sư Vô Dụng Hiền Khoan (?-1326)

Sư người Hòa Châu, họ Chu, tham yết sư Kim Ngưu tại Dã Phụ. Vừa nhìn thấy, sư Ngưu hét lớn, sư cũng hét. Sư Ngưu nói: “Ông học được ở đâu cách mở đầu này vậy?”. Sư đáp: “Hẳn là có người nghi”. Sư Ngưu liền đánh. Hôm sau sư lại đến gặp. Sư Ngưu liền đưa vào ngồi trong phòng. Bỗng ấm nước trên lò sôi tràn ra ngoài, tro tung tóe, sư hốt nhiên đại ngộ, mồ hôi ướt áo. Sư trình kệ:

Dưới bùn trâu lớn tiếng kêu

Đại thiên thế giới thảy đều lắng nghe.

Sư Ngưu gật đầu. Đúng thời điểm, sư khai pháp tại chùa Phổ Minh ở Thái Hồ, tăng nhân đến tụ họp đông đủ, ban đêm có ánh sáng từ trên cao chiếu rạng, các nơi xa gần đều cho là kỳ lạ. Vua ban tặng hiệu là Phật Chiếu Viên Ngộ. Năm Thái Định thứ ba, ngày 15 tháng 9 sư viết kệ rồi thị tịch, tháp dựng tại Thái Hồ, táng toàn thân.



Bài tán:

Một tiếng hét Kim Ngưu

Tùng đá quên tháng năm

Mây xuân và hạc nội

Hồ thu nước lắng trong.

Phật đăng trên cao chiếu

Sáng soi cả đất trời

Đông tây và nam bắc

Tất cả đều chu toàn.



Bài kệ: 

Ngày 22 tháng 9 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Thuở gặp Kim Ngưu trổi tiếng gào

Hồ xanh im sóng gợn lăn tăn

Gậy, hét giao nhau trừ chấp trước

Trang nghiêm uy đức sáng tuệ đăng.

Quét đi muôn pháp, hòa thực tướng

Buông bỏ đa đoan, hiển tánh chân

Phật quang biến chiếu hằng sa cõi

Nương dựa xa gần bậc thánh tăng.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 29 Sep 2015, 0:06 AM | Message # 87
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 55. Thiền sư Cao Phong Nguyên Diệu (1238-1295)

Sư họ Từ, người Ngô Giang, tham yết sư Tuyết Nham. Vừa đến hỏi liền bị đánh đuổi ra. Sau nghe lời tán thán chân thật về ngũ Tổ thì có chỗ tỉnh ngộ. Một hôm sư Tuyết Nham hỏi: “Trời đất mênh mông, có làm chủ được chăng?”. Sư đáp : “Làm chủ được”. Sư Nham lại hỏi: “Ngay trong mộng, không tưởng, không thấy, không nghe thì chủ nhân ông tại nơi nào?”. Sư không đáp được bèn vào chùa Long Tu ở đó năm năm. Một hôm bỗng nhiên nghe tiếng người tiểu đồng làm rơi chiếc gối, sư hốt nhiên đại ngộ, nói:

“Trước sau cũng vẫn chính người thôi

Xứ xứ bước chân chẳng đổi dời”.

Liền đóng cửa nhập thất tại Thiên Mục, trước khi lâm chung thuyết kệ thị tịch. Tháp dựng tại chỗ sư nhập thất. 



Bài tán:

Gối rơi xuống đất 

Đập vỡ hư không

Tuyết Nham núi hiểm

Qua lại voi rồng.

Gậy tre một nhánh

Chấn động trần hoàn

Uy nghi một cõi

Vạn thuở đồi tây.



Bài kệ:

Ngày 25 tháng 9 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Vô lễ mắng cho, lễ đánh đòn

Hết đường tiến thoái*, khó tiếp thu

Không theo cảnh chuyển, thành tam muội

Cam phận tôi đòi đóng cửa tu.

Trí dũng hoàn toàn buông bỏ hết

Từ bi cùng cực tỉnh độn ngu

Ứng hiện thân trên sen tịnh độ

Bảo sở kim cương đã đến rồi.

……………………………..

*Thi Kinh 詩經: Tiến thối duy cốc 進退維谷 (Đại nhã 大雅, Tang nhu 桑柔) Tiến thoái đều cùng đường.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 30 Sep 2015, 11:20 PM | Message # 88
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 55. Thiền sư Cao Ly Thiết Sơn Quỳnh (?-?) 

Sư người Tương Đàm, xuất gia năm 18 tuổi, trước tham yết sư Tuyết Nham, thường vào thất trình kiến giải, sư Tuyết Nham chỉ nói rằng còn khiếm khuyết. Một hôm sư đang nghĩ đến chữ khiếm thì hốt nhiên thân tâm thấu triệt tận cốt tủy, liền nhảy xuống thiền sàng, đến bên sư Tuyết Nham, thưa: “Tôi thiếu cái gì?”. Sư Tuyết Nham đánh cho ba tát tai, sư lễ bái, sư Tuyết Nham gật đầu. Lại đến yết kiến sư Đông Nham. Sư Đông Nham hỏi: “Tâm chẳng phải Phật, trí chẳng phải đạo, thượng tọa làm thế nào hội được?”. Sư đáp: “Ôm tang vật mà kêu oan”. Sư Đông Nham lại hỏi: “Không phải tâm, không phải Phật, không phải vật thì là cái gì?”. Sư đáp: “những con chim Cắt từ chặng mày phóng ra bay trên bầu trời”. Vua nước Cao Ly khâm phục đạo đức của sư nên thỉnh sang Cao Ly hoằng pháp. Sau sư đến chùa Từ Hóa ở Viên Châu khai đại pháp. Sư thị tịch, tháp dựng sau Quán Âm Các. Các sự việc kể trên xuất xứ từ Tăng Tập Tục Truyền Đăng Lục, quyển 5, do Kính Sơn Văn Tú soạn, niên hiệu Vĩnh Lạc nhà Minh.



Bài tán:

Phá vỡ đầu lâu 

Một chùy đau điếng

Vốn không thiếu sót

Phải qua cảnh này.

Tròng mắt quỷ rồng càng khó biết

Vô cớ ngữi mùi vạn dặm bay

Chim trời xa thẳm trên mày phóng

Lưới pháp vá trời hải ngoại khai.



Bài kệ: 

Ngày 26 tháng 9 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Hồ Nam, Tương Đàm hiện anh hùng

Long tượng nối truyền đại pháp âm

Thiết Sơn giáo hóa Cao Ly vậy

Ngưỡng Sơn chầu bậc thánh Cổ Nham.

Khí lửa chưa thành nên rèn luyện

Tìm vàng trong cát chớ dây dưa

Ngàn đập, trăm rèn thành đạo khí

Tám phương* điên đão mặc gió mưa.

……………………

*Bát phong xuy bất động (Tám gió thổi không động).


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 30 Sep 2015, 11:23 PM | Message # 89
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 55. Thiền sư Độc Am Đạo Diễn (1535-1418)

Sư người Tương Thành, Tô Châu, họ Diêu. Mười bốn tuổi xuất gia tại am Diệu Trí trong làng, theo Hư Bạch Lượng Công tu hành theo giáo pháp Thiên Thai tông, sau đó theo sư Ngu Am, khế cơ. Sư giữ chức nội ký 3 năm, khai pháp tại Phổ Khánh, sau dời về Thiên Long, tự đề trên tranh vẽ: “Nhìn rõ cây chuối và người tựa vào cây cùng an nhàn lộ cốt cách phong lưu, lúc thì phe phẩy quạt lông rùa, thấu suốt hư không cười gật đầu”. Năm Vĩnh Lạc được vua ban thưởng quan tước đều từ chối. Một hôm vua cho người mời sư vào cung bảo sư mặc áo mão quan, phong làm thầy thái tử. Sư bất đắc dĩ phải phụng mệnh. Sư có bệnh, vua đích thân đến thăm hỏi. Khi sư thị tịch vua phong tước là Vinh Quốc Công, thụy là Cung Tĩnh. Khi hỏa táng lưỡi không cháy, xá lợi năm màu. Tháp dựng tại núi Tây, thọ 84 tuổi.



Bài tán:

Đại sĩ lưu vết tích

Biến hóa ra muôn vẻ

Ba mươi hai ứng thân

Quán âm thanh thuận nghịch

Bậc đại sư như thị

Chẳng ngại thử thánh hoàng

Hao mòn thân cứu chúng

Thần nhân cùng hân hoan 



Bài kệ:

Ngày 27 tháng 9 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Tỳ khiêu lại hiện tướng tể quan

Tam muội ngao du khiếp quỷ thần

Đối cảnh vô tâm tham tạo hóa

Gặp cảnh phá tan đám địch nhân

Giúp đỡ triều đình thành nghiệp lớn

Quang vinh tổ quốc lập minh quân

Độc Am Đạo Diễn hiệu Cung Tĩnh

Mỗi ngày tu sửa mỗi ngày tân.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 30 Sep 2015, 11:24 PM | Message # 90
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 55. Thiền sư Thạch Khê Vô Nhất Toàn (?-?)

Hành trạng của sư không khảo cứu được. Duy chỉ thấy Tục Tạng chép rằng sư và sư Cao Phong cùng được sư Tuyết Phong ấn tâm. Riêng tuu thái của sư thì còn chôn dấu nơi Cổ sơn, truyền đến 300 năm vẫn cung kính như lúc còn sống, tuyên dương đạo đức sâu kín. 



Bài tán:

Thật tướng vô tướng

Cảnh tượng muôn vật

Chân thuyết vô thuyết

Tiếng suối lưỡi dài

Tùy duyên ẩn hiện

Như trăng trong nước

Chánh nhãn Tuyết Nham

Vạn cổ bất diệt



Bài kệ: 

Ngày 2 tháng 10 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Trời nói gì đâu, trải bốn mùa

Thánh nhân lập đức chẳng kể công

Một vật không xưng, đây thực tướng

Xuất sinh trăm sự, ấy chân không.

Thiện mong người biết, nào phải thiện

Ác sợ ai hay, ác tận cùng

Tướng lưỡi Thạch Khê không dứt tiếng

Thiên thu muôn kiếp nối Phật đăng.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 30 Sep 2015, 11:28 PM | Message # 91
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 56. Thiền sư Đoạn Nhai Liễu Nghĩa (1265-1334) 

Sư họ Dương, người Đức Thanh, từ thuở nhỏ đã chay lạt. Năm 17 tuổi, nghe danh sư Văn Cao khai đường thuyết giảng liền tìm đến. Sư Phong ra lệnh tham thoại đầu “vạn pháp quy nhất”. Một hôm, nhân thấy tuyết trên cây tùng rơi xuống thì có chỗ tỉnh ngộ, trình kệ lên sư Phong. Sư Phong đánh cho mấy hèo té xuống triền núi. Từ đó sư càng cầu học, đến ngày thứ 7 thì hốt nhiên đại ngộ. Sư đến cổng, kêu lớn: “Lão hòa thượng ngày nay không còn dấu ta được nữa rồi”. Lại trình kệ:

Sơn hà đại địa một phiến băng

Hiện ra liền mất, bóng thái dương

Nay chẳng còn nghi chư Phật Tổ

Đâu còn nam bắc với tây đông.

Sư Phong ấn chứng. Sau đó mới cho xuống tóc. Năm 70 tuổi sư ngụ tại chùa Sư Tử Chánh Tông, năm sau thì mất. Trước đó sư bảo thị giả: “Ngày mai lão tăng đi Thiên Thai”. Hôm sau vào giờ Ngọ, sư an tọa mà hóa. Vua ban tặng hiệu là Phật Tuệ Viên Minh Chánh Giác Phổ Độ Đại Sư.



Bài tán:

Phá vỡ vách núi 

Ném tung phiến tuyết

Cơ như sấm dậy

Lời như sắt đá

Ẩn năm mươi năm

Lửa không thể đốt

Rốt ráo điên đảo

Thánh tích diệt tận



Bài kệ:

Ngày 3 tháng 10 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Chào đời chay lạt đủ thiện nhân

Duyên xưa theo học với Cao Phong

Gậy, hét, không quên Bồ đề chí

Tinh tế tham cầu bát nhã không.

Sơn hà đại địa trong phiến tuyết

Muôn phương bền vững biển vi trần

Pháp giới biến thiên không dấu tích

Như chim bay lượn mặc xa gần.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 30 Sep 2015, 11:34 PM | Message # 92
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 56. Thiền sư Trung Phong Minh Bản (1263-1323)

Sư họ Tôn, người Tiền Đường, Hàng Châu, nhân quán nước suối chảy có tỉnh ngộ, trình lên sư Cao Phong cầu ấn chứng, sư Phong đánh đuổi ra. Sau đó có việc tuyển các đồng nam, đồng nữ vào cung, sư thưa với sư Phong: “Nếu có người hỏi hòa thượng luận về các đồng nam đồng nữ thì thế nào?”. Sư Phong nói: “Ta lấy cây trúc bề* độ nó”. Sư nghe lời này liền triệt ngộ gốc rể các pháp. Sư biện tài vô ngại, vang danh đến triều đình, vua thỉnh sư thuyết pháp, rất mực tôn kính đạo đức của sư, ban tặng hiệu là Phổ Ứng Quốc Sư. Trước khi hóa, sư thuyết kệ từ biệt đồ chúng. Tháp táng toàn thân, dựng tại Thiên Mục.

………………………

*竹篦; J: shippei, chikuhei;

Một que trúc dài khoảng 50 cm, hình khom cánh cung, sơn son. Các vị Thiền sư thời xưa thường sử dụng trúc bề để khuyến khích, tiếp dẫn đệ tử. Trong nhiều Công án được lưu lại, trúc bề đóng một vai trò như cây Phất tử. (Từ điển Đạo Uyển)



Bài tán:

Thấy nước thì biết nguồn

Thấy cầu gặp đường lộ

Vận xuất hiện trân quý

Mở các cửa lớn nhỏ

Sức tam muội biện tài

Như nước sông cuồn cuộn

Tiếng vang đến cung vua

Dựng pháp đàn độ chúng. 



Bài kệ: 

Ngày 4 tháng 10 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Đất Phật Hàng Châu lắm tăng tài

Long tượng pháp môn ngập cõi này

Nhìn nước trên nguồn cầu ấn chứng

Thấy cây cao lớn hóa công bày.

Đồng nam nhập đạo kim cương thể

Hào kiệt xuất gia đại giác hề

Vua thỉnh chỉ con đường tu tập

Với người lão có một que tre.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 30 Sep 2015, 11:38 PM | Message # 93
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 56. Thiền sư Bích Phong Bảo Kim (1308-1372)

Sư họ Thạch, người Càn Châu, Vĩnh Thọ, lúc sinh ra có ánh sáng trắng đầy phòng. Đến năm 6 tuổi xuất gia, đi khắp nơi ngao du, chợt tán thán chỗ gọi là phi, liền thay áo đến tham vấn sư Như Hải tại Tấn Vân. Sư mang giỏ đi hái rau, liền nhập định ba thời mới xuất định. Sư trình kiến giải nhưng không khế hợp. Sư Hải bảo sư rằng phiền não tạm dừng khiến vọng tâm dứt tuyệt, thấu suốt chỗ tâm yếu thì đại pháp mới sáng tỏ.Vì vậy suốt ba năm lưng sư không chạm chiếu. Một hôm, nhân nghe tiếng đốn cây, hốt nhiên sư toát mồ hôi, tự nhủ: “Người xưa đại ngộ 18 lần, tiểu ngộ thì vô số, không thể lừa dối ta. Việc trước chưa sinh, ngày nay đã rõ”. Sư tìm ấn chứng, khai pháp tại Ngũ Đài, đồ chúng rất đông. Năm Chí Chánh đời Hồng Vũ, hai đời vua vời sư đến hỏi pháp. Tháng 6 năm Nhâm Tí sư thị tịch, hỏa táng có xá lợi năm màu. 



Bài tán:

Ánh sáng trắng rực rỡ

Trong pháp hiện điềm lành

Nghe tiếng đốn cây ngã

Còn chuyện gì nữa ư?

Hai lần thỉnh vào cung

Nêu cao chiếc ấn Tổ

Ân vua ban thấm nhuần

Hát vang trên đường về.



Bài kệ:

Ngày 9 tháng 10 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Đi khắp quán hàng vun thiện căn

Gốc vững cành tươi ẩn dáng xuân

Thân lạnh thấu xương bao lần chịu

Tựu thành muôn đức ngát thơm hương.

Một chữ rõ bày, xong việc lớn

Thể không chẳng đổi, gốc cội nguồn

Cung điện hai lần tuyên thánh giáo

Trăm quan cùng lúc đến nghe kinh.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 30 Sep 2015, 11:54 PM | Message # 94
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 56. Thiền sư Tùng Ẩn Mậu (1280-1364)

Sư họ Trịnh, người Thuận Hóa, 18 tuổi xuất gia, dày công tham vấn các nơi. Khi tham yết sư Bảo Ninh, sư Ninh hỏi: “Đến đây làn gi?”. Sư nói: “Sinh tử đại sự, cầu được xuất ly”. Sư Ninh nói: “Bíết rõ tứ đại ngũ uẩn là nguồn gốc sinh tử. Do đâu mà vào túi da này?”. Sư đang suy nghĩ đáp lại thì sư Ninh liền đánh, sư hốt nhiên ngộ nhập. Những năm sau sư về ẩn tại Đông Đường. Một hôm sư thị hiện có bệnh, tập họp đồ chúng từ biệt. Đồ chúng thỉnh kệ, sư đưa tay chỉ vào thân, nói: “Trong đây đã rõ thông thì cần kệ làm chi nữa. Sư an tọa trên chiếc ghế, nắm tay phải lại để lên đầu mà hóa, thọ 85 tuổi. Khi hỏa táng có điềm lành hoa trời rơi xuống, vô số xá lợi. Tháp dựng tại đồi tây Thụy Vân.



Bài tán:

Từ trong vô luợng kiếp

Ôm ấp túi da hôi

Chỉ với một quả đấm

Như tuyết gặp nước sôi.

Cả người là cái miệng

Lỗ long phóng hào quang

Trước sau đều sáng tỏ

Hoa trời bay theo gió. 



Bài kệ: 

Ngày 10 tháng 10 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Như mang tang mẹ, đạo chưa minh

Bỏ ăn, quên ngủ, xuất thế tình

Lọng trời tay đấm liền tan hoại

A tỳ chân đạp ngã ngục đài.

Quán thông thấu suốt hư không vỡ

Một nhảy vào trong chân tánh ngay

Lỗ lông chiếu sáng thân và miệng

Thâm sâu, Tùng Ẩn Mậu, ai hay.



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 30 Sep 2015, 11:57 PM | Message # 95
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 56. Thiền sư Tuyệt Học Thế Thành (1270-1342)

Sư nói với đồ chúng: “Phàm người có chí sống trong chúng củi khô sẳn nước, tăng đường ấm áp nên phát nguyện ba năm không ra khỏi cửa, quyết định thành đại dụng mới đáng công phu, lòng an ổn thanh tịnh trước mắt, mở lời thành kệ, miệng lưỡi nhanh nhẹn, làm được việc lớn không uổng một đời. Xưa nay nhiều người mang nhiều hoài bảo đã bỏ phế giữa đường. Khi hơi thở không trở lại thì làm sao bảo đảm được gì. Hỡi các huynh đệ, nếu muốn xuất ly sinh tử, khi tham thì phải chân tham, khi ngộ thì phải thật ngộ mới được. 



Bài tán:

Sẳn nước, củi khô

Thật ngộ chân tham

Dằng dặc sinh tử

Há phải lúc nhàn

Tấm lòng lão bà

Ruột gan thống thiết

Nhà lửa ba cõi

Bên ngoài tự an.



Bài kệ:

Ngày 12 tháng 10 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Có chí tu hành mãi tất xong

Ba năm bất động diệu uy thần

Được ít tưởng nhiều đâu đại khí

Được nhiều tự mãn há kỳ nhân.

Giấu tài, ẩn tích lo tu luyện

Cất kín giáo gươm, dưỡng tuệ tâm

Hết lòng tha thiết thương đồng loại

Phổ độ muôn loài thoát tử sinh.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 01 Oct 2015, 0:01 AM | Message # 96
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 57. Thiền sư Thiên Như Duy Tắc (?-1354)

Sư họ Đàm, người Cát An. Sau khi xuất gia sư là người nối pháp sư Minh Bản, được lệnh giữ chức thủ chúng. Đồ chúng kinh ngạc đưa ra nghi vấn, khi nghe sư thuyết pháp thì không thể chẳng khâm phục. Năm Nhâm Ngọ hiệu Chí Chánh, sư trụ tại vườn sư tử, Tô Châu nhưng không thăng đường thuyết giảng mà chỉ lấy lễ như một am chủ tiếp đãi đồ chúng. Vua nhiều lần xuống chiếu thỉnh mời nhưng sư cáo bệnh không thuận theo. Sư là người đã khế hợp tông chỉ, thường trước đồ chúng, nói: “Phải tin vào những gì mình tự có vốn tươi sáng, linh hoạt, không ngăn ngại. Chính vào lúc trực ngộ, là khi nhất niệm tương ưng bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào, nơi tâm không tâm, nơi sự không sự, tự nhiên phải trái đều quy về nguồn cội thì hẳn an vui cả đời. Sau sư hóa tại núi cũ, để lại Lăng Nghiêm Hội Giải, và bốn quển Ngữ Lục lưu hành. 



Bài tán:

Người còn trong hang 

Héo khô, tàn rủ

Nước chảy ven rừng

Như sáu rùa ẩn

Có thì như huyễn

Có sư trong rừng

Nào xưng am chủ

Dám làm thầy người?



Bài kệ: 

Ngày 13 tháng 10 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Hiệu là Duy Tắc, nối Trung Phong

Khuôn mẫu đời sau dám biếng lười

Đồ chúng hãi kinh nghi vấn khởi

An định chư tăng lộ bản hoài.

Quay lại chính mình là bảo vật

Đài gương sáng ấy chớ cầu ngoài

Đức hạnh khiêm cung gần kẻ sĩ

Mênh mông họa phúc dứt trần ai.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 01 Oct 2015, 0:04 AM | Message # 97
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 57. Thiền sư Thiên Nham Nguyên Trường (1284-1357)

Sư họ Đổng, người Tiêu Sơn, Thiệu Hưng, tham kiến sư Trung Phong nhận tham thoại đầu “Con chó không có Phật tánh”. Ba năm sau, nhân nghe chim hót có chỗ tỉnh ngộ, cầu sư Phong ấn chứng nhưng bị sư Phong gạt đi, sư buồn bực. Đêm đến, chợt nghe tiếng chuột chạy làm rơi xuống đất chén thức ăn của mèo gây tiếng động, sư hốt nhiên khai ngộ. Sư lại đến sư Phong cầu ấn chứng. Sư Phong hỏi: “Vì sao Triệu Châu không nói?. Sư đáp: “Chuột ăn cơm của mèo”. Sư Phong nói: “Chưa được”. Sư nói: “Chén đựng cơm vỡ tan”. Sư Phong hỏi: “Sau đó thì sao?”. Sư đáp: “Thành gạch vụn”. Sư Phong mỉm cười. Sau sư khai pháp tại Phục Long. Ngày 14 tháng 6 năm Đinh Dậu hiệu Chí Chánh, sư viết kệ:

“Bình sinh nhiều lời

Ngày nay khiếm khuyết

Một câu động trời

Chánh pháp nhãn diệt”

Sư buông bút mà hóa. 



Bài tán:

Chạm phải chén mèo rơi

Vỡ nát thành gạch vụn

Bị ép rồi bị chèn

Kinh đất lại động trời

Chim Bằng bay cao vút

Cá Kình hớp sông dài

Rồng nằm trên đỉnh núi

Mưa pháp tuôn nơi nơi.



Bài kệ:  

Ngày 19 tháng 10 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Chấp không chấp có dụng tâm sai

Trung đạo liễu nghĩa chẳng trần ai

Chim chóc líu lo tuyên diệu đế

Mèo vồ chuột nhảy chánh văn bày.

Vật tan, gạch đổ về tịch tĩnh

Gió động nước tung sóng gặp mây

Hốt nhiên triệt ngộ chân diện mục

Đại viên kính trí sáng xưa nay.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 01 Oct 2015, 0:07 AM | Message # 98
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 57. Thiền sư Vô Chiếu Huyền Giám (?-?)

Sư người Phổ Lỗ Cát, Khúc Tỉnh, Vân Nam, cha làm quan An Ninh, sư sinh ra nơi đó. Khi trưởng thành sư theo sư Vân Nham Tịnh Công ở Hổ Khâu xuất gia, làm bạn với sư Niệm Am. Lúc đầu sư học giáo quán, không thấy được cứu cánh nên tham vấn các sư Không Am Nhất, Cao Phong Diệu, khế hợp tâm ấn tại Trung Phong. Sư Phong phân làm đệ nhất tòa cho sư thuyết giảng. Chẳng bao lâu sư trở về Vân Nam, khai pháp tại núi Đại Hoa, hoằng hóa tông chỉ niêm hoa của Đức Thích Ca. Sư thị tịch tại núi Đại Hoa, thọ 37 tuổi. Tháp dựng tại đây.



Bài tán:

Ý Tổ, ý giáo

Không thể so đo

Gặp sư độn căn

Phí đôi hài cỏ

Đức cao tồn tại

Hóa hoằng thành tựu

Pháp pháp vô ngại

Sáng soi trời đất



Bài kệ:  

Ngày 31 tháng 10 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Người Phổ Lỗ Cát tỉnh Vân Nam

Hiệu là Huyền Giám rạng không trung

Trước học giáo quán không viên mãn

Quay sang thiền quán ngộ cội nguồn.

Chiếu pháp chia tòa nêu tâm ấn

Đại Hoa mạch tổ tiếng tơ đồng

Ân đức lưu truyền như bay lượn

Ngước nhìn núi biếc, nước xuôi dòng.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 01 Oct 2015, 0:09 AM | Message # 99
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 57. Thiền sư Kính Sơn Lý Đàm Tông (1318-1391)

Sư người Thai Chi, Lâm Hải, 8 tuổi theo sư Tiểu Ẩn học Phật, 14 tuổi xuất gia khai pháp tại Kính Sơn nổi danh tiếng, vua Minh thái Tổ ban chiếu và nhiều ân sủng cho sư trụ trì chùa Thiên giới. Tống học Sĩ Liêm đã tán thán sư:

“Người con Tiểu Ẩn

Cháu bậc Hối Cơ

Đủ phúc đức lớn

Chứng đại trí tuệ

Người người tôn kính”

Sư biên soạn Toàn thất tập, đồng thời chú giải Kim Cương Bát Nhã và tâm kinh, ba quyển kinh Lăng Già lưu hành thế gian. 



Bài tán:

Rồng bay năm bậc

Vận pháp canh tân

Như mây đưa theo

Quốc bảo ngọc trân.

Không nhiễm vinh hoa

Lời trời nồng ấm

Mai sau nghiêng đổ

Ai nối thanh âm?



Bài kệ:   

Ngày 1 tháng 11 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Tám tuổi theo sư Tiếu Ẩn tu

Mười bốn xuất gia kim cổ thông

Kính sơn khai pháp vang danh tiếng

Thọ muôn ân sủng chốn hoàng cung.

Nền phước đức xưa đà thâm hậu

Khác hẳn phàm phu, trí hiện tiền

Kim cương bát nhã tâm kinh chú

Vạn kiếp lưu truyền độ hữu duyên.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 01 Oct 2015, 0:14 AM | Message # 100
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Đời thứ 57. Thiền sư Hoa Đình Huyền Phong (1266-1349)

Sư người nước Sở, họ Chu, ông nội làm quan ở Điền Nam, vốn là người Côn Minh. Khi người mẹ mộng thấy mây lành nhiễu quanh nhà thì sinh ra sư. Từ niên thiếu sư đã lộ đủ uy nghi và trí tuệ. Năm 12 tuổi thông thạo Nho học, đến năm 14 tuổi thì xa trần hồng, theo pháp sư Hùng Biện xuất gia, thọ giới cụ túc. Lại tham vấn Bảo Tích Đàn Chủ, kết bạn với sư Tuyết Đình. Một hôm khán thoại đầu cây bách khởi nghi, đến ngồi thiền dưới gốc cây suốt bảy ngày. Khi nghe tiếng chim hót, chợt tỉnh. Sư lại đi về phương Đông, đến Thiên Mục, khi nghe được một câu của sư Trung Phong liền buông bỏ pháp phương tiện*, được ấn chứng. Sư đi về Vân Nam, sư Phong nói kệ:

Trăm ức nhật nguyệt tỏa bốn phương

Chiếu xuyên qua vách ngọn Ngân sơn

Trong ngoài am thất hồng quang rạng

Mầm mống tâm vương** hẳn rõ ràng.

Sư khai pháp tại Hoa Đình, tác phong đạo đức vang xa gần. Vào mùng 3 tháng 12 năm Chí Chánh thứ 9 ngày lành, sư nói với đồ chúng: “Hãy nhớ mùng 8 tháng 12 tôi sẽ ra đi”. Sư sinh năm Bính Dần đời Trung Thống, thọ 84 tuổi, hạ lạp 70. Tháp dựng tại núi này. Sư biên soạn Cao Tăng Truyện và Ngữ Lục còn lưu hành.

………………………………

*nơm là phương tiện dùng để bắt cá.

**(心王) Đối lại: Tâm sở. Vua tâm, tức chỉ cho chủ thể của 6 thức hoặc 8 thức, là Tâm pháp trong 5 vị theo cách phân loại và sắp xếp của Hữu bộ và tông Pháp tướng. Thuyết nhất thiết hữu bộ cho thể tính của 6 thức: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý là một, cho nên chủ trương Tâm vương chỉ có một; còn tong Pháp tướng thì cho 8 thức (ngoài 6 thức còn thêm thức Mạt na, thức A lại da), mỗi thức đều có thể tính riêng, cho nên chủ trương Tâm vương là 8. [X. Bách pháp minh môn luận trung sớ Q.thượng; Bách pháp minh môn luận sớ Q.thượng]. (xt. Tâm Tâm Sở, Tâm Sở). (Tự điển Phật Quang).



Bài tán:

Thoại đầu cây bách

Thậm thâm diệu huyền

Trung Phong chỉ ra

Động địa kinh thiên.

Phá tan cửa trước

Mũi còn nửa bên

Hoa Đình dưỡng tài

Tuệ đăng lưu truyền.



Bài kệ:   

Ngày 2 tháng 11 năm 1984

Tuyên công thượng nhân viết: 



Mây về quyện thất, sinh Huyền Phong

Tuệ xưa đầy đủ phá mê cung

Bể trần sớm biết năm mười bốn

Chín mươi sáu đạo phải đổi lòng.

Pháp thoại cây tùng toàn thể hiện

Chân núi Ngân sơn ngộ bổn tâm.

Pháp đăng mãi mãi Hoa Đình chiếu

Nguyện khắp xa gần trải đức ân.



Đại Bi Chú
 
FORUM » TRANG PHẬT GIÁO » TRUYỆN PHẬT GIÁO » Phật Tổ đạo ảnh
Search:


TỰ-ĐIỂN TRỰC-TUYẾN :

Từ Điển Online
Bấm vào dấu V để chọn loại Tự-Điển
Gõ Chữ muốn tìm vào khung trắng dưới đây:
Xong bấm GO