Thứ Bảy
18 May 2024
3:28 PM
ĐĂNG NHẬP


Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

[ BÀI VIẾT MỚI · Forum rules · TÌM KIẾM · RSS ]
FORUM » TRANG PHẬT GIÁO » TRUYỆN PHẬT GIÁO » Những đoá hoa Thiền (Dịch gỉa: Dương Đình Hỷ)
Những đoá hoa Thiền
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 04 Aug 2012, 4:43 PM | Message # 251
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1226. Dùng nèo chỉ cơ.

Hòa thượng Bí Ma Nham ở Ngũ Đài Sơn tay thường cầm một cái nèo, thấy ông tăng nào đến lạy liền dùng nèo móc vào cổ hỏi:
- Ma quỷ nào bảo ngươi xuất gia? Ma quỷ nào bảo ngươi hành cước? Đáp được hay không đều chết dưới cây nèo này, nói mau! Nói mau!
Học tăng ít người trả lời được.
(Bồ đề linh quang)
Trực tâm là Đạo, cứ vươn thẳng cổ ra để thiền sư móc.

1227. Cơ ngữ qua sông.

Lương Giới cùng Mật sư bá cùng qua sông. Lương Giới hỏi:
- Qua sông thế nào?
- Không làm ướt chân.
- Sư bá già rồi còn nói vậy!
- Còn ngươi thì nói sao?
- Chân không bị ướt.
(Bồ đề linh quang)
Nói điên đảo làm lộ ra “ngã” chủ thể. Thật là chân ngộ vậy.

1228. Có khác gì khóc.

Ngưỡng Sơn lúc còn là chú tiểu, tụng kinh tiếng rất vang. Nhũ Nguyên la:
- Chú này đọc kinh như khóc.
- Đúng vậy, còn hòa thượng thì sao?
Nhũ Nguyên nhìn quanh không hiểu.
- Nều thầy như vậy thì có gì khác với khóc đâu?
(Bồ đề linh quang)
Bản tánh tự nhiên, không bó buộc theo một cách nào cả.

1229. Tường Đông đánh tường Tây.

Một ông tăng hỏi Quy Nhân:
- Sinh hoạt của Linh Tuyền (pháp hiệu của Quy Nhân) thế nào?
- Tường Đông đánh tường Tây.
- Vậy làm sao qua ngày?
- Nồi không chân, lửa không khói.
- Sáng tối hai thời làm sao cúng dường?
- Ông lão quê thổi cơm không có gạo, buổi họp mặt bên bờ suối không có người đến dự.
(Bồ đề linh quang)
Cách sinh hoạt của Linh Tuyền là tứ đại giai không.

1230. Đánh vỡ đáy thùng.

Lâm Tế từng nói:
- Khi ta chưa khai ngộ, thấy quanh mình đều là sơn đen, giống như bị cấm cố trong một cái thùng vậy.
(Bồ đề linh quang)
Người sau nhân đó khi giải thoát được mê vọng hoát nhiên tỉnh ngộ gọi là phá vỡ đáy thùng. Bàn Khuê cũng có một câu kệ:
Đáy thùng cổ vỡ rồi
Cả một vòng đất trời!
Đáy thùng vỡ rồi, phía dưới là một vòng tròn, trời đất đều ở trong đó.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 04 Aug 2012, 4:44 PM | Message # 252
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1231. Bao dung.

Có 2 chú tiểu tranh cãi, không ai nhường ai; chỉ còn cách tìm sư phụ làm trọng tài. Chú thứ nhất trình sư phụ lý do của mình. Sư phụ nghe rồi bảo:
- Ngươi đúng!
Chú ta nghe rồi vui vẻ đi ra.
Chú thứ hai trình ý kiến của mình, sư phụ nghe rồi bảo:
- Ngươi cũng rất đúng!
Chú này rất cao hứng đi ra.
Thị giả đứng hầu một bên, ngạc nhiên hỏi:
- Sư phụ bảo chú này đúng, chú kia cũng đúng, vậy thì ai sai?
Thiền sư cuời bảo thị giả:
- Ngươi cũng đúng!
(Hảo tuyết phiến phiến)
Có thị phi là có đối đãi, không khế hợp với Đạo. Thiền tâm là bao dung. Kinh Hoa Nghiêm nói nếu trụ ở phân biệt sẽ làm hỏng mất thanh tịnh, ngu si tà kiến tăng, vĩnh viễn không thấy được chư Phật. Đối với người mới tu, bao dung là một loại học tập; còn đối với người khai ngộ, đã thấy được thực tướng của vạn pháp, biết Phật tánh của mọi người đều bình đẳng thì sự bao dung là lý đương nhiên.

1232. Phật là thế nào?

Có một ông tăng hỏi Diên Chiểu:
- Thế nào là Phật?
- Thế nào là không Phật?
Ông tăng thưa:
- Con không rõ lời huyền diệu, xin thầy trực tiếp chỉ thị.
- Nhà ở bờ biển Đông, mặt trời lên sẽ được chiếu sáng trước.
(Bồ đề linh quang)
Phật ở mọi thời, mọi nơi, phản chiếu tự tâm sẽ thấy.

1233. Nở đã lâu rồi.

Một ông tăng hỏi thiền sư:
- Cây nở hoa không?
- Đã nở lâu rồi.
- Còn kết quả không?
- Đêm qua sương xuống làm rụng rồi!
(Bồ đề linh quang)
Nở hoa, kết quả là bản tánh của cây. Chấp vào kết quả là còn mê vọng.

1234. Hoa sen nở trên đá.

Có ông tăng hỏi thiền sư Uẩn:
- Thế nào là thiền?
- Hoa sen trên đá, nước suối trong lò lửa.
- Thế nào là Đạo?
- Một cọng cỏ trên đỉnh Lăng Già.
- Thiền và Đạo khác biệt thế nào?
- Người bùn xuống nước, người gỗ mò tìm.
(Bồ đề linh quang)
Thiền là ngộ ở trong tâm, ở bên ngoài nhìn không thấy, sờ không được.

1235. Chuyện cây bách có tặc cơ.

Đức Sơn Sơ Kỳ, Ẩn Nguyên sang Nhật Bản truyền giáo. Đây là một sự kiện trọng đại. Kể từ đời Liêm Thương Thiền từ Trung Quốc truyền sang Nhật Bản, ít có cao tăng đến Nhật. Chư Tăng Nhật Bản rất kính trọng mời ông trụ trì Bản Sơn Diệu Tâm Tự. Ẩn Nguyên có lần đến Hoa Viên Diệu Tâm Tự ở kinh đô hỏi:
- Khai sơn tổ sư của quý tự có để lại ngữ lục gì không?
- Không có ngữ lục, nhưng có để lại một câu “Chuyện cây bách có tặc cơ” (Xem công án 786)
Ẩn Nguyên kinh ngạc, kính phục thiền học của Quan Sơn hướng về tháp Quan Sơn mà vái lạy.
(Bồ đề linh quang)
Chữ tặc trong tặc cơ chỉ người mạnh lấy đi vật của người khác. Ở đây chỉ thiền giả lấy đi vọng tưởng phiền não, khiến thiền sinh thấy được khuôn mặt xưa nay.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 05 Aug 2012, 1:37 AM | Message # 253
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1236. Mười phương thế giới là tâm ngươi.

Có ông tăng hỏi Trường Sa Cảnh Sầm:
- Tâm con có dạng thức gì?
- Chính mười phương thế giới là tâm ngươi.
- Nếu tâm con rộng lớn như thế thì thân thể con ở đâu? Chẳng lẽ không có chỗ để thân sao?
- Đó chính là chỗ để thân ngươi.
(Bồ đề linh quang)
Tâm và thế giới hợp nhất tức là thiền cảnh.

1237. Tùy xứ an nhàn.

Hoa Nghiêm hỏi Thạch Môn:
- Cổ nhân nói: “Một người có thể làm tâm an ninh nhàn dật thì tự nhiên cùng Đạo hợp nhất”. Điều này có phải là chân lý không và cứ thế mà làm thì có đúng không? Xin thầy giải thích.
- Nếu hiểu đạo lý này có thể tùy xứ an ninh, bình hòa giống như một người ở thành thị nghe được chuyện lạ vẫn bình tĩnh. Không hiểu đạo lý này tâm cũng có thể an ninh, bình hòa nhưng giống như một người ở làng quê nghe được chuyện lạ thì kinh dị đi loan truyền khắp nơi.
Hoa Nghiêm nghe rồi có chút lãnh hội.
(Bồ đề linh quang)
Tâm bình thường là Đạo, như người ngồi thuyền gặp sóng gió, nếu coi tất cả đều không thì dù có gập biến cũng không sợ hãi.

1238. Vô tâm gõ vô tâm.

Có một ông quan chỉ cái mõ hỏi Hồng Nhân:
- Cái này là cái gì?
- Vật để cảnh tỉnh người buồn ngủ.
- May tới chốn này!
- Thật là (người) vô tâm gõ (vật) vô tâm.
(Bồ đề linh quang).
Khoảng không trong mõ là “vô tâm”. Người vô tâm là không vọng niệm. Vô tâm gõ vô tâm mới là vào thẳng cửa không.

1239. Trời sáng gà gáy.

Một ông tăng hỏi Nguyệt Luân:
- Phải tu hành thế nào để thấy khuôn mặt xưa nay?
- Không cần phải treo gương đá, hễ trời sáng là gà gáy.
(Bồ đề linh quang)
Thấy khuôn mặt xưa nay là chỉ minh tâm kiến tánh, treo gương đá chỉ cầu Phật là hư vọng. Câu của thiền sư có nghĩa là ngộ rồi thì có thể kiến tánh thành Phật.

1240. Khởi công từ chỗ nào?

Triệu Châu và thủ tọa cùng đi thăm cầu đá Triệu Châu, Triệu Châu hỏi:
- Cầu này ai xây?
- Lý Dung thiết kế và xây.
- Xây từ chỗ nào?
Thủ tọa không lời đối lại, Triệu Châu bảo:
- Bình thời ngươi nói về cầu đá Triệu Châu rành rẽ lắm, sao hỏi ngươi chỗ hạ thủ lại không biết?
(Bồ đề linh quang)
Chỗ nào là chỉ không gian. Trong Phật giáo chỗ nào chính là chỗ này; tất cả đều bắt đầu từ đây. Khởi điểm của Thiền ở đây, bây giờ, tự mình. Nếu lìa chúng thì thiền đạo cũng không tồn tại.



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 05 Aug 2012, 1:39 AM | Message # 254
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1241. Không chấp tướng.

Thiền sư Cảnh Sầm người Trường Sa là đệ tử của thiền sư Nam Tuyền, đàm thiền luận đạo, cơ phong mẫn tiệp; đồng đạo đều tôn xưng là hổ hòa thượng. Một tết trung thu, Cảnh Sầm và Ngưỡng Sơn cùng thưởng nguyệt. Ngưỡng Sơn chỉ trời nói:
- Cái này mọi người đều có, chỉ vì vô minh nên không sử dụng được.
Cảnh Sầm không cho là phải:
- Nếu mọi người đều có, làm sao không có ai sử dụng được? May hôm nay cơ duyên hội hợp; vầng trăng sáng này chờ ngươi sử dụng. hãy thử xem nào!
- Dùng trăng sáng rất thú vị, mời pháp tọa dùng thử trước.
Cảnh Sầm không khách khí đạp ngã Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn không giận còn tán thán “Thật giống hổ”. Vì thế về sau mọi người đều gọi ông là Sầm Đại Trùng.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Ngưỡng Sơn nói trăng sáng bị mây che lấp tương tự tâm chúng ta bị vô minh, phiền não che lấp. Cảnh Sầm thì cho rằng chỉ cần có thiền thì mây tan trăng lộ. Đạp ngã Ngưỡng Sơn chỉ dưới ánh trăng thiền còn cần gì ngươi nói nhiều? Câu tán thán của Ngưỡng Sơn có nghĩa là thiền có thể tĩnh, có thể động, thiền lực như sư tử, hổ báo.

1242. Chặt giun làm hai.

Đời mạt Đường, một ông tăng hỏi Diên Khánh:
- Một con giun bị chặt đôi, hai đầu đều động đậy, không biết Phật tánh ở đầu nào?
Diên Khánh không đáp, chỉ dang hai tay ra.
(Bồ đề linh quang)
Diên Khánh dùng tay để diễn ý hai tay đều động, Phật tánh ở đâu? Phật tánh ở tâm, không đâu không có (Xem thêm công án 1954).

1243. Ngày nay, ngày mai.

Có ông tăng hỏi thiền sư Diễn Giáo:
- Ý tổ sư từ Tây sang là gì?
- Ngày nay, ngày mai.
(Bồ đề linh quang)
Ngày nay, ngày mai đều bình thường. Bình thường là Thiền. Người không ngộ nói nhiều vô ích, người lãnh hội ngày ngày đều ở trong Đạo.

1244. Trăng khuyết, trăng tròn.

Thạch Thất và Ngưỡng Sơn cùng thưởng nguyệt. Ngưỡng Sơn hỏi:
- Khi trăng khuyết thì trăng tròn đi đâu? Khi trăng tròn thì trăng khuyết đi đâu?
- Khi trăng tròn thì trăng khuyết ẩn, khi trăng khuyết thì trăng tròn ẩn.
(Bồ đề linh quang)
Cảnh trăng là cảnh thiền. Trong tròn có khuyết, trong khuyết có tròn (Xem thêm công án 346).

1245. Trú xứ của chân Phật.

Có ông tăng hỏi Quang Dũng:
- Chân Phật trú ở đâu?
- Tức thời không hình trạng, cũng không ở chỗ nào khác.
(Bồ đề linh quang)
Chân Phật ở tự tánh cho nên nói không hình trạng, cũng không ở chỗ nào khác (vì ở khắp mọi chỗ).


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 05 Aug 2012, 1:40 AM | Message # 255
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1246. Không phải là Phật thì là ai?

Một lần, có vài pháp sư đến tham kiến Huệ Hải. Một ông hỏi:
- Muốn hỏi một vấn đề, thiền sư có chịu trả lời không?
- Bóng trăng dưới ao sâu, tùy ý nắm bắt.
- Thế nào là Phật?
- Đối mặt ao trong chẳng phải Phật thì là ai?
(Bồ đề linh quang)
Ý thiền sư là trước mặt ta người người đều có tự tâm là Phật.

1247. Phật cũng là bụi.

Có ông tăng hỏi Vân Môn:
- Khi con quét sạch bụi trần, phiền não, thấy Phật rồi thì sao?
- Lúc đó ngươi thấy Phật cũng là bụi, là phiền não, cũng phải quét đi.
(Bồ đề linh quang)
Có thấy là không phải chân không, cho nên chưa thấy chân Phật.

1248. Bảo Phúc.

Có ông tăng hỏi Bảo Phúc:
- Thế nào là gia phong của hòa thượng?
- Mây trên trời xanh, nước trong bình.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Bảo Phúc dùng lại câu nói của Dược Sơn (Xin xem công án 1021).

1249. Hưng Giáo.

Có ông tăng hỏi Hưng Giáo:
- Thế nào là Đạo?
- Cạo đầu vào chỗ hoang vu.
- Thế nào là người trong Đạo?
- Que cứt khô.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Hưng Giáo dùng lại câu nói của Vân Môn (Xem công án 199).

1250. Phàm và thánh.

Có ông tăng hỏi Đức Sơn Tuyên Giám:
- Phàm và thánh khác nhau nhiều ít?
Đức Sơn bèn hét lớn.
(Thiền sư khải ngộ pháp)
Phàm là chỉ cảnh giới của người đời, cũng là hiện tượng giới. Thánh là cảnh giới sau khi ngộ, cũng là bản thể giới. Đối với người kiến tánh thì phàm và thánh chỉ là một vì lìa hiện tượng thì không có bản thể. Câu ông tăng hỏi xuất phát từ tâm phân biệt. Đức Sơn hét lớn để cắt đứt vọng niệm của ông tăng.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 05 Aug 2012, 1:42 AM | Message # 256
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1251. Đại ý Phật pháp.

Một ông tăng hỏi Cảnh Như:
- Đại ý Phật pháp là thế nào?
Thiền sư hét lớn.
(Thiền sư khải ngộ pháp)
Lời giảng cũng tượng tự công án trên.

1252. Hừ!

Mỗi khi có thiền sinh nào hỏi về pháp, về thiền, về Đạo, Toàn Hoát đều hét lên:
- Hừ!
(Thiền sư khải ngộ pháp)
Tiếng hừ trong đời thường có hàm ý cấm đoán, thiền sư ám chỉ câu của ngươi hỏi phát xuất từ vọng tâm chỉ làm trở ngại sự kiến tánh.

1253. Vô niệm.

Đại Châu nói:
- Vô niệm là ở tất cả mọi nơi đều vô tâm, không mong cầu đối với mọi cảnh giới không động niệm.
(Thiền sư khải ngộ pháp)
Đối với Đại Châu vô niệm là không bị ngoại cảnh hạn chế, không có tình thức quyến luyến, đối với ngoại cảnh hoàn toàn khách quan, không bị khích động. Cảnh giới này không thể dùng phương thức lý giải của thế giới nhị nguyên mà giải thích được.

1254. Nghiệp thức mang mang.

Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Chúng sinh nhân vì tâm bị ô nhiễm quá nghiêm trọng không biết tự kỷ Phật tánh, ngươi có biện pháp nào để biết nghiệp thức của họ ở đâu không?
- Con đương nhiên có biện pháp.
Chính lúc đó có một ông tăng đi qua. Ngưỡng Sơn kêu ông ta một tiếng, ông tăng ngoảnh đầu lại. Ngưỡng Sơn thưa:
- Thầy coi! Đấy là nghiệp thức mang mang không chỗ nắm bắt.
(Bồ đề linh quang)
Trong cõi hồng trần, người người đều là cố nhân. Chỉ cần thức ngã, biết ngã, quên ngã, không bị ngã trói buộc thì mới chính thức vượt ra ngoài tam giới.

1255. Rõ mình, ngộ ngay trước mắt.

Tổ Tâm thượng đường bảo đại chúng:
- Chỉ rõ mình mà không lãnh ngộ sự trước mắt là người có mắt không chân. Lãnh ngộ sự trước mắt mà không rõ mình là người có chân không mắt. Hai loại người này thường có một vật để trong lòng. Có vật trong lòng thì trước mắt thường hiện ra tướng bất an, mọi chỗ đều trở ngại, không thông làm sao an ổn? Chư tổ đã chẳng nói qua sao “Chấp vào được mất là đi vào tà đạo. Cứ bỏ xuống hết, thuận theo tự nhiên thì chẳng có hơi thở đến, đi sai biệt”.
(Bồ đề linh quang)
Mắt thấy hãy còn là hư, chân đạp là thật. Đối với thiền giả mắt và chân đều trọng, bước đi trong đạo.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 05 Aug 2012, 1:45 AM | Message # 257
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1256. Ca Diếp múa.

Càn Đạt Bà Vương tấu nhạc, sơn hà đại địa đều vang tiếng đàn, Ca Diếp liền múa. Vương hỏi Thế Tôn:
- Ca Diếp là A La hán các lậu đều hết, sao hãy còn dư tập?
Thế Tôn đáp:
- Thật không còn dư tập, ngươi đừng báng pháp.
Vương lại đánh đàn ba lượt, Ca Diếp lại múa ba lần. Vương lại hỏi:
- Chẳng phải Ca Diếp múa sao?
- Thật không múa.
- Sao Thế Tôn lại vọng ngữ?
- Không vọng ngữ. Khi ngươi đánh đàn, sơn hà đại địa cỏ cây đều vang tiếng nhạc, chẳng phải sao?
- Dạ phải.
- Ca Diếp cũng vậy! Thật không có múa.
(Thiền thất dữ công án đích áo bí)
Diệu nhạc của Càn Đạt Bà Vương là đại lực của cảnh giới Bồ tát. Do đó sơn hà đại địa, cỏ cây đều vang tiếng nhạc và Ca Diếp thì múa. Vương tuy phát tâm thâm viễn nhưng trí tuệ chưa hoàn toàn thông suốt ngay trí tuệ của mình, cũng chưa rõ nên không hiểu Ca Diếp vô tâm mà múa. Lúc đó đáng nhẽ Thế Tôn phải đánh cho ông 30 gậy. Đây là cảnh giới động tĩnh là một, múa mà không múa.

1257. Dùng tay.

1- Một ông tăng hỏi Hương Nghiêm:
- Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
Hương Nghiêm thu tay vào lòng rồi dang hai tay ra.

2- Một ông tăng hỏi Lạc Kinh Hắc Giản:
- Thế nào là người trong mật thất?
Lạc Kinh lấy tay đấm ngực.
(Thiền sư khải ngộ pháp)
Câu hỏi của hai ông tăng trên đều là hỏi về tự tánh. Hương Nghiêm và Lạc Kinh đều dùng động tác để trả lời. Động tác là chỉ bản thân biểu hiện, nhưng đây không phải là toàn bộ sinh mạng. Nếu chấp vào động tác là lạc vào hiện tượng giới, không hiểu được tự tánh là gì .

1258. Cơ kêu mổ.

Một ông tăng hỏi Giang Tây Lư Sơn Song Khê Điền Đạo Giả:
- Thế nào là cơ kêu mổ?
Sư lấy tay ra dấu mổ.
(Thiền sư khải ngộ pháp)
Gà mẹ ấp trứng 21 ngày. Gà con từ trong kêu, gà mẹ mổ, gà con từ trong vỏ chui ra. Kêu mổ phải đồng thời. ông tăng hỏi dụng của cơ kêu mổ. Thiền sư dùng tay ra dấu mổ là chỉ thị, nếu ông tăng chưa siêu việt hiện tượng giới thì đây là sự trợ giúp rất tốt khiến ông thoát khỏi mê đắm mà thấy tự tánh (Xem công án 125).

1259. Mèo bắt chuột.

Hối Đường hỏi Thảo Đường:
- Trong Đàn kinh có công án gió động, cờ động ngươi giải thích thế nào?
- Con một điểm nhập thủ cũng chẳng có, xin thiền sư chỉ điểm.
- Ngươi có xem mèo bắt chuột không? Khi rình chuột mắt nó không chớp, bốn chân quỳ trên đất đợi cơ hội hành động. Mắt, tai, mũi đều để ý đến chuột, đầu đuôi đều cùng một hướng. Từ đầu đến cuối chỉ một mục đích. Do đó, trăm lần vồ trăm lần trúng. Nếu ngươi làm được như vậy tâm không tưởng gì khác: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tự nhiên thanh tịnh, tự mình thể hội. Bảo đảm trăm lần không sai.
Thảo Đường cứ y thế mà làm, qua một năm cuối cùng đại ngộ.
(Bồ đề linh quang)
Thành hay bại là do “toàn thần quán chú” và “tâm viên ý mã”. Nhập thiền cũng không ngoại lệ.

1260. Phật tánh của hòa thượng.

Có ông tăng hỏi Ứng Thiên:
- Mọi người đều có Phật tánh, Phật tánh của hòa thượng ở đâu?
- Ngươi bảo cái gì là Phật tánh?
- Vậy hòa thượng là người không có Phật tánh.
- Chính là thế đó! Ta khoái quá.
(Bồ đề linh quang)
Tất cả đều không; Phật tánh thường tương tùy.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 05 Aug 2012, 1:47 AM | Message # 258
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1261. Ô, guốc ở đâu?

Một hôm Thiên Vương đến thăm Nam Ẩn, gập lúc trời mưa không ngớt. Khi chào hỏi xong, Nam Ẩn hỏi:
- Ta biết ông để guốc ở ngoài hành lang nhưng ta không biết ông để cái ô ở bên phải hay bên phải hay bên trái đôi guốc?
Thiên Vương không trả lời được, rất mắc cỡ bèn bái Nam Ẩn làm thầy.
(Nhất vị thiền: quyển Phong)
Sau sáu năm theo thấy cuối cùng Thiên Vương đã đạt được yêu cầu của Nam Ẩn niệm niệm đều thiền.

1262. Một cọng cỏ.

Đức Phật và chúng đệ tử tản bộ ở nơi điền dã, thấy phong cảnh đẹp đẽ, chỉ một khoảng đất bảo:
- Chỗ này nên xây chùa.
Thiên đế thuận tay ngắt một cọng cỏ cắm xuống đất:
- Bạch Thế Tôn, chùa đã xây xong.
Đức Phật gật đầu mỉm cười.
(Hảo tuyết phiến phiến)
Một cọng cỏ là một tòa Phật điện trang nghiêm chẳng trách Triệu Châu nói lão tăng lấy một cọng cỏ làm gậy kim cương; lấy gậy kim cương làm một cọng cỏ. Các bậc tu hành nói 3 ngàn uy nghi, 8 vạn tế hạnh đều từ cái ‘một’ này mà bắt đầu. Phải nên quý một cọng cỏ, một hạt gạo, một bát cháo. Nên biết nước trong thiên hạ đều từ một giọt nước Tào Khê mà ra.

1263. Cư sĩ có nhà không?

Thiên Nhiên đến thăm Bàng Uẩn, thấy một thiếu nữ đang ngồi nhặt rau ngoài cổng (Đó là Linh Chiếu, con gái Bàng Uẩn). Thiên Nhiên hỏi:
- Cư sĩ có nhà không?
Linh Chiếu bỏ rổ rau xuống, đứng dậy . Thiên Nhiên lại hỏi:
- Cư sĩ có nhà không?
Linh Chiếu nhấc rổ rau lên, bỏ đi.
(Thiền cơ)
Câu hỏi ‘Cư sĩ có nhà không?’ lần thứ nhất hàm ý: ‘cư sĩ có thể ở nhà, có thể không ở nhà’. Lần thứ hai có nghĩa là cư sĩ (chỉ tự tánh) không chỗ nào là không ở.

1264. Từ phương Nam tới.

Viên Quang hỏi một ông tăng mới tới:
- Ngươi từ phương Bắc hay phương Nam tới?
- Từ phương Nam.
- Không rơi vào ngôn ngữ, nói đi!
- Con người Phước Kiến.
- Tham thiền đi!
(Thiền cơ)
Không rơi vào ngôn ngữ ám chỉ vào thẳng tự tánh.

1265. Đệ tử có bệnh.

Một ông tăng thưa với Hoàng Thông:
- Đệ tử có bệnh, thỉnh thầy chữa!
- Mang bệnh ra đây ta chữa cho.
- Mời thầy chữa.
- Trả tiền thuốc đi!
(Thiền cơ)
“Trả tiền thuốc đi” là ám chỉ ông tăng có phàm bệnh thiền sư sẽ cho thánh dược, ông tăng có thánh bệnh thiền sư sẽ cho phàm dược.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 05 Aug 2012, 1:49 AM | Message # 259
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1266. Thầy của Chư Phật.

Thúy Vi ở Chung Nam Sơn hỏi Đơn Hà:
- Thế nào là thầy của Chư Phật?
- Thật đáng thương, cầm chổi để làm gì?
(Thiền sư khải ngộ pháp)
Đơn Hà mắng Thúy Vi còn muốn người phục dịch cái gì, khiến Thúy Vi thể ngộ được pháp giới nhất như của tự tánh.

1267. Gánh Vác.

Huyền Sa và Đại Phổ chuyện trò với nhau. Huyền Sa nói:
- Chỉ dẫn cho một người hiểu rõ Đạo sinh hoạt thật khó.
- Đúng vậy, thật là khó!
- Khó ở chỗ nào?
- Ở chỗ hắn không chịu gánh vác.
(Thiền sinh mạng đích vi tiếu)
Vì không chịu gánh vác nên không có khả năng tham dự vào sinh hoạt. Do đó làm sao mà khoái lạc được? Khoái lạc là một loại sinh hoạt thực tiễn không phải tìm cầu mà được.

1268. Trí Tạng và Lý Cao.

Thượng thư Lý Cao hỏi một ông tăng:
- Mã đại sư có lời dạy gì?
- Đại sư hoặc nói “Tức tâm tức Phật” hoặc nói “Phi tâm phi Phật”.
- Chưa quá bên này.
Lý Cao lại hỏi Trí Tạng . Trí Tạng gọi lớn:
- Lý Cao !
- Dạ!
- Cổ giác động.
(Thiền sư khải ngộ pháp)
Bên này là chỉ cảnh phàm. Công án có thể có 2 giải thích:
Lý Cao nhận rằng ông tăng đối với lời dạy của Mã Tổ chỉ lý giải chứ chưa thể ngộ, cho nên nói ông hãy còn ở trong cảnh phàm.
Lý Cao nhận mình chưa liễu giải.
Cổ giác:cổ là cái trống, giác là tù và, là những dụng cụ trong quân đội để báo giờ. Trí Tạng dùng cổ giác để chỉ tác dụng của tự tánh. Vì tự tánh vô hình vô tướng nên lời nói không thể dùng để tả nhưng có thể dùng để chỉ đạo cho thiền sinh ngộ nhập tự tánh.

1269. Không rời pháp đường.

Dược Sơn hỏi Đạo Ngô:
- Ngươi từ đâu tới?
- Đi chơi núi tới.
- Không rời pháp đường, nói mau!
- Trên núi chim trắng như tuyết, dưới khe cá lội tung tăng.
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Câu hỏi của Dược Sơn là song quan ngữ (một mặt chỉ tự tánh, một mặt chỉ pháp đường), nếu ngươi không rời pháp đường làm sao du sơn ngoạn thủy? Đạo Ngô không bị mắc bẫy rơi vào văn tự và trí giải, dùng cảnh sắc mà trả lời.

1270. Làm sao để thành Phật.

Một ông tăng hỏi Huệ Trung:
- Làm sao mới thành Phật?
- Tâm là Phật.
- Tâm này có phiền não không?
- Phiền não tự nhiên không khởi.
- Vậy là phải cắt đứt phiền não?
- Nếu cắt đứt phiền não thì là nhị thừa, phải không sinh phiền não thì mới là đại Niết Bàn.
(Thiền Ngộ Dữ Thực Hiện)
Niết Bàn là chỉ tâm đạt tới cảnh giới thanh tịnh, tròn đầy không còn phiền não.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 05 Aug 2012, 1:51 AM | Message # 260
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1271. Chánh pháp nhãn tạng.

Lâm Tế sắp di hóa bảo chúng đệ tử:
- Ta mất rồi, không được làm mất chánh pháp nhãn tạng của ta.
Đệ tử Tam Thánh bước ra thưa:
- Không dám làm mất đâu.
- Về sau có người hỏi ngươi, ngươi sẽ trả lời làm sao?
Tam Thánh lập tức hét to.
- Không ngờ chánh pháp nhãn tạng của ta bị mất bởi con lừa mù này!
Lâm Tế nói rồi nhắm mắt an tọa, ly khai nhân thế.
(Nhất vi thiền: quyển Nguyệt)
Chánh pháp nhãn tạng còn được gọi là thanh tịnh pháp nhãn. Chánh là trung chánh, không nghiêng về một bên; pháp là cái tâm thể trung chánh hiển hiện; nhãn là có thể chiếu soi mọi vật; tạng là tâm chứa mọi thiện pháp. Chúng ta tập quán dùng mắt thịt mà coi vạn tượng thế gian, rồi dùng thường thức mà phán đoán. Do nhiều nguyên nhân cá biệt, mỗi người đều có cái nhìn khác nhau. Nếu dùng chánh pháp nhãn tạng thì phải có tâm nhãn thanh tịnh, vô nhiễm, lấy tâm vô phân biệt mà quán sát sự vật. Chúng ta phải đóng con mắt thường, mở con mắt huệ, đứng trên quan điểm duyên khởi, tánh không mà quan sát sự vật thì mới xem thấy đước thực tướng của vạn vật.

1272. Một khúc tiêu thiền.

Giác A là người Nhật bản đầu tiên đến Trung Quốc học thiền đã được truyền chánh pháp. Sau đó ông cũng không đi khắp nơi du sơn ngoạn thủy, chỉ tìm chỗ thâm sơn cùng cốc mà ngồi tham thiền nhập định. Nếu có người tìm đến học hỏi ông chỉ lược thuyết vài câu. Sau đó ông lại dời đi chỗ khác, không để lại tung tích. Sau nhiều năm tham thiền ở Trung quốc, ông trở về nước. Thiên Hoàng nghe tiếng ông, mời ông vào Hoàng cung giảng pháp. Ông đứng yên lặng trước mặt Thiên Hoàng rồi rút ở trong tay áo ra một một ống tiêu. Ông thổi một điệu tiêu sau đó cung kính vái chào bỏ đi.
(Nhất vị Thiền: Quyển Phong)
Giác A chỉ thổi một điệu tiêu thôi, không biểu thị gì khác. Do đó, mọi người không nhận ông đã đem thiền vào Nhật Bản, nhưng mỗi khi nghe tiếng chim hót ríu rít, tiếng suối róc rách, tiếng gió thổi qua lá rì rào . . . thì tiếng tiêu đó như phảng phất bên tai chúng ta.

1273. Trong rừng vắng.

Một hôm, Đức Phật ngồi thiền trong rừng vắng. Trừ tiếng gió thổi qua lá ra không có tiếng động nào khác; có khi ngay cả tiếng gió cũng không có nữa. Tất cả đều im lặng. Đột nhiên Ngài nghe có tiếng tranh cãi của một đôi nam nữ từ xa vọng lại. Không lâu thấy một thiếu nữ hoảng hốt chạy qua, không biết có Đức Phật đang ngồi thiền dưới bóng cây. Lại một lát sau, một chàng thanh niên chạy tới, trông thấy Đức Phật bèn hỏi:
- Ông có thấy một thiếu nữ chạy qua đây không? Cô ta đã trộm tiền của tôi.
- Đi tìm người thiếu nữ và đi tìm chính mình, điều nào quan trọng hơn?
Chàng thanh niên kinh ngạc, trong sát na đó như người tỉnh mộng.
(Nhất vị Thiền: Quyển Phong)
Đánh mất chính mình để đi tìm vật dục thật là ngu xuẩn.

1274. Xuống giường đứng.

Một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
Triệu Châu xuống giường đứng yên.
- Có phải lão sư chỉ như vậy không?
- Ta còn chưa nói mà.
(Thiền sư khải ngộ pháp)
Triệu Châu xuống giường đứng là dùng động tác để chỉ thị. Ông tăng không hiểu nên hỏi lại tự tánh có phải là như thầy chỉ không? Tự tánh không có phạm vi, giới hạn, chỉ có mình tự thể nghiệm mà biết thôi, không thể phân biệt. Câu đáp của Triệu Châu có nghĩa là ta không có gì để chỉ điểm cả, bác bỏ kiến giải của ông tăng.

1275. Đào đất tìm trời.

Có ông tăng hỏi Thiện Chiêu:
- Đại đạo lúc bắt đầu thế nào?
- Đào đất bùn tìm trời xanh.
- Như vậy sao được?
- Hãy nhận thức lý u huyền!
(Bồ đề linh quang)
Tìm ngược về khởi nguyên của Đạo là chấp mê, giống như đào đất mà tìm trời xanh.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 05 Aug 2012, 1:54 AM | Message # 261
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1276. Xúc mục Bồ đề.

Một ông tăng hỏi Tuyền Châu:
- Thế nào là xúc mục Bồ đề?
Sư lấy gậy đánh đưổi đi.
(Thiền sư khải ngộ pháp)
“Xúc mục Bồ đề” là chỉ những gì mắt nhìn, không gì không là Bồ đề. Trong sinh hoạt hàng ngày không có gì không phải là do tự tánh biểu lộ; nhưng điều này phải do chính mình thể ngộ, không thể do người khác bảo cho biết vì những gì người khác nói hay chỉ đều là lý niệm không phải là thể nghiệm. Trong công án này Tuyền Châu lấy gậy đuổi ông tăng đi, nếu ông ngộ thì đó là đáp án của thiền sư, nếu ông không ngộ thì động tác của thiền sư có ý nghĩa là hãy bỏ vọng niệm đi.

1277. Huệ Minh nhấc bát.

Viễn Châu Mông Sơn Huệ Minh, đuổi theo Lư hành giả tới Đại Dữu Lãnh. Huệ Năng để y bát trên tảng đá, sư nhấc lên không được bèn thưa:
- Tôi đến vì pháp, không vì y bát, xin hành giả khai thị.
- Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay lúc đó cái gì là khuôn mặt xưa nay của Minh thượng tọa?
Sư nghe rồi ngộ.
(Thiền Thất dữ công án đích áo bí)
Huệ Minh và Huệ Năng cùng là đệ tử của Hoằng Nhẫn. Một người thô tục chỉ muốn đạt danh vị, còn một người là bậc chân tu. Khi Huệ Minh truy sát Huệ Năng, Huệ Năng để y bát lên trên tảng đá, Huệ Minh đến nhấc lên không được mới nói “Tôi đến vì pháp không vì y bát. Xin hành giả khai thị.” Đó là hồi đầu chuyển xứ. Chính sự hồi đầu này là cơ duyên khai ngộ. Có người ở tình cảnh này không chịu ngừng bước nên không có cơ hội mà tham ngộ. cũng giống như tên cướp Ưng Quật Ma La cầm dao bức Phật. Phật bảo “Ta đã ngừng rồi, sao ngươi còn chưa ngưng?”. Tên cướp đột nhiên ngộ đến sự khốn quẫn của thân mình, không hướng ngoại bôn ba mà hướng nội phản chiếu do đó giác ngộ.

1278. Mã Tổ gửi thư.

Mã Tổ sai người đem thư cho Quốc Nhất Đạo Khâm. Đạo Khâm mở thư ra chỉ thấy trong thư vẽ một vòng tròn. Đạo Khâm chấm vào vòng tròn một điểm, rối gửi trả lại. Trung quốc sư nghe được chuyện này phê bình:
- Khâm sư hãy còn bị Mã sư mê hoặc.
(Thiền Thất dữ công án đích áo bí)
Mã Tổ thích đùa cợt người. Ông vẽ một vòng tròn gửi cho Đạo Khâm là đạo lý gì? Kỳ thực chẳng có đạo lý gì; chỉ là bình thường vẽ một cảnh giới tròn đầy cho Quốc Nhất. Quốc Nhất không ngờ đó là cái bẫy nên bị rơi vào. Ông Chấm 1 điểm vào vòng tròn là công phu của ông là chiếu cả bản lai diện mục. Nhưng điểm của ông còn bị vòng tròn bao vây. Ông chỉ chiếu chứ không thể hoạt. Trung quốc sư là người sáng mắt lợi khẩu nên bảo Khâm sư bị Mã sư mê hoặc. Thực ra cái bẫy của Mã sư đã bị Khâm sư khám phá, nhưng vẫn bị rơi vào. Trung quốc sư cũng vậy cũng ở trong bẫy nốt. Vòng tròn của Mã sư vẽ thiên vẽ địa, bất cứ ai cũng ở trong đó cả. nhưng ở trong đó đâu có sao? Chỉ cần thanh tịnh là được.

1279. Phùng trường tác hý.

Khắc Cần lên giảng đường nói:
- Lửa, chẳng chờ mặt trời mọc mới nóng; gió chẳng đợi trăng lên mới mát, chân hạc dài, chân vịt ngắn, thiên nga trắng, quạ thì đen, mọi sự đều hiển lộ. Nếu lãnh hội ở mọi nơi đều làm chủ, gập cơ duyên đều là thiền chỉ, giống như nghệ sĩ giang hồ có mang theo gậy trúc phùng trường tác hý. Có hạng người ấy chăng?
(Bồ đề linh quang)
Vạn vật đều hàm thiền chỉ; mọi sự mọi nơi, mọi thời đều có thể tham ngộ; chỉ là nghệ sĩ giang hồ phùng trường tác hý ít thấy thôi.

1280. Gương cổ và thế giới.

Tuyết Phong bảo đại chúng:
- Các ngươi biết không, nhận thức và đối tượng khế hợp nhau; nếu thế giới vuông tròn một thước thì gương cổ cũng vuông tròn một thước. Nếu thế giới vuông tròn một trượng thì gương cổ cũng vuông tròn một trượng.
Huyền Sa Sư Bị chỉ lò lửa hỏi:
- Cái này lớn chừng nào?
- Gương cổ cũng lớn cùng cỡ.
(Bồ đề linh quang)
Gương cổ (chỉ sự nhận thức) phản chiếu thế giới. Vạn sự vạn vật đều ở trong gương cổ.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 05 Aug 2012, 8:11 PM | Message # 262
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1281. Phá chấp.

Bắc Dã là vị trụ trì ở Vĩnh Bình Tự, lúc trẻ thích vân du bốn phương. Năm 20 tuổi trên đường hành cước ông gặp một người hút thuốc, 2 người kết bạn vượt qua đường núi. Đến một gốc cây 2 người ngồi nghỉ mệt. Người bạn đồng hành đưa điếu thuốc thuốc cho ông. Vừa mệt, vừa đói, Bắc Dã nhận lấy và hút vài hơi. Sau đó ông khen vị thuốc rất ngon. Người kia bèn tặng luôn ống điếu và một ít thuốc cho ông. Sau khi người bạn đồng hành đi khỏi, Bắc Dã nghĩ bụng “Hút thuốc thích thật nhưng sẽ làm trở ngại thiền định, ta phải ngưng ngay để khỏi tích ác thành tập”. Do đó ông ném bỏ ống điếu và thuốc hút. Ba năm sau, ông bắt đầu nghiên cứu kinh Dịch. Lúc đó vào mùa đông, ông rất cần áo ấm, bèn viết thư nhờ người mang đến lão sư ở cách xa cả trăm dậm. Mùa đông đã qua gần hết mà áo ấm vẫn chưa nhận được, cũng chẳng có thư tín gì cả. Bắc Dã bèn bói một quẻ thì biết thư mình chưa đến. Quả nhiên không lâu nhận được thư của sư phụ, trong thư không hề đề cập đến chuyện áo ấm. Bắc Dã kinh dị nghĩ bụng “Nếu Dịch học có tác dụng như thế sẽ hủy hoại khóa trình thiền học của ta.” Do đó ông lại bỏ sự nghiên cứu kinh Dịch. Năm 28 tuổi ông lại thích thư pháp và làm thơ, ngày càng tiến bộ và được lão sư khen ngợi. Ông lại nghĩ: “Nếu ta không đình chỉ ngay ta sẽ thành một nhà thi họa, hay một thi sĩ chứ không phải là một thiền sư nữa.”
(Nhất vị Thiền: Quyển Phong)
Bắc Dã viên tịch năm 1433 thọ 92 tuổi, suốt đời nỗ lực phá chấp tất cả mọi sự việc.

1282. Thiền gần.

Huyện lệnh Thành Đô là Phạm Mỗ nghe nói Viên Ngộ Khắc Cần đến Thành Đô trú ở Chiêu Giác Tự, bèn đến xin thiền sư chỉ con đường Đạo. Viên Ngộ bảo ông tham câu của Mã Tổ “Không phải là tâm, không phải là Phật, không phải là vật” là ý nghĩa gì?
Phạm Mỗ tham cứu rất lâu nhưng chẳng được gì, khóc thưa với Viên Ngộ:
- Xin thầy phương tiện chỉ cho con đường nào khiến con hiểu được Thiền.
- Ở đây ta có một cách rất giản tiện ngươi chỉ cần nghĩ nó là cái gì, không là cái gì?
Phạm Mỗ cuối cùng khai ngộ thưa:
- Nguyên lai Thiền không ngăn cách chút nào, ở ngay bên cạnh.
(Bồ đề linh quang)
Thiền nói xa thì xa, nói gần thì gần. người cho là huyễn thì xa vạn lý, người biết bình thường thì ở ngay tâm.

1283. Chèo quậy sóng xanh, khó gập cá vàng.

Một hôm Thuyền Tử dừng thuyền ở bờ, ngồi chơi. Có một vị quan nhân hỏi:
- Việc hàng ngày của hòa thượng là gì?
Thuyền Tử giơ mái chèo lên hỏi:
- Hiểu không?
- Không hiểu.
- Dùng mái chèo quậy sóng xanh, khó gập cá vàng.
(Bồ đề linh quang)
Chấp mê khó thấy chân Đạo, ngồi chơi (vô tâm) lại gần thiền cảnh.

1284. Báo danh khế ngộ.

Lương Toại đến thăm Ma Cốc. Ma Cốc thấy ông tới giơ cuốc lên cuốc cỏ. Lương Toại đến chỗ cuốc cỏ. Ma Cốc không thèm nhìn ông trở về phòng phương trượng, đóng cửa lại. Ngày hôm sau Lương Toại lại đến. Ma Cốc vẫn đóng cửa. Lương Toại gõ cửa. Ma Cốc hỏi:
- Ai?
- Lương Toại.
Vừa báo danh xong, Lương Toại hốt nhiên lãnh ngộ, thưa:
- Hòa thượng đừng lừa con, nếu con không đến bái phỏng hòa thượng thì đã bị Phật điển, kinh luận lừa dối một đời rồi.
Ma Cốc mở cửa tiếp kiến.
Lương Toại về giảng xá nói với đại chúng:
- Những gì các ngươi biết ta đều biết, cái ta biết các ngươi không biết.
(Bồ đề linh quang)
Tự báo danh, đột nhiên phát hiện tự ngã, nhận thức tự ngã dẫn đến đốn ngộ.

1285. Con chó có Phật tánh không?

Trong công án “Con chó có Phật tánh không?” (Xem công án 1020), Vô Môn có bài kệ:

狗子 佛 性
Cẩu tử Phật tánh
全提 正 命
Toàn đề chánh mạng
才涉 有 無
Tài thiệp hữu vô
喪身 失 命
Táng thân thất mạng

Con chó Phật tánh
Nêu trọn chánh lệnh
Vừa nói có không
Vùi thây mất mạng.
(Hân Mẫn dịch)
- Chữ vô giống như kiếm sắc chặt đứt hai bên (hữu, vô) siêu việt chân không diệu hữu xuyên suốt 48 tắc công án (trong Vô Môn Quan), như là lệnh bài vô tự, như quan tướng quân (Quan Vân trường) qua 5 ải chém 6 tướng, không qua thì không ngừng.
(Dương Tân Anh)
- Con chó, Phật tánh, vô là một. Khi trả lời vô, Triệu Châu đã vượt lên khỏi thế giới nhị nguyên của khái niệm.
(Yamada)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 05 Aug 2012, 8:14 PM | Message # 263
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1286. Đầu sào trăm trượng.

1- Một ông tăng hỏi thiền sư về công án “Đầu sào trăm trượng’ làm sao bước được bước nữa? (Xem công án 275), thiền sư kêu:
- A!
Ông tăng tức thời khai ngộ.
2- Một ông tăng được thiền sư cho công án ‘Đầu sào trăm trượng, làm sao bước bước nữa? Ông tham cứu 3 năm vẫn chưa ngộ. một hôm cưỡi lừa đi ngang 1 cây cầu độc mộc, không để ý, người và lừa đều rơi xuống sông. Do đó mà ông ngộ:
- A! Nguyên lai đầu sào trăm trượng làm sao bước bước nữa là vậy!
(Sinh hoạt thiền)
Trèo được 99 trượng rồi lên đến 100 trượng không phải là dễ. Lên đến nơi rồi không chịu buông tay mà nắm chắc lấy đầu sào làm sao bước bước nữa? Phải buông bỏ tất cả, ngay cả sinh mạng thì mới bước được bước nữa. Có ông tăng hỏi sư phụ:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
- Là chỗ ngươi bỏ thân mạng.
Là cũng ý này: tất cả đều là không, không được chấp bất cứ một cái gì dù cái chấp đó là mạng sống, là Phật, là pháp thì mới được hoàn toàn giải thoát.

1287. Lưỡi người sống trong miệng người chết.

Có ông tăng hỏi Quy Nhân:
- Không nêu lên câu hỏi mà tự nói, làm sao lý giải?
- Lưỡi người sống trong miệng người chết.
- Không biết người nào có thể lãnh hội.
- Con trâu không sừng.
(Bồ đề linh quang)
Người nói có miệng nhưng vô tâm, người ngộ hỗn nhiên viên dung.

1288. Nhà ngươi tự có con cháu.

Lúc Pháp Đăng là trụ trì Lam Viện, Đạo Tề là chủ quản kinh tạng. Một hôm Đạo tề đứng hầu một bên, Pháp Đăng bảo ông:
- Tạng chủ, công án ‘Ý tổ sư từ Tây sang’ ngươi hiểu sao?
- Chẳng Đông, chẳng Tây.
- Còn chưa thấm tới bờ.
- Con chỉ hiểu vậy, còn hòa thượng thì sao?
- Nhà ngươi tự có con cháu.
Đạo Tề ngộ ngay ý chỉ.
(Bồ đề linh quang)
Nhà ngươi tự có con cháu, nhà mình (tâm) phải nên coi sóc.

1289. Con lừa.

Ích Châu Tông Mục thượng đường, có một ông tăng giơ tay nói:
- Hòa thượng là một con lừa.
- Ta bị ngươi cưỡi.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Tâm cảnh đã triệt để an nhiên kiên cố như thành lũy thì không có ngoại lực nào có thể công phá được.

1290. Bốn lời nguyện lớn.

Bạch Vân Thủ Đoan thượng đường nói:
- Ông già Thích ca có 4 lời nguyện lớn: “Chúng sinh vô biên thề nguyện độ, phiền não vô biên thề nguyện đoạn, pháp môn vô biên thề nguyện học, Phật Đạo vô biên thề nguyện thành.” Pháp Hoa cũng có 4 lời nguyện lớn: “Đói thì ăn, mệt thì ngủ, lạnh mặc thêm áo, nóng thích gió mát thổi”.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Người xuất gia phải giữ giới luật. Sinh hoạt hàng ngày bị câu thúc như cử chỉ phải nghiêm trang v . v . Đó là giai đoạn còn đang tu Thấy núi chỉ là núi. Khi đã ngộ rồi thấy núi lại là núi, sinh hoạt cứ tùy duyên không bị vật ngoại nhiễu loạn, tự do vô ngại.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 05 Aug 2012, 8:17 PM | Message # 264
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1291. Thiền của Lão bà.

Ma Cốc, Bảo triệt, Nam Tuyền cùng hai ba người nữa đến yết kiến Kinh Sơn Đạo Khâm. Trên đường gập một bà lão. Ma Cốc hỏi:
- Đến Kinh Sơn đi lối nào?
- Cứ đi thẳng.
- Phía trước nước sâu có qua được không?
- Chân chẳng ướt nước.
- Sao bờ trên lúa tốt, bờ dưới lúa xấu vậy?
- Đều bị cua ăn hết.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Học Thiền phải chuyên cần tinh tấn đừng sợ này sợ nọ thì mới có hy vọng thành công. Ở đây bà lão là một tác gia, bà dùng lối chơi chữ để ngụ ý. Trong tiếng Tầu con cua là “bàng giãi”. Tiếng đồng âm của bàng là bàng vụ là bị cảnh nhiễu loạn, của giãi là giãi đãi là lười, sợ khó mà lui.

1292. Pháp thân thanh tịnh.

(Đàn Kinh)
Vạn sự, vạn vật đều do tự tánh mà sinh. Nếu nghĩ thiện thì làm điều thiện; nghĩ ác thì làm điều ác. Nhưng tự tánh vốn thanh tịnh như mặt trời bị mây đen che đi; bên trên là sáng, bên dưới là tối. Chỉ cần gió thổi mây tan: mặt trời lại hiện ra chói lọi. Mặt trời là tự tánh thanh tịnh, mây đen là vọng niệm, gió là trí huệ.

1293. Hư không không so sánh được.

Có ông tăng hỏi Cảnh Huyền:
- Người thông ngộ triệt để thì thế nào?
- Hư không không so sánh được.
- Thế nào là pháp thân thanh tịnh?
- Trâu trắng phà ra tuyết, gà ác cưỡi ngựa ô.
(Bồ đề linh quang)
Đối với người triệt ngộ tất cả đều viên dung, trắng, đen đều thông suốt.

1294. Xem múa rối.

Một hôm ngũ tổ Pháp Diễn bảo đại chúng:
- Hôm qua lão tăng vào thành thấy đám múa rối bèn lại xem, thấy các con múa rối diễn rất sinh động. Quan sát kỹ mới biết có người ở sau màn giật giây. Lão tăng không nhịn được cười hỏi:
- Trưởng sử tánh gì?
Không ngờ ông ta nói:
- Lão hòa thượng xem kịch thì cứ việc xem, còn hỏi tánh làm gì?
Lão tăng bị câu nói này không lời đáp lại được. Các ngươi có thể đáp thay cho ta không? Hôm qua ta ở đó bị thua thiệt hôm nay ở đây bù lại được rồi.
(Bồ đề linh quang)
Người sau màn chỉ tự tánh. Mọi hành động của con người đều như con rối, do tự tánh điều khiển. Tự tánh phải thể nhận, không thể dùng lời mà tả được.

1295. Cuốn chiếu.

Một hôm Mã Tổ Đạo Nhất thăng đường. Đại chúng tụ lại để nghe pháp. Bách Trượng cuốn chiếu. Mã Tổ bèn xuống tòa giảng.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Đại Đạo lìa ngôn ngữ, văn tự cho nên không cần phải nói.


Đại Bi Chú
 
ThiệnTâm Date: Thứ Hai, 06 Aug 2012, 2:08 AM | Message # 265
Major general
Group: Moderators
Messages: 365
Status: Tạm vắng
1296. Ta không phải là ống loa.

Có một học tăng đến bái phỏng Thiết Chu, yêu cầu Thiết Chu giảng cho ông nghe Lâm Tế Lục .
- Ngươi tìm lầm người rồi, muốn nghe Lâm Tế Lục, tốt nhất là hãy đến Viên Giác Tự kiếm Hồng Xuyên.
- Không, con đã nghe Hồng Xuyên giảng rồi. Nghe nói thầy là truyền nhân của Trích Thủy hòa thượng, con muốn nghe thầy giảng. Thiết Chu chối từ hai ba lần không được đành dẫn học tăng ra luyện võ trường cùng luyện võ. Hai người luyện đến đổ mồ hôi hột mới ngưng. Thiết Chu dẫn ông tăng trở lại pháp đường.
- Thế nào ta giảng Lâm Tế Lục ra sao?
Ông tăng ngạc nhiên không thốt ra lời. Thiết Chu nhắc lại câu hỏi, ông tăng bất đắc dĩ đáp:
- Lâm Tế Lục của thầy chỉ là một bản kiếm phổ sao?
- Ta là kiếm khách, do đó ta chỉ đề xướng kiếm đạo. Ta tuy cùng Trích Thủy học Thiền nhưng ta không phải là ống loa.
- Nói vậy thì chư tổ xưa nay truyền pháp truyền tâm đều là ống loa cả sao?
- Truyền pháp, truyền tâm là truyền pháp truyền tâm, truyền loa là truyền loa.
(Tinh Vân thiền thoại)
Không phải là loa truyền, đó là phong cách đặc biệt của thiền sư. Nói đi nói lại chỉ là thiền vẹt không phải là truyền pháp truyền tâm. Phàm học thiền lý phải tự mình tiêu hóa trước, sau đó mới nói ra lời.

1297. Chân không diệu hữu.

Ngọc Tuyền theo học lâu ngày với Viên Ngộ Khắc Cần cùng Đại Huệ Tông cảo là đồng môn; tự nhận mình đã khai ngộ, không còn nghi hoặc nữa. Do đó bắt đầu giảng dạy Phật pháp. Các học tăng đổ xô tới tham học rất đông. Đại Huệ biết ông chưa triệt ngộ sợ ông chỉ lầm cho người sau, bèn viết thư bảo ông đến gập. ngọc Tuyền do dự được mất, không vội trả lời ngay. Đại Huệ bèn viết bảng ngoài cửa bảo cho tứ chúng hay. Ngọc Tuyền bất đắc dĩ phải đến gập Đại Huệ. Sau khi khảo nghiệm bèn trách:
- Kiến giải của ông như vậy mà dám xưng là pháp từ của lão sư Viên ngộ sao?
Ngọc Tuyền do đó trở về phòng tham cứu. Một hôm đến tham Đại Huệ, Đại Huệ hỏi:
- Ta muốn có một người không hiểu thiền làm quốc sư.
- Đệ có thể làm quốc sư.
Đại Huệ hét lớn đuổi ra. Sau đó, không lâu Đại Huệ bảo ông:
- Chỗ ngộ cũa Hương Nghiêm không phải ở nơi hòn đá văng vào gốc tre, chỗ ngộ của Câu Chi không phải ở đầu ngón tay .
Ngọc Tuyền nghe rồi, hốt nhiên thông đạt thiền pháp, lúc đó mới là triệt ngộ.
Một hôm, Đại Huệ lên toà giảng nêu lên công án Vân Môn giơ gậy lên thị chúng. Bỗng giơ gậy lên bảo:
- Gậy không thuộc hữu, không thuộc vô, không thuộc ảo, không thuộc không. Dộng gậy xuống một cái, nói tiếp:
- Phàm phu, nhị thừa, duyên giác, Bồ tát đều hướng về chỗ đó, tùy theo căn tánh mình mà có thọ dụng, còn đối với nạp tăng muốn làm, không thể làm. Muốn tọa không thể tọa tiến lên một bước bị gậy làm lạc đường; lùi lại một bước bị gậy xuyên qua lỗ mũi. Hãy cùng gậy tương kiến nếu không sang năm lại có gậy khác làm náo loạn gió xuân, chính lúc đó phải làm sao?
Nói rồi xuống tòa bảo Ngọc Tuyền lên tòa giảng khai thị cho đại chúng.
Ngọc Tuyền nói:
- Lời hoà thượng vừa nói giống như cá mắc trong đầm, chim bệnh trong khóm lau, còn ta không như vậy.
Nói rồi giơ gậy lên:
- Gậy có thể Hữu, có thể Vô, có thể Ảo, có thể Không, phàm phu, nhị thừa, duyên giác, Bồ tát (dộng gậy xuống) hướng về chỗ đó. Còn như nạp tăng như rồng gặp nước, như hổ tựa non, muốn đi là đi, muốn ngồi là ngồi, tiến một bước thì càn khôn chấn động, lùi một bước thì cỏ rạp gió đi, nên nói không tiến, không lui làm gì?
Rất lâu lại thêm:
- Lúc nhàn, cầm kinh đứng dưới gốc tùng, cười hỏi khách tử đâu tới?
(Nhất vị Thiền: Quyển Nguyệt)
Hai đoạn pháp trên, Đại Huệ giảng chân không, Ngọc Tuyền giảng diệu hữu. Đại Huệ không thể không lau mắt cho vị đầu sào trăm trượng Ngọc Tuyền. Chưa ngộ mà nói ngộ, nếu không phải là ngu si thì là tự cao tự đại. người sáng mắt chỉ cần hai ba lời là hồ ly đã lòi đuôi cáo. Ngọc Tuyền do Đại Huệ chỉ thị nhận thức lại chính mình nên đã giác ngộ.

1298. Gia Cảnh.

Một ông tăng hỏi Hoằng Thông:
- Gia cảnh thầy thế nào?
- Cả người không đáng 5 phân tiền.
- Thật nghèo quá.
- Đời xưa đều vậy.
- Làm sao tiếp dẫn người học?
- Thấy gia cảnh giầu có còn là nghèo.
(Bồ đề linh quang)
Nghèo chỉ tánh “Không”.

1299. Nhàn thần dã quỷ.

Phần Dương Thiện Chiêu một hôm bảo chư tăng:
- Hôm qua ta nằm mộng thấy cha mẹ đã qua đời muốn ta cúng vàng mã và rượu thịt. Ta thấy khó chịu đành phải theo phong tục mà mua đồ cúng tế.
Cúng tế xong Phần Dương một mình, một chiếu uống rượu ăn thịt không coi ai vào đâu. Chư tăng coi không được chỉ trích:
- Hôm nay chúng tôi mới biết nguyên lai ông chỉ là một hòa thượng rượu thịt, làm sao có tư cách làm đạo sư chúng tôi.
Nói rồi cả bọn thu dọn hành trang bỏ đi. Chỉ còn lại 6, 7 người như Thạch Sương Sở Viên, Đại Ngu Thủ Chi v . v . là không đi. Bọn họ sau này đều trở thành những đại thiền sư.
Phần Dương cảm khái than:
- Chỉ tốn chút rượu thịt, vàng mã đã đuổi đi bao nhiêu nhàn thần dã qủy.
(Bồ đề linh quang)
Thiền không giảng cứu hình thức. Nếu bị cành lá che khuất mà không thấy cây lớn thì làm sao vào thiền.

1300. Ý chỉ Hoàng Mai.

Có ông tăng hỏi Lục tổ:
- Người nào nhận được ý chỉ của Hoàng Mai?
- Người hiểu Phật pháp.
- Hòa thượng nhận được không?
- Ta không được.
- Vì sao hòa thượng không được?
- Ta không hiểu Phật pháp.
(Thiền thất dữ công án đích áo bí)
Ý chỉ Hoàng Mai là chỉ sự truyền pháp. Ai cũng biết y bát đã được Hoàng Nhẫn trao cho Huệ Năng. Ý chỉ Hoàng Mai đương nhiên là Lục tổ thể hội. Câu hỏi của ông tăng là một cái bẫy, Lục tổ thuận mồm chỉ thẳng, hiện tiền viên mãn, không chỗ quái ngại. Chỉ cần hiểu Phật pháp là được ý chỉ Hoàng Mai. Thiền là hiện thành, hiện tiền, không có gì là bí mật cả như mọi người đều được hưởng ánh mặt trời. Câu “Ta không hiểu Phật pháp” thật là cao minh. Có người hiểu Phật pháp liền bị rơi vào Phật pháp. Thích Ca Mâu Ni giảng pháp 49 năm nhưng không nói một lời. Lục tổ lấy Phật pháp đánh răng, xúc miệng, ngày ngày đều dùng há chẳng hiểu Phật pháp? Không có diệu pháp nào để được thì mới được A Nậu Đa la Tam Miệu Tam Bồ Đề. Muốn được cảnh giới đó thì phải có chỗ khẳng định. Do đó Lục tổ nói không có diệu pháp nào để được, ta không hiểu Phật pháp.

1301. Gió nhẹ thổi qua rặng tùng.
Lại gần nghe mới rõ.


(Hàn Sơn Thi)
Đối với người thường thì người nghe (chủ thể ) và gió nhẹ (đối tượng) là hai, nhưng đối với thiền giả thì chỉ là một. Vì vậy ‘lại gần’ là chủ thể sáp lại đối tượng cho đến khi hòa với nó làm một. Đó là quá trình vô tâm tự nhiên. Lấy vô tâm mà nghe, tiếng gió chính là tự kỷ. Đó là tự tha bất nhị vậy. Phương thức ‘lại gần’ này trong thiền học gọi là ‘sự tùng vấn tùng, sự cúc thính cúc’.

1302. Chân tâm bất muội.

Mộng Song quốc sư từng làm thầy của 7 triều Hoàng đế. Thọ nhiều ân điển của triều đình, cũng được tín đồ và dân chúng ngưỡng mộ. Trên đường vào kinh đi ngang Diệu Tâm Tự liền vào bái phỏng Quan Sơn. Quan Sơn nghe tin Mộng Song tới vội khoác chiếc cà sa rách nát chạy vội ra cửa nghinh đón. Hai người chuyện trò rất cao hứng. Tự viện của Quan Sơn rất nghèo không có gì để tiếp đãi quốc sư. Quan Sơn bất đắc dĩ lấy mấy phân tiền kêu thị giả mua vài cái bánh nướng cung dưỡng quốc sư. Quốc sư cảm kích tâm ý của Quan sơn không khách khí ăn hết bánh rồi đi. Bình thường Mộng Song vào cung đều có nhiều tùy tòng theo hầu. Một hôm, trong cung có chiếu mời, Mộng Song đi kiệu ngang qua Diệu Tâm Tự, thấy Quan Sơn đang cầm chổi quét lá, gom lại một đống để dành để nấu bếp, liền bảo thị giả:
- Tông môn ta bị Quan Sơn đoạt mất rồi.
Quan Sơn mỗi khi đến bái phỏng Mộng Song đều tại khe suối trước cổng chùa rửa chân cẩn thận để khỏi làm lấm bẩn Thiên Long Tự. Về sau Mộng Song sai các học tăng để một tảng đá bằng phẳng ở bên bờ suối để cho Quan Sơn dễ dàng rửa chân. Quan Sơn biết chuyện này than rằng:
- Quốc sư quả thật là quốc sư, tông phong của ông so với tảng đá này còn cứng hơn nhiều.
Hiện tảng đá này còn được giữ ở Đại Long Viện ở Diệu Tâm Sơn.
(Tinh vân thiền thoại)
Phật pháp phải cung kính mà cầu, trong sinh hoạt mà tu. Quan Sơn thi hành triệt để, tự mình quét sân chùa, dùng lá quét để thổi nấu là tiếc phúc, khi bái phỏng đều rửa chân sạch sẽ là tôn kính chẳng trách được quốc sư khen ngợi.

1303. Lãnh hội học nhân.

Có ông tăng hỏi Duyên Đức:
- Thế nào là tâm của cổ Phật?
- Nước, chim, cây, rừng.
- Học nhân chẳng lãnh hội.
- Vậy, hãy lãnh hội học nhân đi!
(Bồ đề linh quang)
Thiền sư coi ‘tâm của cổ Phật’ cũng giống như nước, chim cây, rừng, đều là hư ảo, chỉ có người học tự ngộ mới thật sự là Thiền đạo

1304. Một giọt cũng không hưởng được.

Trí Thường và Nam Tuyền cùng hành cước. Một hôm định chia tay, đun trà rồi Nam Tuyền hỏi:
- Lúc trước cùng sư huynh thương lượng, ngữ cú đều đã biết. Về sau nếu có người hỏi ngộ đạo chuyện lớn làm sao đáp?
- Khoảng đất này nên cất am.
- Chuyện cất am sau này sẽ nói, còn chuyện lớn ngộ đạo phải làm sao?
Trí Thường đạp đổ siêu trà đứng dậy. Nam Tuyền hỏi:
- Sư huynh đã uống trà, đệ còn chưa uống mà?
- Nếu nói vậy, một giọt trà cũng không hưởng được.
(Bồ đề linh quang)
Xét sự lý đến cùng chỉ là dung tục, càng uống trà lại càng hồ đồ.

1305. Hãy còn một quyết.

Liễu Đường Chân Giác là người kinh đô Đại Hòa. 17 tuổi xuất gia. 23 tuổi tham học Đại nguyên Tông Chân mà đại ngộ. 40 tuổi đi thuyền sang Trung Quốc tham học. Thuyền đi chưa được bao lâu, khi ra đến biển lớn bỗng nhiên gập sóng to gió mạnh. Mọi người trên thuyền đều thất kinh rối loạn, chỉ riêng có Liễu Đường bình tĩnh đoan tọa niệm danh hiệu Quán Thế Âm. Tiếng niệm Phật của Liễu Đường làm mọi người bình tĩnh trở lại, nhiều người cùng niệm với ông; tiếng niệm Phật át cả tiếng sóng gió. Khi thuyền bình yên cập bến, mọi người trên thuyền đều tôn ông là Phật sống. Liễu Đường tiếp dẫn học nhân thường dùng câu ‘Vạn pháp trở về một, một trở về đâu’ làm cơ dụng (Xem công án 1040). Một hôm một học tăng hỏi về Động Sơn ngũ vị quyết (Xem công án 505). Liễu Đường giảng cặn kẽ, rồi hỏi:
- Hiểu rõ chưa?
- Con hiểu rồi!
- Tốt lắm! Nhưng ngoài ngũ vị quyết ra còn một quyết ngươi có hiểu không?
Ông tăng không biết làm sao trả lời. Liễu Đường bảo:
- Quyết này ngươi phải ghi nhớ, khi đến mọi nơi tham học không thể bảo cho người biết ngươi nghe giảng ngũ vị quyết ở nơi ta.
(Tinh vân thiền thoại)
Chẳng nên tùy tiện lấy ống loa là một quyết để chỉ sự sử sự. Ngạn ngữ cũng có câu ‘thị phi chỉ là do lắm mồm’. Người ăn mật, ngọt nhạt thế nào chỉ mình biết, không thể dùng lời diễn hết ý.

1306. Uy đức và chiết phúc.

Thời Nam Bắc Triều, Tăng Trù trú ở Tung Sơn. Trong chùa tăng chúng khoảng trăm người hàng này thường dùng nước suối từ một hốc đá phun ra. Một hôm có một người đàn bà mặc quần áo rách rưới, hôi hám, tay cầm một cái chổi ngồi trên tảng đá trên suối nước, nghe tăng chúng tụng kinh. Mọi người coi bà ta là người phong cùi đồng hô đuổi bà ta đi. Bà ta thấy vậy rất tức giận dùng chân đạp vào suối nước. Suối nước lập tức khô cạn, bà ta cũng không thấy đâu nữa. Lúc đó mọi người đều kinh sợ, biết đã gây họa rồi, bèn đem sự tình kể cho Tăng Trù nghe. Tăng Trù mặt lộ tươi cười ra ngoài chùa miệng hô lớn tiếng ba lần:
- Ưu bà di! Ưu bà Di! Ưu bà di! (người phụ nữ học Phật tại gia)
Nguời đàn bà bèn xuất hiện. Thiền sư bảo bà ta:
- Chư tăng đang hành đạo, bà nên hộ trì, đừng gây rối.
Người đàn bà sẽ đạp chân vào suối, suối lại tuôn nước ra. Lúc đó đại chúng đều cảm kích uy đức thần dị của thiền sư. Về sau Tề Văn Tuyên Đế mỗi khi làm xong quốc sự đều dẫn vài vệ sĩ đến gập thiền sư hỏi đạo. Thiền sư cứ mặc Tuyên Đế đến đến, đi đi không hề đưa đón một lần. Chúng đệ tử hỏi:
- Bạch thầy, bệ hạ mỗi lần giáng lâm lễ Phật, đối với việc hoằng dương Phật pháp đều rất lợi ích. Thầy không đưa đón sợ người ta dị nghị.
- Lúc trước Tân Đầu Lư đón vua 7 bước, làm cho vua bị thọ nạn 7 năm. Ta tuy đức không dám sánh với người khác nhưng cũng không thể chiết phúc của Hoàng thượng.
(Tinh vân thiền thoại)
Lấy con mắt phàm mà nhìn thì Tuyên đế là quốc vương, nhưng ở chân lý thì Tăng Trù là pháp vương đương thời. Quốc vương và Pháp vương ai đáng quý hơn? Trước Tăng Trù không lâu Đông Tán Huệ Viễn đề xuất ‘Sa môn chẳng kính Vương giả’. Ông lý luận ‘cà sa không phải là phẩm phục của triều đình, y bát chẳng phải là dụng cụ của nhà chùa sao?’
Tăng Trù không đưa đón vua cũng là ý đó.

1307. Ý Tổ Sư.

1- Một ông tăng hỏi Tam Bình:
- Tam thừa thập nhị phần giáo con không nghe, nhưng thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
- Phất tử lông rùa, trụ trượng sừng thỏ, đại đức chứa ở đâu?

2- Một ông tăng hỏi Phục Long:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
- Sao ngươi không thấy ngứa vậy?

3- Một ông tăng hỏi Long Vân:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao:
- Đêm qua mất trâu trong chuồng.

4- Một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
Triệu Châu gõ vào chân thiền sàng.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1308. Ý Tào Khê.

Có ông tăng hỏi Mục Châu Trần Tôn Túc:
- Ý Tào Khê là gì?
- Lão tăng thích sân, không thích hỷ.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1309. Đại ý Phật pháp.

1- Có ông tăng hỏi Thần Đăng:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
- Ngồi thuyền sắt trên không, sóng bủa quanh đỉnh núi.

2- Có ông tăng hỏi Linh Vân Chí Cần:
- Đại ý của Phật pháp là gì?
- Việc lừa chưa đi, việc ngựa đã tới.
- Con không hiểu.
- Ban ngày khó gập tinh linh.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1310. Đệ nhất nghĩa.

Có ông tăng hỏi Nam Thiền Khế Phiên:
- Thế nào là đệ nhất nghĩa?
- Sao không hỏi đệ nhất nghĩa?
(Thiền ngoại thuyết thiền)
 
ThiệnTâm Date: Thứ Hai, 06 Aug 2012, 2:22 AM | Message # 266
Major general
Group: Moderators
Messages: 365
Status: Tạm vắng
1311. Chư Tổ truyền gì?

1- Có ông tăng hỏi Sơn Huy:
- Tổ tổ tương truyền, họ truyền cái gì?
- Ngươi hỏi ta, ta hỏi ngươi

2- Có ông tăng hỏi Nam Tuyền:
- Tổ tổ tương truyền, họ truyền cái gì?
- Một, hai, ba, bốn, năm.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1312. Đường đi lên.

Có ông tăng hỏi Trường Sa:
- Thỉnh thầy chỉ cho con đường đi lên.
- Một lỗ kim, 3 thước chỉ.
- Làm sao hiểu đây?
- Vải Ích Châu, lụa Dương Châu.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1313. Vì người.

Một ông tăng hỏi Kim Luân Khả Quán:
- Theo tông thừa làm sao để vì người?
- Hôm nay ta chưa uống trà.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1314. Chính mình.

Có ông tăng hỏi Phúc Khê:
- Thế nào là chính mình?
- Ngươi hỏi gì?
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1315. Căn nguyên của pháp.

Một ông tăng hỏi Tuyết Nhạc:
- Thế nào là căn nguyên của Pháp?
- Tạ ơn chỉ thị.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Từ 1307 đến 1315: các câu đáp đều không ăn khớp với câu hỏi. Hỏi một đằng, trả lời một nẻo, mục đích là để phá trừ tri kiến.

1316. Tham thiền pháp khí.

Pháp Viễn Viên Giám lúc chưa chứng ngộ cùng Thiên Y Nghĩa Hoài nghe nói thiền phong của thiền sư Quy Tỉnh rất cao, cùng chúng bạn tất cả 8 người đến tham phỏng Quy Tĩnh. Lúc đó là mùa đông, tuyết rơi tơi bời. Quy Tĩnh vừa gập mặt là chửi rủa đuổi đi. Mọi người không chịu đi. Quy Tĩnh bèn lấy nước tạt, quần áo mọi người đều bị ướt. 6 người trong bọn không nhịn được, đều tức giận bỏ đi, chỉ có Pháp Viễn và nghĩa Hoài là quỳ mãi không đi. Không lâu Quy Tĩnh lại ra hét lớn:
- Các ngươi sao còn chưa đi? Chẳng lẽ đợi ta đánh cho vài gậy?
Pháp Viễn thành khẩn thưa:
- Chúng con 2 người từ ngàn dậm lại tham học, há vì một gáo nước tạt mà đi sao? Cho dù có dùng gậy đánh chúng con cũng không đi.
Quy Tĩnh bất đắc dĩ nói:
- Nếu thật đến tham thiền thì hãy đi quải đơn đi (quải đơn hay quải đáp là treo áo và túi đựng bát ở góc tăng phòng; ý là chấp nhận cho tạm trú).
Pháp Viễn quải đơn rồi từng giữ chức Điển tọa (nấu cơm). Có một lần chưa bẩm báo đã nấu cháo ngũ vị cung dưỡng đại chúng. Quy Tĩnh khi biết chuyện này rất tức giận:
- Lấy đồ của thường trú mà tư cúng đại chúng, ngoài việc phạt đánh đòn còn phải bồi hoàn phí dụng.
Nói rồi đánh Pháp Viễn 30 gậy, tịch thu y bát để trừ vào tổn thất. Sau đó đuổi Pháp Viễn ra khỏi chùa. Pháp Viễn tuy bị đuổi ra khỏi chùa nhưng không đi, mỗi ngày đều ngủ ở hành lang. Quy Tĩnh biết chuyện lại bảo:
- Hành lang cũng là công sở của thường trú, ngươi ngủ ở đó cũng phải trả tiền.
Nói rồi sai người tính tiền phòng. Pháp Viễn vẫn không tỏ vẻ khó chịu, vào phố tụng kinh cho người để kiếm tiền trả. Sau đó không lâu, Quy Tĩnh bảo đại chúng:
- Pháp Viễn quả thật là tham thiền pháp khí.
Bèn sai thị giả mời Pháp Viễn vào pháp đường, trước mặt đại chúng trao cho pháp y, đặt hiệu là Viên Giám.
(Tinh Vân thiền thoại)
Phù Sơn Pháp Viễn, chỗ đắc lực một đời là vì pháp nhẫn nại. Quy Tĩnh không cho ông quải đơn, mắng ông, đánh ông, lấy nước lạnh tạt ông, thậm chí bắt ông bán áo, mền để bồi thường, dù ngủ ở hành lang cũng bị tính tiền, đều không làm ông bỏ tâm nguyện, cho nên không lạ gì sau đó Quy Tĩnh tán thán ông.
Các học giả ngày nay gọi là tham học, nếu đãi ngộ ăn ở không tốt liền tức khắc bỏ đi, nếu không đủ lễ lạc liền phẫn hận bỏ đi, nếu so với Pháp Viễn thật đáng hổ thẹn.

1317. Hoành Trí Chính Giác.

Hoành Trí chủ trương Mặc chiếu thiền. Năm 7 tuổi ông có thể đọc cả ngàn câu kinh, 11 tuổi xuất gia, 14 tuổi thọ cụ túc giới, 18 tuổi đi tham học các nơi, ông hướng tổ phụ thưa:
- Nếu con không phát minh đại sự, nguyện không trở về.
Ông đến Hà Nam yết kiến Khô Mộc Pháp Thành ở Hương Sơn. Khi gập mặt Khô Mộc rất coi trọng ông. Một hôm ông nghe các hòa thượng tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa tới câu “phụ mẫu sở sinh nhẫn, tất kiến tam thiên giới” bỗng nhiên tỉnh ngộ, lập tức vào phòng phương trượng trình sở ngộ. Khô Mộc chỉ hộp hương hỏi ông:
- Trong đó là vật gì?
- Là tâm hạnh gì?
- Ngươi ngộ cái gì?
Hoành Trí dùng tay vẽ một vòng tròn trình lên rồi lại ném về sau.
- Gã nghịch bùn bao giờ mới thôi?
- Sai.
- Chớ thấy người mới được!
- Dạ, dạ.
Hoành Trí lại đến tham Đơn Hà. Đơn Hà hỏi:
- Trước không kiếp, tự kỷ là thế nào?
- Ếch đáy giếng uống trăng, canh ba chẳng dùng mành.
Hoành Trí yên lặng suy nghĩ, Đơn Hà đánh cho một phất tử:
- Nói lại không sai.
Hoành Trí bái tạ. Đơn Hà bảo:
- Sao không nói một câu:
- Hôm nay con mất tiền lại tạo tội.
- Ta không rảnh đánh ngươi, đi ra!
Hoành Trí từ nhỏ đã thông mẫn hơn người, khi khai ngộ mới 23 tuổi. Ông chủ trương Mặc chiếu thiền, ảnh hưởng rất cao xa. Trước khi mất ông có để lại một bài kệ:

夢幻 空 花
Mộng ảo Không hoa
六十 七 年
Lục thập thất niên
百鳥 煙 沒
Bạch điểu yên một
秋水 連 天
Thu thủy liên thiên

Không hoa, mộng ảo
Sáu mươi bẩy rồi
Chim bay không vết
Nước thu liền trời.
(Nhất vị thiền: Quyển Nguyệt)
Bài kệ diễn tả cảnh giới thiền bao la, tịch tĩnh, thống nhất.

1318. Nam phương có cái này không?

Vô Trước lúc còn trẻ, tại ngũ Đài Sơn cùng luận thiền với Bồ tát Văn Thù. Văn Thù đưa một tách trà bằng pha lê rất tinh xảo cho Vô Trước và hỏi:
- Nam phương có cái này không?
- Không.
Vậy sao? Người phương Nam dùng gì để uống trà?
Vô Trước biết Văn Thù không chỉ hỏi chuyện uống trà nên không đáp được, trong lòng bất an không có lòng thưởng trà, bèn từ biệt mà đi. Ra khỏi cửa Vô Trước hỏi đồng tử:
- Sư phụ ông nói trước 33 sau 33, vậy là bao nhiêu?
Đồng tử hô:
- Hòa thượng!
- Dạ!
- Tiếng ông đáp lại là mấy tiếng?
Vô Trước liền ngộ.
(Bồ đề linh quang)
Một là ba. Một là trời đất, một là thiền tâm.

1319. Liễu tâm.

Đại nhân Lưu Thị Ngự đến bái phỏng Ngưỡng Sơn, hỏi:
- Liễu tâm, trừ bỏ vọng niệm, minh tâm kiến tánh, thầy có thể chỉ cho con đạo lý này không?
- Nếu muốn liễu tâm, trừ bỏ vọng niệm, minh tâm kiến tánh thì phải vô tâm mới được. Lúc đó không có vọng niệm để trừ, không có tâm để minh, không có tánh để kiến. Đó mới thực là trừ bỏ vọng niệm, chính thực minh tâm kiến tánh.
(Bồ đề linh quang)
Tâm có thể dung nạp vạn sự, vạn vật, cũng là một phiến không gian yên lặng, trong trẻo.

1320. Hai cách nhìn.

Có lần Long nha viết một bài kệ:

學道 如 鑽 火
Học Đạo như toàn hỏa
逢煙 未 可 休
Phùng yên vị khả hưu
直待 金 星 現
Trực đãi kim tinh hiện
歸家 始 到 頭
Quy gia thủy đáo đầu

Học đạo như bật lửa
Thấy khói chưa thể ngưng
Chỉ đến khi lửa sáng
Tới nhà thì mới dừng.

Thần Đỉnh đọc được bài kệ trên bèn làm 1 bài kệ, phản bác như sau:

學道 如 鑽 火
Học Đạo như toàn hỏa
逢煙 便 可 休
Phùng yên tiện khả hưu
莫待 金 星 現
Mạc đãi kim tinh hiện
燒額 又 燒 頭
Thiêu Ngạch hựu thiêu đầu

Học đạo như bật lửa
Thấy khói có thể ngưng
Chớ đợi khi lửa sáng
Đầu cổ đã cháy bùng.
(Sinh hoạt thiền)
Bài kệ của Long Nha ý là người học đạo tham thiền thấy khói không thể ngưng. Phải tiếp tục cố gắng cho tới khi có lửa. Lúc đó mới được coi là công phu đã về tới nhà. Rõ ràng là thiền cảnh này chỉ mới tới cửa chứ chưa vào được nhà; hãy còn tu, chưa được giải thoát. Do đó Thần Đỉnh nói phản bác. Bài kệ của ông có ý là: đừng chấp vào một cái gì, ngay cả thiện pháp nếu không nó sẽ trở thành ác pháp. Thí dụ thuốc là một thiện pháp đối với người có bệnh, nhưng đối với người không bệnh nó sẽ trở thành ác pháp.

1321. Thi kệ luận đạo.

Một hôm Chứng Ngộ đến thăm Am Nguyên. Buổi tối trong lúc nói chuyện, Chứng Ngộ đề cập đến bài kệ của Tô Đông Pha (Xem công án 440) và khen ngợi:
- Không dễ gì đạt tới cảnh giới này.
Am Nguyên không đồng ý:
- Loại thuyết pháp này còn chưa thấy đường, nói gì đạt tới đích?
- Nếu không đạt tới cảnh giới đó làm sao viết được 2 câu:
Mầu sắc núi chính thân thanh tịnh
Tiếng suối reo chính lưỡi rộng dài.
như vậy, tin tức ấy từ đâu ra?
- Chỉ là gã ở ngoài cửa.
- Xin thầy chỉ điểm.
- Nên từ chỗ này dụng công tham có thể biết bản mạng ở đâu.
Chứng Ngộ cả đêm suy nghĩ, không sao ngủ được,bất tri bất giác trời đã sáng, bỗng nghe tiếng chuông, hoảng nhiên đại ngộ bèn làm bài kệ:

東坡 居 士 太 饒 舌
Đông Pha cư sĩ thái nhiêu thiệt
聲色 關 中 欲 透 身
Thanh Sắc quan trung dục thấu thân
溪若 是 聲 山 是 色
Khê nhược thị thanh sơn thị sắc
無山 無 水 好 愁 人
Vô sơn vô thủy hảo sầu nhân

Cư sĩ Đông Pha thật lắm lời
Ở trong thanh sắc muốn ra chơi
Nếu suối là thanh, non là sắc
Chẳng non, chẳng nước khéo buồn người.

Sau đó trình lên Am Nguyên. Am Nguyên bảo:
- Nói với ngươi là gã ở ngoài cửa.
(Tinh Vân thiền thoại)
Thiền không thể dùng lời, không thể dùng chữ mà tả được, cũng không thể nghĩ, chỉ có ngộ rồi mới thể nhận được. Chứng ngộ sau một đêm thâm tư, tiếng chuông sớm đã mở ra cánh cửa tâm ông. Cảnh giới của ông và của Tô Đông Pha bất đồng.

1322. Chó Thu Điền.

Chó Thu Điền là một loài chó quý của Nhật Bản. Sản địa là huyện Thu Điền ở miền Đông Bắc nước Nhật. Ngoài ngoại hình đẹp đẽ còn thông minh, đáng yêu. Bát Công là một con chó Thu Điền từ nhỏ đã được giao cho một vị giáo sư ở đại học Đông Kinh nuôi dưỡng. Vị giáo sư này là một người rất từ ái. Ông thường nói với vợ con:
- Người có nhân cách, chó cũng có khuyển cách, vì vậy các người nên tôn trọng khuyển cách của Bát Công.Cho thấy ông đầy lòng nhân đạo. Ông chăm sóc Bát Công rất cẩn thận. Ông thường bắt rận cho Bát Công, lại cùng tắm với nó nữa. Đêm nào trời mưa, ông đều thức dậy đi xem Bát Công có bị ướt không và lau khô rồi cùng ngủ với nó ở trường kỷ. Do đó vợ con thường than phiền là giáo sư quý Bát Công hơn cả vợ con. Để đáp lại khi giáo sư đi làm, Bát Công đưa ra tận bến xe, tới giờ tan sở Bát Công lại ra tận bến xe nghênh đón. Một ngày hè năm Đại Chính 14 sau khi đưa giáo sư ra bến xe, trở về nhà Bát Công trông có vẻ bồn chồn sủa lên những tiếng thảm thiết. Chính ngày hôm đó giáo sư đang diễn giảng thì bị tai biến mạch máu não mà qua đời. Thời gian tụ hội của giáo sư và Bát Công chỉ hơn một năm; nhưng Bát Công vẫn như trước, ngày ngày đều ra bến xe đợi giáo sư. Do nhiều duyên cớ, không ai chăm sóc, Bát Công trở thành chó hoang. Nhưng nó không rời bỏ khu giáo sư trú ngụ. Ban ngày nó đi quanh quẩn những nơi mà giáo sư đã dẫn nó đi. Đến chiều nó lại ra bến xe đứng đợi cho đến khi bến xe đóng cửa mới thôi. Quá 10 năm trời ngày nào cũng vậy Bát Công đều ra bến xe đợi chủ nhân vĩnh viễn không trở lại. 10 năm đối với loài chó cũng coi là già. Năm Chiêu Hòa thứ 10 người ta thấy Bát Công nằm chết cóng ở trước bến xe. Đến chết nó vẫn đợi chủ nhân trở về.
(Nhất vị thiền: Quyển Phong)
Tuy là chó nhưng Bát Công có một trái tim Phật.

1323. Hiểu để làm gì?

Một học tăng hỏi Cảnh Sầm:
- Con phải đi hướng nào?
Cảnh Sầm đọc cho một bài kệ:

不識 金 剛 體
Bất thức kim cương thể
卻喚 作 緣 生
Khước hoán tác duyên sinh
十方 真 寂 滅
Thập phương chân tịch diệt
誰在 復 誰 桁
Thùy tại phục thùy hành

Chẳng biết kim cương thể
Tạo duyên sinh mà chi
Mười phương thật tịch diệt
Ai ở, lại ai đi?

- Đầu sào trăm trượng làm sao bước bước nữa?
- Núi Lương Châu, sông Phong Châu.
- Con không hiểu.
- Tứ hải, ngũ hồ đều là đất của nhà vua.
- Thế nào là tâm con?
- Thập phương thế giới là tâm ngươi.
- Vậy sao? Thế thì thân con ở đâu?
- Ở chỗ thân ngươi ở.
- Thân làm sao ở?
- Nước biển lớn, sâu lại càng sâu.
- Không hiểu.
- Cá, rồng ra vào mặc lên xuống.
- Như lời thầy, thập phương thế giới là một hạt minh châu, con làm sao hiểu?
- Hiểu để làm gì?
(Tinh Vân thiền thoại)
Qua vấn đáp của Cảnh Sầm và học tăng cho thấy thiền sư rất từ bi khai thị “Đầu sào trăm trượng làm sao bước nữa?” Núi Lương Châu, sông Phong Châu, cả thiên hạ, có chỗ nào cấm ngươi bước bước nữa? Nếu như ngươi hiểu được thì 4 biển, năm hồ chỗ nào mà chẳng ngao du được? Nếu hiểu được 10 phương thế giới đều ở tâm ngươi thì sao có thể nói thân không có chỗ ở? Học tăng hỏi làm sao hiểu? Cảnh sầm hỏi ngược lại Thiền để làm gì? Thiền không phải ở chỗ hiểu hay không hiểu mà là ngộ. Thế giới đều thuộc về ngươi, cần gì phải bước thêm bước nữa?

1324. Cho Phật A Di Đà ở tạm.

Thiền sư Khiêu Thủy là trụ trì Thiền Lâm Tự, nhưng ông thường vân du bên ngoài, sinh hoạt như một vân thủy tăng. Mọi người đều gọi ông là Khiếu hóa tử Khiêu Thủy. Có một lần ông đến kinh thành dựng một gian nhà tranh ở bên cạnh nhà để xe của một phú ông, bán giép cỏ để mưu sinh. Phía bên kia đường là một người phu đánh xe ngựa. Một hôm, người phu xe chạy sang bảo:
- Hôm qua con đánh xe, đưa một tín đồ đến chùa lễ Phật. Tri khách sư cho con một bức tranh Phật A Di Đà, con xin tặng lại thầy để kết duyên.
- Cám ơn ý tốt của ông.
Khiêu Thủy rất cao hứng treo bức tranh lên vách và lấy bút đề một bài tán:

雖嫌 斗 室 小 如 窩
Tuy hiềm đẩu thất tiểu như oa
借住 與 你 阿 彌 陀
Tá trú dữ nễ A Di Đà
他日 我 若 到 你 處
Tha nhật ngã nhược đáo nễ xứ
望借 蓮 台 作 我 窩
Vọng tá liên đài tác ngã oa

Tuy rằng căn phòng con
Cho Di Đà tạm trú
Ngày nào tới Tây Phương
Mượn lại đài sen ngụ.

Nghe tin Đại Đăng quốc sư sắp mất, ông mang bức tranh đến cho:
- Nghe nói thầy sắp vãng sinh Phật quốc, không biết thầy có nhận biết chủ nhân Tịnh Độ không. Do đó đem tặng tranh để khi gập mặt khỏi bỡ ngỡ.
- Ngươi hãy giữ lấy làm kỷ niệm, tịnh độ ở trong tâm ta, Di Đà ở trong tánh. Ngươi chẳng nghe qua duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà sao?
Khiêu Thủy nghe rồi cười vui vẻ:
- Hãy để Phật Di Đà tạm trú ở phòng ta. Chúng ta hãy kiến lập Tịnh Độ trong tâm, Di Đà trong tánh.
Đại Đăng cũng cười mà mất.
(Tinh Vân thiền thoại)
Khiêu Thủy ẩn mình trong đám ăn mày để tham thiền. Ông treo tranh là cho Phật ở nhờ chứ không cúng dường. Mỗi người phải có tịnh độ của mình, Di Đà của mình. Như Đại Đăng biểu thị chỉ tự trú ở tâm tánh, không trú ở sự tướng, cho nên không nhận tranh tặng. Hai vị thiền sư cùng thở một lỗ mũi, do đó đều ha hả cả cười.

1325. Thùng phân lớn nhỏ.

Người hiện tại rất kính ngưỡng Kim Sơn hoạt Phật tức thiền sư Diệu Thiện, mất năm Dân quốc 22 tại Miến Điện. Hành tích thần dị, lại từ bi hỉ xả. Mọi nơi đều lưu truyền những việc khó làm, khó chịu đựng của ông. Bên cạnh Kim Sơn Tự, có một con hẻm nhỏ, có 2 mẹ con một bà lão sống bần cùng khốn khổ. Đứa con rất ngỗ nghịch thường mắng chửi mẹ. Diệu Thiện biết chuyện thường đến an ủi bà lão, cùng bà nói chuyện nhân quả luân hồi. Nghịch tử rất ghét thiền sư đến nhà; một hôm khởi ác niệm dấu một thùng phân ngoài cửa, đợi thiền sư tới bèn đổ lên đầu. Phẩn và nước tiểu thấm ướt khắp người thiền sư. Ông không tỏ vẻ giận dữ, đội thùng phân lên đầu ra bờ sông ở trước cửa chùa mới từ từ đặt thùng phân xuống. Mọi người chứng kiến đều cười sặc sụa. Diệu Thiện cũng không ngại bảo:
- Chuyện này có gì là đáng cười? Thân thể con người cũng là một thùng phân lớn, trên thùng phân lớn đặt một thùng phân nhỏ có gì là lạ?
Có người hỏi:
- Thầy không cảm thấy khó chịu sao?
- Không khó chịu chút nào, con trai bà cụ từ bi với ta, cho ta đề hồ quán đỉnh, ta thấy rất tự tại.
Về sau đứa nghịch tử bị lòng từ bi của thiền sư làm cảm động, ăn năn sám hối với thiền sư. Ông khai thị:
- Ơn dưỡng dục của cha mẹ nặng như núi, sâu như biển, đã không hiếu dưỡng lại còn đánh chửi thật là bất hiếu, sao có thể làm người?
Nghịch tử hối hận, trở thành hiếu thuận với mẹ, làng xóm đều hay.
(Tinh Vân thiền thoại)
Diệu Thiện là một nhân vật kỳ lạ trong thiền môn cận đại. ông khám bệnh nhưng không cho thuốc, cứu người khỏi ách nạn nhưng không dùng thần dị. Ông đưa cho một chén nước nói đó là canh Bát Nhã uống vào sẽ khỏi bệnh. Ông tát cho một bạt tai, tai nạn sẽ qua khỏi. Ông cũng tương tự như Tế Điên hòa thượng đời Tống. Ông coi thân người ta là thùng phân lớn, thêm một thùng phân nhỏ thì có gì là kỳ quái. Kỳ thực thùng phân đối với ông không hôi hám vì đạo đức từ bi, nhân cách trí tuệ của ông rất thơm tho.
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 06 Aug 2012, 11:48 AM | Message # 267
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1326. Khoái hoạt liệt hán.

Tánh Không người Hán Châu, xuất gia rồi tự hiệu Diệu Phổ Am Chủ, kết am ở Thanh Long Sơn. Thường ngày trừ lúc tu tập thiền định ra, thường thổi tiêu làm vui. Năm Kiến Nguyên, Dư Minh cử binh làm phản, binh biến làm chết nhiều người, bá tánh trốn chạy. Tánh Không cảm khái:
- Ta không thể không cứu!
Bèn vác trượng đến dinh giặc, tên đầu lãnh hét lớn:
- Ngươi là ai? định đi đâu?
- Ta là người xuất gia, đến sào huyệt bọn ngươi!
Tên thủ lãnh nổi giận, hạ lệnh chém đầu. Tánh Không không sợ hãi bảo tên đầu lãnh:
- Muốn chém đầu thì cứ chém, việc gì phải nổi giận. Nhưng ta còn chưa ăn cơm, chẳng nên để ta thành quỷ đói. Cho ta ăn một bữa cuối được không?
Đầu lãnh sai người đưa cơm, thịt heo và rau ra. Ông tụng niệm theo đúng nghi thức ở chùa, rồi ăn. Bọn giặc đứng bên coi đều cười. Ông lại bảo tên đầu lãnh:
- Ai viết văn tế cho ta? Nếu không có thì cho ta giấy bút để ta tự viết.
Bọn giặc mang giấy bút ra. Ông viết văn tế rồi đọc lên một lượt, sau đó lại nhắc đũa lên ăn tiếp. Ăn xong ông bảo đầu lãnh:
- Kiếp số tao ngộ ly loạn, ta là một khoái hoạt hán, nay chính là lúc cho ta một nhát đao. Chém! Chém! Chém!
Đầu lãnh thấy ông anh dũng không những không giết ông mà còn chắp tay tạ tội, sai người đưa ông về núi. Một giải Ô Trấn do đó thoát nạn. Đạo tục gần xa đều coi trọng ông.
(Tinh Vân thiền thoại)
Thiền biểu hiện ở phương diện tuệ giải dễ, nhưng ở phương diện từ bi thì khó.

1327. Nói hay không đều bị đánh.

Một hôm Đức sơn nói:
- Để trả lời câu hỏi Đạo là gì? Nếu có người đáp thế nào là Đạo ta sẽ đánh hắn 30 gậy, nếu không đáp được ta cũng đánh hắn 30 gậy.
(Sinh hoạt thiền)
Đáp được là không đúng, đáp không được cũng là không đúng, bởi vì chân lý tuyệt đối không thể nói được. Vì không thể nói được nên chỉ có thể dùng phương thức mâu thuẫn; tỷ như kinh Kim Cương nói:”Thế giới phi thế giới mới gọi là thế giới”. Kinh Phật thường dùng thí dụ con của Thạch nữ để giải thích. Nói con của Thạch nữ rất anh tuấn, hay con của Thạch nữ không anh tuấn đều sai vì Thạch nữ là người phụ nữ không thể mang thai. Nói cách khác Giáp (nói được) và phi Giáp (nói không được) đều sai, đều đáng đánh 30 gậy. Thiền dùng phương thức mâu thuẫn này để biểu đạt không tánh.

1328. Đuổi đến thiên đường.

Nhất Hưu trên đường hành cước, gập trời tối bèn tá túc ở một nông trại. Đêm khuya bỗng bị tiếng than khóc làm tỉnh giấc, thì ra chủ nhân nhà hàng xóm bị bệnh qua đời. Nhất Hưu tự nhủ:
- Thật bất hạnh, ta phải đi tụng kinh cho ông ta.
Vì người chết lúc sinh tiền bắt cá, săn chim cho nên lúc bị bệnh thường bị sát nghiệp làm cho lo lắng chẳng an. Gia quyến mong Nhất Hưu siêu độ khiến người chết được lên thiên đường. Nhất Hưu tụng kinh xong viết chữ lên một mảnh giấy để vào tay người chết, bảo thân nhân:
- Tốt, người chết nhất định được lên thiên đường, quý vị đừng lo!
Mọi người rất cảm động thấy Nhất Hưu quan tâm, nhưng cũng hiếu kỳ muốn biết Nhất Hưu viết gì trên giấy, bèn mở ra đọc: Người này phạm tội sát sanh nặng như núi Tu Di, e rằng sổ trước bạ của Diêm Vương cũng không đủ chỗ để ghi.”
Vợ người chết xem rồi hỏi Nhất Hưu vì sao trêu ghẹo mọi người?
- Thưa bà, ông nhà tạo sát nghiệp có nặng như núi Tu Di không?
- Con thừa nhận, nhưng không biết có cách nào siêu độ cho nhà con?
- Ta đã tụng kinh để tiêu tội, giải nghiệp cho ông ta rồi, sở dĩ ta viết thư cho Diêm vương là do lời yêu cầu của bà. Tội đại ác như vậy đáng đuổi lên thiên đường khiến cho Diêm vương khỏi nhọc công chép tội. Ông nhà mang thư này nhất định sẽ lên thiên đường.
(Tinh Vân thiền thoại)
Lời của Nhất Hưu thật là một lời giáo dục hay cho người đời.

1329. Gương cổ của bầy khỉ.

Một lần, Tuyết Phong và chúng đệ tử xuất hành trên đường gập một bầy khỉ. Tuyết Phong nói:
- Các người đừng coi thường chúng, mỗi con đều mang trên lưng một gương cổ, đều có linh tính. Các ngươi coi chúng ăn ngũ cốc của chùa mẫn cán biết bao?
Có ông tăng hỏi:
- Những súc sanh này không có trí tuệ của con người, giả sử có cũng là súc sanh, sao sư phụ nói chúng có gương cổ (trí tuệ của Phật)?
- Nếu nói vậy gương cổ của ngươi đã phủ đầy bụi.
- Thầy không đáp vào câu hỏi, ngay câu hỏi của con thầy cũng chẳng rõ.
- Thật xin lỗi, coi như ta sai có được không?
(Bồ đề linh quang)
Vạn vật đều có Phật tánh. Phật tánh ở ngã, trí, mê, người bên cạnh không thể thâm nhập. Ông tăng này gương cổ bị bụi phủ, chỉ có thể để ông ta tự mình phủi đi mà thôi.

1330. Kéo tai.

Thiền sư Bố Đại người thời Ngũ Đại, ứng hóa ở huyện Phụng Hóa tỉnh Chiết Giang. Tự nhận trên khế hợp lý chư Phật, dưới khế cơ chúng sinh vì vậy xưng là Khế Thử, ngoại hiệu Trương Thinh Tử. ngày ngày Bố Đại phanh ngực lộ bụng, nói năng lung tung, vai vác túi vải (bố đại) tay cầm niệm châu du hóa bốn phương, gập người liền xin. Nhận được bất cứ vật gì đều thồn vào trong túi vải. người đời đều gọi là hoà thượng túi vải. Có một lần, vào giờ thọ trai ở Thiên Đồng Tự, tăng chúng xếp hàng vào phòng ngồi. Không biết Bố Đại từ đâu đi vào, cười cười ngồi ngay vào chỗ của phương trượng. Củ soát sư (ông tăng coi việc kiểm soát) hét lớn bảo ông đi xuống. Bố Đại mắc kệ. Hành đường sư cũng yêu cầu ông đi xuống, ông vẫn không động. Thấy phương trượng sắp tới, Củ soát sư vội chạy tới chỗ Bố Đại nắm tai ông kéo xuống. Nào ngờ Củ soát sư kéo tai ông lôi ra đến cửa trai phòng, tai thì dài ra nhưng ông vẫn ngồi yên tại chỗ bất động. Đại chúng thấy vậy đều trợn mắt nhìn, không thốt được ra lời. Trụ trì thấy tình cảnh ấy bảo củ soát sư:
- Cứ để ông ta ngồi ở thượng tọa, ta ngồi sau ông ấy được rồi!
Từ đó về sau, đến giờ độ trai, Bố Đại không khách khí đều ngồi ở thượng tọa.
Vào năm Lương Trinh Minh thứ 3, Bố Đại ngồi kết già trước điện Nhạc Lâm Tự thị tịch. Ông có để lại một bài kệ:

彌勒 眞 彌 勒
Di Lặc chân Di Lặc
分身 千 百 億
Phân thân thiên bách ức
時時 示 時 人
Thời thời thị thời nhân
時人 自 不 識
Thời nhân tự bất thức

Di Lặc thực Di Lặc
Phân thân trăm ngàn ức
Luôn luôn chỉ người đời
Người đời chẳng tự thức.
(Tinh Vân thiền thoại)
Thiền sư Bố Đại du hí nhân gian, do bài kệ của ông mọi người đều nhận ông là Di Lặc. Bố Đại người mập mạp thường mỉm cười nên người đời cũng gọi ông là Hoan Hỉ Phật.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 06 Aug 2012, 11:52 AM | Message # 268
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1331. Sơn đầu hỏa.

Sơn Đầu Hỏa là một thiền sư cận đại. Ông là một thi sĩ làm thơ bài cú tự do. Lúc còn nhỏ ông bị ám ảnh bởi bà mẹ tự sát, lớn lên em ông cũng tự sát, rồi các thi hữu thân thiết cũng qua đời. Ông cũng uống thuốc độc nhưng không chết. Không có nhà để trở về ông được phương trượng Báo Ân Tự thu nạp. Ông tự trách là người vô dụng xin trụ trì cứu. Trụ trì bảo ông:
- Chỉ có học tọa thiền mới có thể cứu được, nhưng tọa thiền cũng vô dụng.
- Nếu đã vô dụng sao còn tọa thiền?
- Vì vô dụng nên mới cần tọa thiền.
Ông hơi tỉnh ngộ, chết không đáng sợ bất tất cầu chết, sự hoàn tất bèn đi. Ông chưa đi vì sự chưa hoàn tất. Việc trong đời này của ông là sáng tác Bài cú. Từ đó ông vân du bốn phương sáng tác vô số những Bài cú mỹ lệ. Trích một vài bài cú của ông:
- Trong khoảng sinh tử, tuyết chẳng ngừng rơi.
- Già nhưng chưa chết nên cắt móng tay.
- Tiếng ve kêu, có phải là tìm chỗ chết?
- Côn trùng càng rỉ rả càng đoản mạng.
Bài cú cuối cùng của ông là:
- Đi thẳng về chỗ mây tuôn.
(Nhất vị thiền:Quyển Phong)
Nhiều người không biết những Bài cú đẹp đẽ của ông là do ông đã thăng hoa những đau khổ của đời ông vậy.

1332. Đầu đồng, cổ sắt.

Có ông tăng hỏi Huệ Giác:
- Phật là thế nào?
- Vươn đầu đồng, cổ sắt.
- Là ý gì?
- Chim giơ mỏ, cá phùng mang.
(Bồ đề linh quang)
Thiền sư dùng phản ngữ phản kích ông tăng khiến ông lãnh ngộ. Phật như người thường, ai ai cũng có thể thành Phật.

1333. Bài kệ của Thanh Tùng.

摩訶 般 若
Ma ha Bát Nhã
非取 非 捨
Phi thủ phi xả
若人 不 會
Nhược nhân bất hội
風寒 雪 下
Phong hàn tuyết hạ

Ma ha Bát Nhã
Không nắm, không lơi
Nếu người chẳng hiểu,
Gió lạnh tuyết rơi.
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Đại trí tuệ (ma ha Bát Nhã) không nắm cũng không buông, không phân biệt. Nếu không hiểu điều này thì trong sinh hoạt sẽ cảm thấy lạnh lẽo. Nếu cứ lấy tâm bình thường mà coi thế sự thì sẽ được an nhiên tự tại.

1334. Không có tướng nam nữ.

Có ông tăng hỏi Hoàng Long:
- Thế nào là mật thất?
- Chỗ không mở.
- Người trong mật thất thì sao?
- Không có tướng nam nữ.
(Công án thiền cơ)
Mật thất là chỗ tối tăm, khó mở, Ai ở trong đó? Là người không có tướng nam nữ. Người ở trong mật thất chỉ tự tánh, còn mật thất chỉ mê vọng trói buộc tự tánh. Vì tự tánh vô sắc, vô hình, vô tướng nênlàm gì có phân biệt nam nữ.

1335. Vô lậu công đức.

Đại Điên hỏi Thạch Đầu:
- Cổ nhân nói có, nói không đều là phỉ báng, thỉnh thầy trừ.
- Một vật cũng không thì trừ cái gì?
(Công án thiền cơ)
Nói không là không có, nói có là giả có vì mọi vật đều do nhân duyên giả hợp mà thành, khi duyên tán thì lại trở về không. Nói có nói không đều là không cả, không có một vật nào cả vậy thì trừ cái gì?


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 06 Aug 2012, 11:54 AM | Message # 269
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1336. Mật truyền.

Có ông tăng hỏi Huyền Ngộ:
- Thế là mật truyền tâm?
Thiền sư im lặng hồi lâu.
- Con vểnh tai để nghe sao thầy không nói?
- Đốt đèn lên.
(Công án thiền cơ)
Bản tánh là không, không có vật gì, lời gì để truyền. Do đó thiền sư im lặng. Cùng một thể tánh là không thì cần gì phải truyền? Đã là không thì làm gì có một tâm ấn và một tâm để ấn? Vì khi có một hình tướng thì đều không phải là chân. Ông tăng không hiểu thiền cơ. Thiền sư có giảng cũng vô dụng, vì vậy thiền sư không lý đến ông, kêu thị giả thắp đèn.

1337. Trời xanh.

Nam Tuyền đến tham phỏng Hoàn Trung ở Đại Từ sơn (Hàng Châu), hỏi:
- Am chủ là thế nào?
- Trời xanh! trời xanh!
- Hãy tạm gác trời xanh qua một bên, am chủ là thế nào?
- Hiểu liền hiểu ngay! Đừng lo!
Nam Tuyền phất tay áo mà ra.
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của Nam Tuyền là hỏi về tự tánh. Hoàn Trung đáp trời xanh là dụ cho hư không. Nam Tuyền không hiểu hỏi lại. Hoàn Trung đành phải nói hiểu liền hiểu ngay, không hiểu là không hiểu, chỉ rằng ông đã bảo am chủ, trời xanh đều là không, không khác. Nam Tuyền lúc đó còn chưa ngộ nên bỏ đi.

1338. Duy ngã độc tôn.

Có ông tăng hỏi Tòng Ỷ:
- Phật là thế nào?
- Không chỉ trời, không chỉ đất.
Tại sao không chỉ?
- Duy ngã độc tôn.
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của ông tăng là hỏi về bản thể giới. Phật là người đã giác ngộ, giác ngộ cái gì? Giác ngộ rằng mọi pháp đều do nhân duyên sanh, có khả năng dùng thể tánh không chiếu mọi cảnh. Tuy đối cảnh mà không khởi mê tình. Không chỉ trời, không chỉ đất vì Phật ở khắp nơi không thuộc vào tam giới. ông tăng lại thắc mắc vạn vật vốn đồng một thể, trời đất cùng một căn tại sao không chỉ? Ngộ vô vi chư pháp nbình đẳng, biết Phật tánh là chân ngã, siêu việt thế gian, có thể chiếu mọi cảnh nhưng không bị cảnh trói buộc. Chúng sanh mê vọng, chấp trước nên bị mê tình mà trôi lăn trong vòng ba giới.

1339. Hữu tánh vô ngôn.

Có ông tăng hỏi Trung Độ:
- Thỉnh hòa thượng lìa thanh sắc mà đáp.
- Người gỗ thường nói còn hữu tánh không thể nói .
(Công án thiền cơ)
Tất cả trần cảnh đều không thể lìa sắc, thanh, hương, vị, xúc. Do đó ý của ông tăng là hòa thượng đừng tại hiện tượng giới, hãy lấy bản thể giới mà đáp. Người gỗ ở đây là chỉ người chưa chứng bản tánh rất thích giảng giải, những lời ông ta nói chưa đúng nghĩa, chỉ khiến tạo khẩu nghiệp. Người đã kiến tánh ngộ thể không, không thích và không thể nói. Đó là tâm cảnh “Một lần chết lớn” người đó bất cứ làm gì cũng không thấy hứng thú. Nhưng đó vẫn còn ở trình độ tiểu thừa hãy còn chấp pháp. Đó là “đao giết người” (dùng đao chặt đứt hiện nghiệp lưu thức) phải vượt qua để đạt tới “Kiếm cứu người” là làm tâm sống lại, nghĩa là đối với ngoại cảnh cũng biểu lộ hỷ nộ . . . như mọi người thường nhưng vì nội tâm đã giải thoát nên cảnh hiện đó, quên đó, không ghi nhớ, không phiền não.

1340. Rận từ đâu ra.

Một hôm, Tô Đông Pha và Trần Thiếu Du cùng ăn cơm. Hai người đều tài hoa, thường hay tranh luận. Hôm đó đang ăn, bỗng có một người đi ngang qua. Người ấy vì lâu ngày không tắm rửa, chí rận bò lổm ngổm. Tô Đông Pha bảo:
- Người này hôi quá, cáu ghét trên người đều sinh chấy rận cả.
Trần Thiếu Du không cho là phải.
- Chẳng phái chấy rận từ bông sợi sinh ra sao?
Hai người đều cho mình là đúng, không ai nhường ai, tranh cãi không thôi. Sau đồng ý là nhờ Phật Ấn phân xử, ai thua phải đãi tiệc.
Tô Đông Pha háo thắng chạy tới Phật Ấn nhờ giúp, Trần Thiếu Du cũng tìm đến Phật Ấn nhờ giúp. Phật Ấn đều đáp ứng. Hai người yên tri, chờ Phật Ấn bình phẩm. Kết quả Phật Ấn nói:
- Con rận, đầu do cáu ghét sinh ra, còn chân do bông sợi sinh ra.
Thiền sư đã dàn hòa tuyệt hảo, có thơ rằng:

一樹 春 風 有 兩 般
Nhất thụ xuân phong hữu lưỡng bàn
南枝 向 暖 北 枝 寒
Nam chi hướng noãn Bắc chi hàn
現前 一 段 西 來 意
Hiện tiền nhất đoạn Tây lai ý
一片 西 飛 一 片 東
Nhất phiến Tây phi nhất phiến Đông

Một cây hướng gió có hai cành
Hướng Nam ấm cúng, hướng Bắc hàn
Trước mặt một đoạn Tây lai ý
Một phiến về Tây, một phiến Đông.
(Tinh Vân thiền thoại)
Bài thi này bảo chúng ta cái gì? Đó là vật ngã hợp nhất. Vật ngã là một thể. Ngoại tướng của sơn hà đại địa là nội tại của sơn hà đại địa. Đại thiên thế giới là nội tâm thế giới,. Giữa vật và ngã không có phân biệt, chẳng hạn như cùng tiếp thụ không khí, ánh nắng, nước, nhưng các lá đều có sinh cơ riêng, đều vô ngại cộng tồn trên cây.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 06 Aug 2012, 3:08 PM | Message # 270
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1341. Kiếp phù sinh.

Đại thi hào Bạch Cư Dị rất kính ngưỡng đạo hạnh của Điều Sào thiền sư. Một lần đến tham phỏng, đọc một bài thơ hỏi đạo:

特入 空 門 問 苦 空
Đặc nhập không môn vấn khổ không
敢將 禪 事 問 禪 翁
Cảm tương thiền sự vấn thiền ông
爲當 夢 是 浮 生 事
Vi đương mộng thị phù sinh sự
爲復 浮 生 是 夢 中
Vi phục phù sinh thị mộng trung

Vào chốn không môn hỏi khổ, không
Dám đem thiền sự hỏi thiền ông
Nằm mộng chính là phù sinh sự
Phù sinh có phải là mộng không.

Điểu Sào thiền sư cũng đọc một bài thơ đáp lại:

來時 無 跡 去 無 蹤
Lai thời vô tích khứ vô tung
去與 來 時 事 一 同
Khứ dữ lai thời sự nhất đồng
何須 更 問 浮 生 事
Hà tu cánh vấn phù sinh sự
只此 浮 生 是 夢 中
Chỉ thử phù sinh thị mộng trung

Lúc đến không dấu, đi không vết
Đến và đi chuyện đó vốn đồng
Cần chi phải hỏi phù sinh sự
Phù sinh là mộng biết hay không?

Đời người như ảo như hóa, ngắn ngủi phù du, nhưng nếu thể ngộ được “vô sinh”, vượt lên đến và đi, đối đãi hạn chế thì sẽ cảm nhận được trong cõi bao la vô cùng và thời gian vô tận, sinh mạng là bất sinh bất diệt. Bạch Cư Dị về sau tìm được chỗ an thân, lập mạng trong Phật giáo, trở thành tại gia Phật tử, thường đi tham phỏng các vị cao tăng. Về già ông ăn chay trường, biến nhà thành chùa đặt tên là Hương Sơn Tự, tự gọi mình là Hương Sơn cư sĩ, lại say mê niệm Phật.
(Tinh Vân thiền thoại)
Đọc thơ Bạch Cư Dị chúng ta còn thấy ông có ý tưởng sẽ làm tăng trong kiếp lai sinh. Ông có bài thơ tả tâm cảnh:

余年 近 七 十
Dư niên cận thất thập
不復 事 吟 哦
Bất phục sự ngâm nga
看經 費 眼 力
Khán kinh phí nhãn lực
作福 畏 奔 波
Tác phúc úy bôn ba
何以 慰 心 眼
Hà dĩ úy tâm nhãn
一句 阿 彌 陀
Nhất cú A Di Đà
朝也 阿 彌 陀
Triêu dã A Di Đà
晚也 阿 彌 陀
Vãn dã A Di Đà
縱饒 忙 似 箭
Túng nhiên mang tự tiễn
不離 阿 彌 陀
Bất ly A Di Đà
達人 應 笑 我
Đạt nhân ưng tiến ngã
多却 阿 彌 陀
Đa khước A Di Đà
達也 作 麼 生
Đạt dã tác ma kinh
不達 又 如 何
Bất đạt hựu như hà
普權 法 界 眾
Phổ quyền pháp giới chúng
同念 阿 彌 陀
Đồng niệm A Di Đà

Ta nay gần bẩy chục
Chẳng thích sự ngâm nga
Xem kinh ngại mỏi mắt
Tạo phúc sợ bôn ba
Để vỗ về tâm nhãn
Một câu A Di Đà
Sáng cũng A Di Đà
Chiều cũng A Di Đà
Dù rằng rất bận rộn
Chẳng lìa A Di Đà
Đạt nhân dù cười ta
Chẳng bỏ A Di Đà
Đạt rồi thì làm sao?
Không đạt lại thế nào?
Phổ quyền khắp pháp giới
Cùng niệm A Di Đà.

Bạch Cư Dị mới đầu tu Thiền, sau đó tu Tịnh, cuối cùng là Thiền Tịnh song tu. Sinh hoạt của ông thật phong phú.

1342. Thần xạ.

Thời chiến quốc có một người bắn tên rất giỏi tên là Kỷ Xương, ông lập chí làm Thần Xạ giỏi nhất thiên hạ. Khi ông biết người bắn tên giỏi nhất là Phi Vệ, ông liền vượt bao sông núi đến bái Phi Vệ làm thầy. Phi Vệ bảo ông:
- Trước hết ngươi hãy học không chớp mắt.
Ông về nhà nằm dưới khung cửi của vợ, nhìn con thoi qua lại không chớp mắt. Luyện tập 2 năm, ngay cả khi đi ngủ cũng không nhắm mắt. Thành công rồi Phi Vệ lại bảo ông:
- Ngươi hãy tập nhìn nhỏ thành to.
Trở về nhà, ông tìm một côn trùng nhỏ để lên lá cỏ treo ở thư phòng ngày ngày tập luyện. Ba tháng sau ông nhìn thấy con côn trùng to bằng con tằm, 3 năm sau ông thấy nó bằng cái bánh xe. Lúc đó ông lấy một cái kim nhỏ để vào cung mà bắn. Kim găm trúng ngực con côn trùng mà lá cỏ không hề rung động. Kỷ Xương vui mừng đến gập sư phụ. Phi Vệ bảo ông đã học hết áo bí rồi. Ông không những bắn bách phát bách trúng như sư phụ, mà ngoài trăm bước còn có thể bắn xuyên lá liễu. Thậm chí khi về nhà, vợ ông nói chuyện thao thao bất tuyệt. Ông lấy một lông đuôi gà để vào cung bắn rụng 3 sợi lông mày mà bà vợ không hề hay biết, vẫn không ngừng nói chuyện. Kỷ Xương rất cao hứng nghĩ rằng mình đã trở thành cao thủ đệ nhất thiên hạ, nhưng ông chợt nhớ rằng còn có một người cao minh hơn ông đó là sư phụ ông: Phi Vệ, nếu không trừ khử sư phụ làm sao ông có thể xưng là đệ nhất xạ thủ? Một hôm Kỷ Xương đi tản bộ nơi điền dã, từ xa thấy Phi Vệ đi tới. Không chậm trễ Kỷ Xương giương cung bắn. Phi Vệ cũng cảnh giác bắn cùng một lúc, 2 mũi tên chạm nhau trên không cùng rơi xuống đất. Cuối cùng Phi Vệ hết tên, Kỷ Xương còn một mũi. Kỷ Xương kêu to:
- Hãy nhận mạng!
Tiếng kêu chưa dứt tên đã bay ra, nhưng Phi Vệ đã nhanh tay bẻ một cành cây đưa ra trước ngực gạt mũi tên của Kỷ xương. Kỷ Xương đỏ mặt, cúi gầm đầu, không biết làm sao nhìn mặt sư phụ. Phi Vệ không trách ông còn bảo:
- Kỹ thuật bắn tên của ta và ngươi không phân hơn kém. Nếu ngươi muốn tiến thêm bước nữa hãy kiếm sư phụ ta là Cam Dăng lão nhân, người là xạ thủ vĩ đại nhất. Thuật xạ tiễn của chúng ta so với người chỉ là trò con nít.
Kỷ Xương bái biệt sư phụ đi tìm Cam Dăng. Sau nhiều tháng cuối cùng ông đã gập Cam dăng ở đỉnh Hoắc Sơn. Khi thấy mặt ông rất thất vọng vì thấy đó là một cụ già tóc bạc phơ, lưng còng không có vẻ gì là một xạ thủ cả. Để trổ tài bắn tên của mình, Kỷ Xương giơ cung lên nhắm đàn nhạn bay qua, 5 con nhạn bị tên xuyên thành một xâu rơi xuống đất. Cam Dăng bảo ông:
- Tài nghệ ngươi cũng khá, nhưng chỉ dùng cung tên bắn chim thì hãy còn là sơ bộ của tiễn pháp, ngươi còn chưa học qua bắn mà không bắn của Tiễn Đạo.
- Bắn mà không bắn nghĩa là sao?
Cam Dăng dẫn ông tới một phiến đá dài nơi đỉnh núi.
- Ngươi hãy đến đây bắn tên cho ta coi!
Kỷ Xương bước lên phiến đá, nhìn xuống dưới phiến đá là một dòng nước chẩy cực mạnh, cảm nhận được phiến đá rung chuyển dưới chân, sợ đến chân phát run, không bắn tên được. Lúc đó một con chim nhỏ bay qua. Cam Dăng bảo:
- Ta cho ngươi thấy thế nào là tiễn đạo chân chính!
Lão nhân chỉ liếc mắt một cái, con chim liền rơi ngay xuống đất.
Kỷ Xương trợn mắt há mồm không nói ra lời, sau đó theo Cam dăng học tập 9 năm. Năm thứ 10 thì xuống núi, không hề nhắc đến chuyện bắn tên nữa. Mọi người chờ đợi ông trổ tài nhưng ông hầu như đã quên cả cung tên rồi. Có người hỏi ông:
- Sao không bắn tên nữa?
- Động đến cực điểm thì bất động, nói đến cùng thì không lời, bắn tên đến cực điểm thì không bắn.
Sau khi xuống núi 14 năm Kỷ Xương qua đời. Không ai thấy ông xử dụng cung tên. Truyền thuyết còn nói rằng có môt lần có một người bạn đến thăm ông mang theo cung tên để xuống bàn. Kỷ xương hỏi:
- Vật để trên bàn là cái gì? Dùng để làm chi?
Người bạn cười lớn tưởng Kỷ Xương nói diễu, nhưng khi Kỷ Xương nhắc lại câu hỏi 3 lần thì ông cảm thấy kính phục:
- Bây giờ ông thật là đệ nhất thần xạ trong thiên hạ. Chỉ có bậc đại sư như ông mới chân chính quên hết danh tướng và xử dụng.
(Hương Thủy Hải)
Đây là một chuyện chép trong sách Liệt Tử. Chuyện này khiến chúng ta liên tưởng đến chuyện bắn tên của Mã Tổ và Tuệ Tạng (Xem công án 391). Đệ nhất xạ thủ trong thiên hạ nguyên lai là một người có thể bắn xuyên phiền não, háo thắng, phân biệt của chính mình.

1343. Có đem theo lửa không?

Một hôm Quy Sơn theo Bách Trượng vào núi lao tác. Bách Trượng hỏi:
- Ngươi có mang theo lửa không?
- Có mang theo.
- Để ở đâu?
Quy Sơn nhặt một thanh củi, thổi phù phù 2 lần rồi trao cho Bách Trượng. Bách Trượng vui vẻ hỏi:
- Như con mọt đục gỗ, ngẫu nhiên thành chữ.
(Tinh Vân thiền thoại)
Lửa ở đây tượng trưng cho tự tánh. Bách trượng muốn Quy Sơn bới tro tìm lửa là muốn chỉ Quy Sơn phải tự mình giác ngộ tự tánh (Xem công án 1062). Chuyện này đâu có dễ, do đó Bách Trượng tự bới tro, bới sâu mới tìm được lửa. Thậm chí trong khi lao động cũng khuyến khích Quy Sơn đừng quên tự tánh. Câu nói “Ngươi có mang theo lửa không?” thật là từ bi, trí tuệ biết bao. Sinh hoạt thiền là như vậy.

1344. Đi tắm.

Một hôm Bách Trượng đi tản bộ thấy ông tăng chấp sự phòng tắm đang đun nước, liền thuận miệng bảo:
- Nước sôi rồi, đừng quên gọi trâu tắm nhé!
Nước sôi rồi, ông tăng chạy tới phương trượng mời Bách Trượng đi tắm, chưa kịp mở mồm Bách Trượng đã hỏi:
- Ngươi đến đây làm gì?
- Mời trâu đi tắm.
- Có mang theo giây thừng không?
Ông tăng không trả lời được.
(Tinh Vân thiền thoại)
Từ cổ các thiền sư không cần làm Phật, chỉ cần khai ngộ, đó là chỗ vĩ đại của các thiền sư vậy.

1345. Uống trà đi!

Có hai ông tăng đến tham Triệu Châu. Triệu Châu hỏi:
- Ngươi đi thuyền đến hay đi bộ đến?
- Đi thuyền đến.
- Uống trà đi!
Triệu Châu lại hỏi ông tăng thứ hai:
- Ngươi đi thuyền đến hay đi bộ đến?
- Đi bộ đến.
- Uống trà đi!
Viện chủ thấy lạ hỏi:
- Tại sao đi bộ đến, đi thuyền đến đều mời uống trà?
Triệu Châu gọi:
- Viện chủ!
- Dạ
- Uống trà đi!
(Trung Hoa thiền phong để diễn biến)
Lục Tượng Sơn có để lại một câu “Thiên hạ vấn vô sự, người thường tự rối loạn”.
Vốn chẳng có chuyện gì, uống trà nóng là tốt rồi. Công án này là một thoại khác của công án số 1000, chi tiết có thay đổi đôi chút nhưng ý nghĩa thì đồng.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 06 Aug 2012, 3:10 PM | Message # 271
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1346. Cảnh Thanh hôm nay thất lợi.

1- Một ông tăng đến tham Cảnh Thanh, Cảnh Thanh giơ phất tử lên. Ông tăng nói:
- Từ lâu nghe tiếng Cảnh Thanh nên đến bái phỏng nào ngờ thầy còn thủ đoạn này.
- Hôm nay ta thất lợi.

2- Một lần Cảnh Thanh hỏi Hà Ngọc:
- Ngươi từ đâu tới?
- Núi Thiên Thai.
- Ai bảo ngươi đến Thiên Thai?
- Thực là đầu hổ, đuôi rắn.
- Hôm nay ta thất lợi.

3- Một lần Cảnh Thanh im lặng đọc kinh, một ông tăng hỏi:
- Thầy đọc kinh gì?
- Ta học cổ nhân trừ trăm cỏ, ngươi biết chơi không?
- Trò này từ nhỏ con đã chơi qua.
- Hiện nay thì sao?
Ông tăng giơ nắm đấm lên, Cảnh Thanh nói:
- Hôm nay ta thua rồi.

4- Có ông tăng hỏi Cảnh Thanh:
- Đầu năm có Phật pháp không?
- Có.
- Phật pháp đầu năm là thế nào?
- Ngày Nguyên đán mọi việc đều mới.
- Tạ ơn thầy chỉ giáo.
- Hôm nay Cảnh Thanh thất lợi.

5- Cảnh Thanh thượng đường ném gậy xuống đất bảo đại chúng:
- Chạm hay không chạm đến gậy đều bị ăn 20 gậy.
Một ông tăng lượm cây gậy đội lên đầu đi ra
- Hôm nay Cảnh Thanh thất lợi.

6- Cảnh Thanh thấy ông tăng đọc sách bèn hỏi:
- Ngươi đọc sách gì?
- Mời thầy xem.
- Một điểm chưa phân đã phân 3 rồi.
- Hôm nay vừa giống như gập vừa giống như chẳng gập người.
- Hôm nay Cảnh Thanh thất lợi.
(Bồ đề linh quang)
Lùi lại một bước, trời cao đất rộng, trong đó ẩn hàm thiền cơ sắc bén.

1347. Thể của Bát Nhã.

Triệu Châu hỏi Đại Từ Hoàn Trung:
- Bát Nhã lấy gì làm thể?
- Bát Nhã lấy gì làm thể?
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1348. Sự hướng thượng.

Có ông tăng hỏi Thúy Nham Lịnh Tham:
- Phàm có lời nói đều là ô nhiễm, thế nào là sự hướng thượng?
- Phàm có lời nói đều là ô nhiễm.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1349. Phương tiện.

Có ông tăng hỏi Cảnh Thanh:
- Thế nào là phương tiện nhanh và dễ thành tựu?
- Nhanh và dễ thành tựu.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1350. Đại ý Phật pháp.

Đạo Ngộ hỏi Thạch Đầu:
- Thế nào làđại ý Phật pháp?
- Chẳng được, chẳng biết.
(Thiền ngoại thuyết thiền)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 06 Aug 2012, 3:13 PM | Message # 272
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1351. Một câu vì người.

Có ông tăng hỏi Ba Tiêu:
- Thế nào là môt câu vì người của Hòa thượng?
- Chỉ sự xà lê không dám hỏi.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1352. Không gì để thấy.

Có ông tăng hỏi Đầu Tử Đại Đồng:
- Thế nào là không ra cửa, không thấy Phật?
- Không gì để thấy.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1353. Quải Đơn.

Một ông tăng đến một chùa nọ xin quải đơn. Tri khách tăng hỏi:
- Ông đến bản tự quải đơn, có gì cúng dường?
Ông tăng không có tiền, cũng không có một vật gì, chỉ nói:
- Sư phụ, con chỉ có thân, khẩu, ý cúng dường thấy.
Tri khách tăng bước tới cho vài bạt tai, ông tăng xoa đầu. Tri khách tăng bảo:
- Xoa đầu cái gì? Ngươi chẳng đemthân, khẩu, ý cúng dường ta sao? Đầu ngươi là của ta, Xoa cái gì?
(Hương Thủy Hải)
Câu chuyện trên cho thấy tham học không phải là đơn giản; giác ngộ càng không đơn giản. Muốn ngộ phải nhẫn nại, buông bỏ tất cả, kể cả sinh mạng.

1354. Phải biết tiếc phúc.

Sâm Hằng Thái Lang là một vị thôn trưởng rất thích giúp đỡ mọi người. vào tuổi trung niên, mắt ông bị bệnh. Mặc dù đã chữa trị nhiều cách, nhưng cuối cùng cũng bị mù. Bị mù rồi Sâm Hằng cảm thấy mình trở thành vô dụng, không có khả năng giúp đỡ dân làng nữa. Lại sợ làm phiền đến mẹ, vợ và 2 đứa con gái cho nên ông quyết định tự sát để giải thoát. Một hôm ăn cơm trưa xong, ông quyết định tự sát ngay hôm đó. Khi ông vịn tay vào bàn để đứng dậy thì tay chạm vào một hạt cơm vãi trên mặt bàn. Ông thuận tay đưa hạt cơm vào mồm nhai. Ông bỗng nhớ lại khi còn nhỏ mẹ ông dậy trước khi ăn phải thành kính cám ơn rồi mới ăn, phải biết quý trọng từng hạt cơm. Ông tự hỏi:
- Tại sao phải quý trọng từng hạt cơm?
Và ông chợt tỉnh ngộ:
- Một hạt gạo tuy nhỏ, nhưng có thể sinh ra biết bao hạt gạo khác; có thể nuôi sống người. Ta nay chỉ bị mù, lại có ý tự sát để trốn tránh, thật không sánh bằng hạt gạo.
Nghĩ thông rồi, ông bỏ ý định tự sát, bôn ba khắp nơi giúp đỡ mọi người, được dân chúng rất ái mộ.
(Hương Thủy Hải)
Một hạt trong bát cơm tuy nhỏ, nhưng cả bát cơm là do một hạt mà nên. Một hạt đem trồng ngoài ruộng sẽ cho lúa đầy đồng.
Trong tùng lâm, từ cổ đã có bài kệ đề tỉnh các ông tăng phải tôn trọng thọ thực.

Hạt gạo của thí chủ
To bằng núi Tu Di
Nếu không chuyên tu Đạo
Sẽ đội sừng mang da.

1355. Ngày nào cũng đẹp.

Tông Đán là truyền nhân đời thứ 3 của Trà Thánh Lợi Hưu. Ông lập một trà thất và thỉnh lão sư là hòa thượng Thanh Nham đến đặt tên. Đến ngày khai trương Tông Đán vì có việc gấp phải đi bèn viết lại vài chữ dặn đồ đệ chuyển lại cho thầy.
- Con xin lỗi, vì có chuyện gấp phải đi, xin để ngày mai gập
Thanh Nham đến không thấy Tông Đán bèn để lại một phong thư rồi đi. Thư vẻn vẹn có mấy chữ:
- Tỳ khưu lười, chẳng có ngày mai.
Khi Tông Đán trở về đọc thư xong vội chạy tới bái phỏng Thanh Nham tạ tội và viết một câu thơ:
- Niệm niệm ngày qua ngày, Ngày mai là ngày mai.
Kết quả là trà thất được đặt tên là Kim Nhật Am
(Nhất vị thiền:Quyển Phong)
Chúng ta nên biết rằng ngày hôm nay, giờ khắc này vĩnh viễn không trở lại. Chúng ta phải biết quý trọng giờ khắc này. Do đó “Niệm niệm ngày nay qua ngày nay” thì mới có thể thấy “Ngày nào trời cũng đẹp, dù mưa hay nắng, buồn hay vui, buông bỏ tất cả mọi tính toán, so đo.” Cát Xuyên Anh Trị có nói:
- Trời tạnh thích trời tạnh, trời mưa thích trời mưa. Có chuyện vui thì vui, không có chuyện vui cũng vui.
Đó là lời giải thích rất hay cho câu “Ngày nào cũng đẹp”


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 06 Aug 2012, 9:05 PM | Message # 273
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1356. Chánh tà.

Có ông tăng hỏi Đại Châu:
- Làm chánh là sao?
- Tâm đuổi theo vật là tà, vật từ tâm ra là chánh.
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Khi “ngã” bị vật dục bao vây, bị vật cảnh chuyển thì “ngã” bị động. Nếu một người có thể từ bỏ được phân biệt thì chân ngã phát huy công năng, vật thành khách thể, ngã trở thành chủ thể, do đó có thể phát huy Bát Nhã chân quán.

1357. Siêu việt.

Một hôm Quy Sơn hỏi Vân Nham:
- Bồ đề lấy gì làm nền?
- Lấy vô vi làm nền.
Vân Nham hỏi ngược lại Quy Sơn:
- Bồ đề lấy gì làm nền?
- Lấy “không” làm nền, ngươi nghĩ sao?
- Ngồi thì nghe ngồi, nằm thì nghe nằm. Có một người nằm không ngồi. Nói mau ! Nói mau!
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Siêu việt khiến chúng ta trong mọi hoàn cảnh nhận thức rõ ràng không bị sắc tướng làm mê hoặc, không làm nô tài cho vật dục, có năng lực nhận lãnh trách nhiệm.

1358. Lễ như đàn bà.

Một ông tăng hỏi Đạo Ngô:
- Thế nào là chỗ sâu thẳm?
Đạo Ngô bước xuống thiền sàng vái như đàn bà.
- Ngươi từ xa tới, nhưng đáng tiếc ta không có câu trả lời cho ngươi.
(Zen and Zen classic)
Hành động và câu nói của Đạo Ngô là chỗ sâu thẳm.

1359. Pháp đường đổ.

Dược Sơn lúc sắp mất kêu lớn:
- Pháp đường sắp đổ kìa!
Chư tăng vội chạy lại ôm giữ cột nhà.
Dược Sơn giơ hai tay lên trời than:
- Các ngươi chẳng có ai hiểu ý ta!
Nói rồi mất.
(Zen and Zen classic)
Ôm giữ vật đang rơi là điên, sao không đẩy cho nó rơi luôn.

1360. Ý tổ sư.

Một ông tăng hỏi Thạch Sương:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
Thạch Sương nghiến răng. Ông tăng không hiểu. Sau khi Thạch Sương mất, ông tăng hỏi Cửu Phong:
- Thạch Sương nghiến răng là ý gì?
- Nếu là ta thì thà là cắt lưỡi còn hơn làm xấu hổ đất nước.
Ông tăng lại hỏi Vân Cái. Vân Cái nói:
- Ta là kẻ thù của Thạch Sương sao?
(Zen and Zen classic)
Nếu đã chứng ngộ thì nói hay không đều là diễn tả chân lý.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 06 Aug 2012, 9:07 PM | Message # 274
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1361. Giặt quần áo.

Nam Tuyền đang giặt quần áo, một ông tăng hỏi:
- Chẳng lẽ thầy còn chuyện tất yếu này?
Nam Tuyền giơ quần áo lên:
- Cái này biết làm sao?
(Thiền cơ)
Quần áo trỏ sự trói buộc, giặt quần áo là cởi trói.

1362. Thạch Lâu không có tai.

Một ông tăng hỏi Thạch Lâu:
- Con chưa biết bản sinh, thỉnh thầy phương tiện chỉ thị.
- Thạch Lâu không có tai.
- Con tự biết không đúng.
- Chẳng lẽ lão tăng sai sao?
- Thầy sai ở chỗ nào?
- Sai ở chỗ ngươi không đúng.
(Thiền cơ)
Bản sinh chỉ khuôn mặt xưa nay. Thạch Lâu nói không có tai là ám chỉ ông tăng không nên hỏi; hỏi là dư thừa. Ông tăng hiểu điều đó nên nhận là mình không đúng. Câu ‘sai ở chỗ ngươi không đúng’ có nghĩa là đúng và sai đều là dư thừa.

1363. Không trồng tạp chủng.

Một ông tăng hỏi Dược Sơn:
- Chuyện khẩn cấp của sinh mạng là gì?
- Không trồng tạp chủng.
(Thiền cơ)
Chuyện khẩn cấp chỉ khuôn mặt xưa nay, tạp chủng chỉ sự nhiễm trần.

1364. Bố mẹ đều mất.

Có một ông tăng đến tham phỏng Tánh Không; thiền sư dang hai tay ra, ông tăng tiến lên rồi thối lui. Tánh Không hỏi:
- Cha mẹ đều mất mà mặt không biểu lộ chút cảm xúc nào sao?
Ông tăng cười ha hả.
- Tên ngốc giúp hòa thượng lo tang sự!
Ông tăng giở nón đi ra. Thiền sư kêu:
- Trời xanh! Trời xanh!
(Thiền cơ)
Thiền sư dang hai tay ra tỏ rằng tất cả đều minh bạch, tới tham phỏng làm gì?
Ông tăng bước tới rồi lại bước lui lại là biểu thị đã vượt lên phàm thánh. Cuối cùng thiền sư khuyên ông tăng phải nỗ lực tham thiền để đạt tới cảnh giới vô ngại.

1365. Méo mồm.

Một hôm, trong buổi tham thiền Pháp Chân bỗng nhiên làm miệng méo như bị trúng gió rồi hỏi:
- Có ai chữa được mồm ta không?
Đại chúng tranh nhau đưa thuốc, dân chúng được tin cũng liên tục đưa thuốc đến tặng nhưng thiền sư đều không nhận. Bẩy hôm sau, thiền sư tự dùng tay vả vào mồm khiến mồm trở lại như cũ, bảochúng đệ tử:
- Mấy hôm nay mồm bị méo, đến giờ cũng không ai đủ sức chữa cho ta.
(Thiền cơ)
Mồm ám chỉ tự tánh, méo mồm là tự tánh bị duyên trần ô nhiễm. Thuốc của tha nhân làm sao chữa được, chỉ có tự mình.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 06 Aug 2012, 9:08 PM | Message # 275
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1366. Đập vỡ gương.

Trường Sinh hỏi Chí Cần:
- Thế nào là chân thường?
- Giống như gương luôn sáng.
- Còn có cảnh giới nào cao hơn không?
- Có.
Thế nào là cảnh giới cao hơn?
- Đập vỡ gương.
(Thiền cơ)
Chân thường, gương sáng là thánh cảnh, đập vỡ gương là trở về phàm.

1367. Đầu rơi xuống đất.

Một ông tăng hỏi Lục Thông:
- Thế nào là một kiếm?
- Đừng ngăn mũi nhọn.
- Đầu rơi xuống đất rồi thì phải làm sao?
- Ta đã nói rồi, đừng ngăn mũi nhọn thì làm sao rơi đầu?
(Thiền cơ)
Một kiếm chỉ xuy mao kiếm chặt đứt căn trần nhưng không chặt tự tánh. Thiền sư bảo đừng ngăn mũi nhọn là bảo ông tăng tự chặt đứt căn trần. Ông tăng chưa hiểu nên hỏi “đầu rơi xuống đất phải làm sao?”. Ở đây “đầu” chỉ phàm cảnh, rơi xuống đất chỉ thánh cảnh. Câu đáp của thiền sư là đừng trú mãi ở “thánh” cảnh hãy trở về “phàm “ cảnh.

1368. Cảnh giới Tung Sơn.

Một ông tăng hỏi Tung Sơn:
- Cảnh giới Tung Sơn là thế nào? (T)
- Mặt trời mọc từ phương Đông, mặt trăng lặn về phương Tây (P)
- Con không hiểu.
- Đông, Tây cũng không hiểu sao?
(Thiền cơ)

1369. Nhẩy ra khỏi tam giới.

Một ông tăng hỏi Thiên Long:
- Làm sao nhẩy ra phỏi tam giới? (P)
- Ngươi nay ở đâu? (TP)
(Thiền cơ)

1370. Chổi đuôi nai.

Một ông tăng hỏi Pháp Chân:
- Phật là gì?(T)
Thiền sư giơ chổi làm bằng đuôi nai lên hỏi:
- Hiểu không?
- Con không hiểu .
- Chổi đuôi nai!(P)
(Thiền cơ)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 06 Aug 2012, 9:09 PM | Message # 276
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1371. Dụng tâm liền sai.

Một ông tăng hỏi Thủy Lục:
- Con dụng tâm chỗ nào?
- Dụng tâm liền sai.
- Vậy nếu không khởi một niệm thì sao? (T)
- Là một gã vô dụng. (P)
(Thiền cơ)

1372. Giữ mồm ăn cơm.

Một ông tăng hỏi Minh Chân:
- Đường đi lên, ngàn thánh chẳng truyền (T); không biết thầy truyền thế nào “
- Hãy giữ mồm mà ăn cơm. (P)
(Thiền cơ)

1373. Mất một đấu gạo.

Một ông tăng hỏi Huyền Nột:
- Thế nào là xúc mục Bồ đề? (T)
- Hòa thượng mất nửa năm lương. (P)
- Tại sao?
- Chỉ vì tìm cầu một đấu gạo (T).
(Thiền cơ)

1374. Diện bích chín năm.

Một ông tăng hỏi Tùy Chân:
- Đạt Ma diện bích chín năm là ý gì? (T)
- Ngủ không được. (P)
(Thiền cơ)

1375. Ngàn vạn núi.

Có ông tăng hỏi Long Tu:
- Trong ngàn vạn núi, núi nào là Long Tu? (T)
- Ngàn vạn núi. (P)
- Thế nào là người trong núi? (T)
- Đối diện ngàn dặm. (P)
(Thiền cơ)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 06 Aug 2012, 9:11 PM | Message # 277
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1376. Ném một mảnh ngói.

Phổ Nguyện đi ngang vườn rau thấy một ông tăng đang trồng rau (P) liền nhặt một mảnh ngói ném qua (T). Ông tăng ngoảnh đầu nhìn. Thiền sư liền giơ một chân lên (T). Ông tăng không nói một lời. Thiền sư trở về phòng phương trượng, ông tăng đi theo hỏi:
- Thầy ném mảnh ngói có phải là đề tỉnh con không?
- Ta giơ chân lên là ngụ ý gì?
(Thiền cơ)

1377. Tám lõm, chín lồi.

Một ông tăng hỏi Tòng Y:
Thế nào là Thiên Bình? (T)
- Tám lõm, chín lồi. (P)
(Thiền cơ)

1378. Lìa thanh sắc.

Một ông tăng hỏi Thiệu Tu:
- Lìa thanh sắc, thỉnh thiền sư chỉ thị (T).
- Hãy từ trong thanh sắc ra và hỏi lại (P).
(Thiền cơ)

1379. Ăn rau đạo.

Một ông tăng hỏi Quế Sâm:
- Thế nào là thực phẩm chân chính của sa di? (T)
- Ngươi có thể ăn sao? (P)
- Muốn ăn rau đạo, thỉnh thầy phương tiện chỉ thị (T).
- Ngậm chặt mồm lại. (P)
(Thiền cơ)

1380. Đãng tử về quê.

Một ông tăng hỏi Văn Ích:
- Đãng tử về quê thì sao? (T)
- Ngươi có gì cho hắn? (P)
- Không có gì cả (T).
- Sinh hoạt hàng ngày biết làm sao? (P)
(Thiền cơ)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 06 Aug 2012, 9:15 PM | Message # 278
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1381. Người đá trong vò.

Một ông tăng hỏi Tông Huệ:
- Phật là thế nào?
- Rõ rõ, ràng ràng
Vạn duyên đều dứt thì sao?
- Người đá trong vò , bán táo
(Thiền cơ)

1382. Mất gối.

Một ông tăng hỏi Xứ Chân:
- Thế nào là chỗ chuyển thân của thầy?
- Nửa đêm hôm qua mất cái gối!
(Thiền cơ)

1383. Ngồi không.

Thạch Đầu hỏi Dược Sơn đang ngồi thiền:
- Ngươi ở đây làm gì?
- Chẳng làm gì cả.
- Vậy là ngồi không?
- Nếu nói là ngồi không là có làm.
- Ngươi nói không làm là không làm cái gì?
- Ngàn thánh cũng chẳng biết.
(Thiền cơ)
(Xem thêm lời giảng ở công án 1500)

1384. Hoa sen trong lửa.

Một ông tăng hỏi Chân Tịch:
- Thế nào là rồng kêu trong cây khô?
- Hoa sen trong lửa .
- Thế nào là con mắt trong đầu lâu ?
- Trâu bùn vào nước.
(Thiền cơ)
Trâu bùn vào nước: ám chỉ phải siêu phàm vượt thánh.

1385. Đốt đèn.

Một ông tăng hỏi Quảng Pháp:
- Thế nào là trước khi đốt đèn?
- Sau khi đốt đèn.
Thế nào là sau khi đốt đèn?
- Trước khi đốt đèn
- Thế nào là ngay khi đốt đèn?
- Uống trà đi.
(Thiền cơ)
Đèn chỉ tự tánh, đốt đèn chỉ sự giác ngộ.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 07 Aug 2012, 7:16 PM | Message # 279
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1386. Một ngụm nuốt hết.

Một ông tăng hỏi Vân Môn.
- Thế nào là một ngụm nuốt hết?
- Ta ở trong bụng ngươi.
- Sao thầy lại ở trong bụng con?
- Trả lời câu ta vừa hỏi.
- Nói làm sao đây?
- Đi ra!
(Thiền cơ)

1387. Không biết đau.

Một ông tăng hỏi Truyền Sở:
- Thế nào là một câu lúc lâm cơ?
- Ngươi nói thử coi?
- Thỉnh thầy nói.
- Đầu lâu bị xuyên mà chẳng đau.
(Thiền cơ)

1388. Ăn gậy sắt.

Một ông tăng hỏi Nham Đầu:
- Thế nào là chủ nhân của ba giới?
- Ngươi còn biết ăn gậy sắt không?
(Thiền cơ)

1389. Vòng vàng chưa mở.

Một ông tăng hỏi Đầu Tử:
- Một pháp thấm nhuần khắp chúng sanh, thế nào là một pháp?
- Trời mưa rồi!
- Vòng vàng chưa mở thì sao?
- Mở rồi .
(Thiền cơ)

1390. Hôm nay phơi lúa mạch tốt.

Một ông tăng hỏi Viên Trí:
- Vạn dậm không mây chưa chắc đã là bản lai thiên, thế nào là bản lai thiên?
- Hôm nay phơi lúa mạch tốt.
(Thiền cơ)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 07 Aug 2012, 7:18 PM | Message # 280
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1391. Người khô hạc.

Bảo Phúc hỏi một ông tăng đến tham học:
- Ngươi tên gì?
- Con tên Hàm Trạch (đầm đầy nước)
- Bỗng nhiên gập người tên Khô Hạc (cạn hết) thì phải là sao?
- Ai là người Khô Hạc?
- Là ta.
- Thầy đừng lừa dối người.
- Là ngươi lừa dối ta.
(Thiền cơ)

1392. Mãnh liệt.

Hắc Thủy hỏi Hoàng Long:
- Tuyết rơi trên hoa lan thì thế nào?
- Mãnh liệt.
- Không mãnh liệt.
- Mãnh liệt.
- Không mãnh liệt.
Hoàng Long bèn quơ gậy đánh, Hắc Thủy ngay đó đốn ngộ.
(Thiền cơ)

1393. Tuỳ duyên, tùy vận.

Văn Trục nói:
- Lão tăng bình sinh chẳng có kiến giải gì, ngày ngày chỉ vậy mà trú ở đây, tuỳ duyên, tùy vận. Các ngươi vì bản lai không hai dạng.
Một ông tăng hỏi:
- Con và bản lai không là hai sao?
- Ngàn sai, vạn biệt.
Ông tăng mở miệng định nói, thiền sư liền bảo:
- Được rồi! Được rồi! Đừng hỏi nữa, hãy thể nghiệm ngàn sai, vạn biệt.
(Thiền cơ)

1394. Trời thu ấm áp.

La Sơn hỏi một ông tăng đến tham học:
- Ngươi từ đâu đến?
- Tứ Xuyên. Xin hỏi chuyện ngày nay phải làm sao?
Thiền sư vung tay:
- Uống trà đi.
Ông tăng không trả lời được, La Sơn bảo:
- Trời thu ấm áp. Đi ra!
(Thiền cơ)

1395. Hôm nay gió lớn, trăng lạnh.

Một ông tăng hỏi Thủ Sơn:
- Có một người hết tận phóng đãng lúc trước, thầy có tiếp không?
- Người đó là ai?
- Hôm nay gió lớn, trăng lạnh.
- Trong tăng đường có mấy người ngồi hoặc nằm?
Ông tăng không trả lời được, thiền sư bảo ông:
- Thật là lừa chết lão tăng .
(Thiền cơ)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 07 Aug 2012, 7:22 PM | Message # 281
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1396. Trần dép cỏ.

Trần Tôn Túc có ngoại hiệu là Trần Dép Cỏ, một hôm đang đứng ở hành lang, bỗng có một ông tăng chạy tới hỏi:
- Trần Tôn Túc ở phòng nào bên đó?
Trần Tôn Túc tháo dép đập vào đầu ông tăng . Ông tăng vội chạy trốn. Thiền sư gọi:
- Hòa thượng!
Ông tăng quay đầu lại, thiền sư giơ tay chỉ:
- Đi về bên đó!
(Thiền cơ)

1397. Đập bát.

Triệu Châu giơ một cái bát lên bảo đại chúng:
- 30 năm sau nếu còn thấy lão tăng thì hãy cung dưỡng, còn nếu không thấy thì đập bát đi.
Một ông tăng thưa:
- 30 năm sau con dám nói là thấy lão sư.
Triệu Châu bèn đập bát.
(Thiền cơ)

1398. Tháng thứ hai.

Một ông tăng hỏi Tào Sơn:
- Ai là người chìm nổi trong bể sanh tử?
- Tháng thứ hai.
- Còn muốn ra khỏi không?
- Còn muốn ra nhưng không có đường.
- Khi ra khỏi được ai tiếp đãi?
- Người mang cùm sắt.
(Thiền cơ)
Tháng 1 chỉ bản thể giới, tháng 2 chỉ hiện tượng giới. Ở đây tháng 2 chỉ phàm phu. Ra khỏi phàm là vào thánh. Cùm sắt chỉ sự ô nhiễm. Không có đường vì chỉ ỷ lại vào người khác. Nếu thấy rằng mình đang mang cùm sắt (ô nhiễm) thì có thể do một niệm mà tiến vào thắng cảnh.

1399. Trâu đất rống.

Một ông tăng hỏi Vân Môn:
- Thế nào là trâu đất ở Tuyết Lãnh rống?
- Trời đất tối đen.
- Thế nào là ngựa gỗ Vân Môn hí?
- Sông núi chạy.
- Từ chuyện trên thỉnh thầy chỉ thị.
- Sáng nhìn Đông- Nam, chiều xem Tây- Bắc.
- Cứ thế mà lãnh hội thì thế nào?
- Nhà bên Đông đốt đèn, nhà bên tây ngồi trong tối.
(Thiền cơ)
Trâu đất, ngựa gỗ chỉ tự tánh.

1400. Thấy Bát Nhã rồi.

Một ông tăng hỏi Đức Thiều:
- Có người thấy Bát Nhã, bị Bát Nhã buộc , có người không thấy Bát Nhã cũng bị Bát Nhã trói. Nếu đã thấy Bát Nhã sao còn bị Bát Nhã trói?
- Ngươi thấy Bát Nhã gì?
- Không thấy Bát Nhã sao vẫn bị Bát Nhã trói?
- Ngươi không thấy Bát Nhã ở đâu?
(Thiền cơ)

Từ 1368 đến 1400: các công án trên đều có cùng một cơ chế, thiền sinh hỏi phàm , thiền sư đáp thánh; thiền sinh hỏi thánh , thiền sư đáp phàm . tất cả đều nhằm mục đích giúp thiền sinh siêu việt phàm thánh. Nếu thiền sinh đang ở thánh, thiền sư kêu ông trở về phàm để ma luyện. Vì nếu thiền sinh cứ trú ở thánh thì bị thánh trói buộc không tiến lên được.
Thiền môn có 3 cửa mà người học phải vượt qua, sơ lược như sau:

Tại phàm Vào thánh Về phàm Đại tự tại
Sơ quan Trùng quan Lao quan
Hiện tượng giới Bản thể giới Bản thể hiện Bản thể hiện
tượng giới tượng vô ngại giới
1 2 3 4

1- Hiện tượng giới

Hiện tượng giới nằm ở:
- thời gian: quá khứ + hiện tại + tương lai .
- không gian: trước sau, phải trái, trên dưới, Đông, Tây, Nam, Bắc.
- con người: 3 duyên
*ngoại duyên : 6 trần
*nội duyên : 6 căn
*trung duyên : 6 thức

Các yếu tố này thúc đẩy nhau, hỗ tương duyên khởi tạo thành hiện tượng giới. Hiện tượng giới có các tính chất:
- hữu hạn
- sai biệt
- đối lập
- dục vọng thúc đẩy ý chí.
Dục vọng không được thỏa mãn trở thành phiền não, do đó sinh ra trăm kế, ngàn mưu để truy cầu. Dù được rồi sẽ hóa chán ngay. Từ sinh đến tử con người ở hiện tượng giới tự tìm phiền não mà không tự biết. Có phiền não thì hãy còn là phàm phu.

2- Bản thể giới.

Bản thể thể giới đứng ngoải: - thời gian
- không gian
- 3 duyên.
Nếu có thể một niệm siêu thoát liền vào Bản thể giới, kiến tự tánh. Tự tánh ai cũng có đầy đủ. Tự tánh từ xưa đến nay không sinh không diệt, không xanh không vàng, không hình không tướng, không thuộc Hữu Vô, không kể cũ mới, không dài không ngắn, không to không nhỏ, vượt qua mọi hạn lượng, danh ngôn, tung tích, đối đãi. Đương thể tức là, động niệm liền sai. Giống như hư không không có giới hạn, không thể đo lường. Vì “vốn không một vật” nên nó có thể sinh ra vạn vật. Không chỗ nào là không có, có thể lớn, có thể nhỏ, có thể vuông, có thể tròn. Tất cả đều hiện thành. Lại giống như trăng trong nước. Chỗ nào có nước đều được phổ chiếu. Lại giống như giọt thủy ngân khi phân tán ra nhiều giọt, giọt nào cũng tròn. Cho nên tự tánh ai cũng có không hề thiếu chỉ vì bị hiện tượng giới che dấu; cũng như một hạt minh châu trong nước bị gió tạo thành sóng khiến không thấy. Thiền sư phải làm sao cho học tăng thấy? Đối với cái không thể nói thường là các thiền sư dùng phương pháp không nói mà nói. Nếu bất đắc dĩ phải nói thì từ những sinh hoạt thường ngày, mượn những cảm giác cụ thể của sự vật mà hình dung đến tự tánh không thể cảm giác, không thể nghĩ bàn. Nếu học tăng ngay đó tự ngộ tự tánh liền thấy tánh, phá được sơ quan, vào Bản thể giới.

Tự tánh có nhiều tên do ứng duyên mà lập:
- kinh Bồ tát giới gọi là Tâm Địa vì vạn thiện từ đó mà ra.
- kinh Bát Nhã gọi là Bồ Đề vì lấy giác làm thể, còn gọi là Niết Bàn vì đó là chỗ về của chư Thánh.
- kinh Kim Cương gọi là Như Lai vì không từ đâu đến.
- kinh Kim Quang Minh gọi là Như Như vì chân thường bất biến.
- kinh Tịnh Danh gọi là Pháp Thân vì báo, hóa thân nương dựa vào.
- luận Khởi Tín gọi là Chân Như vì bất sanh, bất diệt.
- kinh Niết Bàn gọi là Phật Tánh vì là thể của 3 thân.
- kinh Viên Giác gọi là Tổng Trì vì lưu xuất công đức.
- kinh Thắng Ứng gọi là Như Lai Tạng vì ẩn phục, hàm nhiếp.
- kinh Liễu Nghĩa gọi là Viên Giác vì phá tôi, độc chiếu.
Trong Thiền Tông có lúc gọi là:
- Diệu tâm vì hư linh, độc chiếu
- Vô đề bát vì tùy xứ sinh nhai.
- Xuy Mao Kiếm vì chặt đứt căn trần.
- Mâu ni châu vì giúp đỡ bần cùng.
- Chủ nhân ông . . .

3- Bản thể hiện tượng giới.

Tức là ra thánh về phàm. Hiện tượng giới giống như vỏ trứng, thiền sinh phải tự mình mổ vỡ là phá được Sơ Quan, vào bản thể giới. Nhưng thiền sinh phải trở lại phàm để ma luyện. Nếu cứ trụ ở thánh thì sẽ bị “nước chết sát hại”. Do đó, thiền sư dùng phương pháp đánh, hét khiến thiền sinh ‘Tuyệt hậu tái tô” phát đại cơ, đại dụng “mai già hoàn hồn”. Đó là thiền sinh đã phá được Trùng Quan.

4- Bản thể hiện tượng vô ngại giới.

Phá được Trùng Quan rồi hãy còn phàm thánh, ngộ mê, lý sự, thể dụng, không sắc, vô hữu, tối sáng, tâm cảnh, bồ đề phiền não, như lai chúng sinh . . . Do “đầu gậy trăm trượng bước bước nữa”, không ngừng tham chứng cho đến khi không thấy Phật, không thấy chúng sinh, trong ngoài thông suốt. Vào sắc giới không bị mắt mê hoặc, vào thanh giới không bị tai mê hoặc . . . là thiền sinh đã phá được Lao Quan nhận được tâm ấn.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 07 Aug 2012, 7:24 PM | Message # 282
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1401. Giác ngộ.

Động Sơn hỏi thủ tọa một câu, thủ tọa trả lời nhiều lần nhưng đều không được chấp nhận. sau cùng đến lần thứ 96. Động Sơn bảo:
- Sao trước ngươi không nói thế “
Một ông tăng nọ, được nghe 95 câu trả lời của thủ tọa nhưng câu cuối cùng lại không nghe được. Mỗi lần gập trong nhà tắm ông đều năn nỉ thủ tọa nói cho ông nghe câu nói đó nhưng đều bi từ chối. Ba năm sau, thủ tọa bị ốm nặng. Ông tăng mang dao đến bảo thủ tọa:
- Ba năm qua, tôi năn nỉ ông nói, ông đều từ chối. nếu bây giờ ông vẫn không bảo cho tôi biết, tôi sẽ giết ông.
- Được rồi! Đợi một chút! Nhưng tôi bảo cho ông biết dù tôi có nói thì cũng chả có ích lợi gì cho ông.
Ông tăng lạy thủ tọa đi ra.
(Zen and Zen classic)
Khi ông tăng nhận được lời hứa sẽ được thỏa mãn điều ông muốn thì ông không còn muốn nữa: Ông đã giác ngộ. Giác ngộ là không còn muốn giác ngộ nữa.

1402. Tháp vô phùng.

Một ông tăng hỏi Thủ Sơ:
- Thế nào là tháp vô phùng? (Xem công án )
- Sư tử đá ở ngã tư đường.
(Zen and Zen classic)
Thủ Sơ muốn ông tăng vượt lên phàm, thánh.

1403. Người đánh xe.

Một ông tăng hỏi Thủ Sơ:
- Khi xe ngừng mà bò không ngừng thì sao?
- Sao không dùng người đánh xe?
(Zen and Zen classic)
Người đánh xe chỉ tự tánh.

1404. Chấp lời.

Một ông tăng hỏi Thiệu thiền sư:
- Môi, họng không động làm sao nói?
- Đợi ngươi bừa hết Càn Tử Sơn ta sẽ bảo cho ngươi biết.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Thiền sư phá cái chấp vào lời nói của ông tăng.

1405. Diệt lục căn.

Một ông tăng hỏi Quảng Trừng:
- Làm sao diệt hết lục căn?
- Vụt kiếm vào không, không làm thương vật.
(Thiềng ngoại thuyết thiền)
Dùng kiếm trí tuệ chặt đứt mọi trói buộc.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 07 Aug 2012, 7:25 PM | Message # 283
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1406. Tâm của cổ Phật.

Một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Thế nào là tâm của cổ Phật?
- Ba người đàn bà xếp hàng lạy.
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1407. Đại ý Phật pháp.

Một ông tăng hỏi Phụng thiền sư:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
- Thích Ca là quỷ đầu trâu, tổ sư là qủy mặt ngựa.
- Thế nào là ý Tây sang?
- Tường Đông đánh tường Tây!
(Thiền ngoại thuyết thiền)

1408. Ý tổ sư.

Một ông tăng hỏi Đạo Ân:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
- Năm Phổ Thông thứ 8 gập Lương Quái, cho đến nay vẫn chưa có tuyết.
(Thiền ngoại thuyết thiền)
Từ 1406 đến 1408: Các câu đáp đều ly kỳ không ngoài mục đích là cắt đứt sự suy nghĩ của người hỏi.

1409. Thạch Sương.

Thạch Sương đến thăm Đạo Ngô hỏi:
- Một trăm năm sau, nếu có người hỏi về tự tánh, con phải trả lời sao?
- Đạo Ngô gọi thị giả:
- Sa di!.
- Dạ!
- Đổ thêm nước vào tịnh bình.
Đạo Ngô quay lại hỏi Thạch Sương:
- Vừa rồi ông hỏi gì?
Thạch Sương nhắc lại câu hỏi, Đạo Ngô trở về phương trượng. Thạch Sương giác ngộ ngay đó.
(Zen and Zen classic)
Thành, trụ, hoại, diệt của vạn vật được thấy trong sự đổ thêm nước vào tịnh bình, trong sự nhắc lại câu hỏi, trong sự trở về phòng. Những động tác này người thường làm với sự vô ý thức, còn Đạo Ngô làm với sự tỉnh thức, chẳng trách Thạch Sương giác ngộ.

1410. Đừng tìm trong kinh.

Một ông tăng hỏi Thạch Sương:
- Ý tổ sư từ Tây sang có trong Phật giáo không?
- Có.
- Ý đó là sao?
- Đừng tìm trong kinh.
(Zen and Zen classic)
Câu trả lời thật hay và rõ ràng. Chân lý trong kinh, nhưng đừng đọc kinh để tìm chân lý trong đó.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 07 Aug 2012, 7:26 PM | Message # 284
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1411. Bện dép cỏ.

Động sơn hỏi một ông tăng:
- Ngươi từ đâu tới?
- Từ nơi bện dép cỏ.
- Người tự mình bện hay phải nhờ người?
- Nhờ người.
Hắn có dạy ngươi không?
- Nếu cứ theo lời hắn thì sẽ bện được dép tốt.
(Động Sơn Lục)
Hắn chỉ tự tánh.

1412. Huyền Chi Hựu Huyền.

Một ông tăng hỏi Động Sơn:
- Thế nào là huyền chi hựu huyền?
- Lưỡi người chết.

1413. Cỏ bờ bên kia.

Một ông tăng hỏi Động Sơn:
- Ở bờ bên kia là cỏ gì?
- Cỏ không mọc.
(Động Sơn Lục )
“Cỏ không mọc” cùng với ý “vạn dậm không tấc cỏ” (Xem công án 668).

1414. Chết rồi về đâu?

Một ông tăng hỏi Động Sơn:
- Khi một ông tăng qua đời, ông về đâu?
- Sau khi thiêu, chỉ còn lại một cọng rau dút.
(Động Sơn Lục)
Động Sơn ám chỉ ‘Chủ nhân ông” trở về không.

1415. Phi lão hủ.

Động Sơn đến Kinh Triệu tham bái hòa thượng Hưng Bình. Hưng Bình bảo:
- Đừng lạy lão hủ.
- Lạy phi lão hủ.
- Phi lão hủ không nhận lạy.
- Phi lão hủ cũng không ngăn chận lạy.
(Động Sơn Lục)
Phi lão hủ chỉ tự tánh bất sinh bất diệt, bất tăng bất giảm.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 07 Aug 2012, 7:33 PM | Message # 285
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1416. Tâm của cổ Phật.

Động Sơn hỏi Hưng Bình;
- Thế nào là tâm của cổ Phật?
- Là tâm ngươi, không là gì khác.
- Mặc dầu vậy con còn nghi vấn.
- Nếu là thế,ngươi hãy đi hỏi người gỗ.
- Con có một câu không mượn lời chư thánh.
- Sao ngươi không nói thử coi!
- Không phải là việc của con.
(Động Sơn Lục)
Khi Hưng Bình nói là tâm ngươi, Động Sơn mới đầu nói là con còn nghi vấn, sau lại nói ‘không phải là việc của con’ là phủ định ngã mà trở thành tâm của cổ Phật.

1417. Bó củi nặng bao nhiêu?

Có một lần Tuyết Phong mang một bó củi ném xuống trước mặt Động Sơn. Động Sơn hỏi:
- Bó củi nặng bao nhiêu?
- Người cả thiên hạ cũng không giở lên được.
- Vậy sao nó lại ở đây?
Tuyết Phong im lặng không nói.
(Động Sơn Lục)

1418. Cuốc chết giun.

Một hôm Vân Cư đang làm ruộng vô ý cuốc chết một con giun. Động Sơn bảo:
- Ngươi phải cẩn thận.
- Con giun còn chưa chết.
- Việc nhị tổ về Nghiệp Thành ngươi nghĩ thế nào?
Vân Cư không trả lời.
(Động Sơn Lục)
‘Con giun còn chưa chết” chỉ túc nghiệp của con giun. Theo truyền thuyết Huệ Khả trước khi về Nghiệp Thành (tỉnh Hà Nam ngày nay) có nói là về để trả nợ. Ông về đó bị quan lại bắt bỏ ngục và sát hại. chuyện này ám chỉ bị hại là do trả quả tội nghiệp kiếp trước.

1419. Ung Chính

Ung Chính được nhiều người công nhận là một vị hoàng đế đã khai ngộ. Ung Chính lên ngôi rồi đọc cuốn ngữ lục của Ngọc Lâm, vị thiền sư đã được tổ phụ ông là Thuận Trị sắc phong là quốc sư, thấy rằng Ngọc Lâm quả đã triệt ngộ. Ông bèn hạ chiếu vời Triệt hành giả là truyền nhân của Ngọc Lâm vào cung. Triệt hành giả (về sau là Thiên Tuệ Triệt Tổ) lúc đó đang ở Cao Mân Tự tham thiền. Lúc đó ông còn chưa khai ngộ, bị quan sai tìm đến, đưa về Bắc Kinh.
Ung Chính gập mặt Triệt hành giả bèn hỏi:
- Mặt mũi xưa nay khi cha mẹ chưa sinh ra như thế nào?
Triệt hành giả trì nghi (vì tâm sợ hãi trước mặt hoàng đế) giơ một nắm đấm lên. Ung Chính không đồng ý, nhưng thấy Triệt hành giả tham thiền lâu năm muốn thành toàn cho ông nên bảo:
- Ngươi hỏi lại trẫm đi!
- Xin hỏi Hoàng thượng thế nào là mặt mũi xưa nay lúc cha mẹ chưa sinh ra?
Ung Chính giơ nắm đấm lên. Triệt hành giả hốt nhiên đại ngộ.
(Báo Mỹ Phật Tuệ Tấn số 86)

Một người đã thấy tánh thì không bị lợi hại uy hiếp, ảnh hưởng đến kiến địa của mình mà phải do dự. Ung Chính chỉ cho ông “chính là cái đó”. Triệt hành giả tham thiền nhiều năm, hoặc giả cho rằng chỉ tiểu dân mới là “cái đó” đột nhiên phát hiện Hoàng đế “cũng là cái đó” do vậy đại ngộ. Vậy giơ nắm đấm lên là chỉ kiến tánh ư? Hoàn toàn không phải vậy. Lịch sử không ghi chép Ung Chính giác ngộ như thế nào? Nhưng ông quả là một vị đại tông sư. Khi ông tthấy Triệt hành giả đối tự tánh hãy còn do dự chưa quyết định tin hay không tin ở sự giơ nắm đấm lên. Ung Chính giúp ông theo nước đẩy thuyền. Giơ nắm đấm lên, giống như sấm nổ bên tai khiến nghi tình của Triệt hành giả bị đánh tan., thấy được tự tánh. Hành giả hàng ngày tu tâm phải làm sao không bị ngoại cảnh ảnh hưởng. Nói thì dễ, nhưng làm thì sao đây? Chúng ta phải kiên nhẫn dùng trí tuệ và từ bi hỷ xả đối diện nghịch cảnh mà đào luyện tâm.
(Chu Hữu Đường)

1420. Hai con quạ.

Một lần Động Sơn đang rửa bát thấy 2 con quạ đang tranh nhau ăn một con ếch. Một ông tăng cũng trông thấy hỏi:
- Tại sao lại đến tình trạng này?
- Chỉ lợi cho xà lê.
(Động Sơn lục)
Câu đáp của Động Sơn có nghĩa là ông tăng phải tự phản tỉnh.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 07 Aug 2012, 7:35 PM | Message # 286
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1421. Người làm mặt nạ.

Một hôm, Xá Lợi Phất gập một người bạn cũ trên đường. Sau khi chào hỏi xong, rất kinh ngạc bảo:
- Xin lỗi tôi nói thật, khí sắc ông sao xấu thế! Sắc mặt hung dữ khó coi quá! Ông hãy bảo trọng!
Người bạn này sau khi nghe lời khuyên của Xá Lợi Phất liền suy nghĩ tại sao tướng mạo mình lại biến thành hung ác? Suy đi tính lại cuối cùng đã hiều: thì ra hàng ngày mình chế tạo các mặt nạ quỷ Dạ Xoa, La Sát, mặt xanh nanh vàng, không ngừng nghĩ đến những khuôn mặt khó coi không ngờ tướng mạo mình biến thành Dạ Xoa, La Sát. Thật đúng là tướng do tâm sanh, đáng sợ thật. Từ nay ta không làm mặt nạ Dạ Xoa, La Sát nữa mà sẽ điêu khắc các tượng Phật, Bồ Tát, ông quán tưởng Phật, Bồ Tát từ bi, thân thiết biết bao. Càng điêu khắc càng hoan hỉ, tướng mạo ông dần dần thanh thản.
Một hôm Xá Lợi Phất gập lại ông trên đường, không ngăn được hỏi:
- A! Tướng mạo ông làm sao lại biến thành từ bi, thanh thoát như vậy?
Bạn ông mỉm cười:
- Hiện nay, hàng ngày tôi điêu khắc tượng chư Phật và Bồ Tát đó!
(Báo Phổ Môn số 238)
Do đó, ta thấy tâm như một người nghệ sĩ có thể sáng tạo mọi vật. Tướng mạo chúng ta là do tâm chúng ta vì mọi người có thể chính mình là người sáng tạo. Khi tâm ta hoan hỉ từ bi tướng mạo ta sẽ thanh thản, khi chúng ta giận dữ tướng mạo sẽ hung ác. Vậy chúng ta nên tịnh hoá tâm linh để tâm trở thành thuần tịnh, thiện lương.
(Ma Già)

1422. Bài kệ của Bố Đại hòa thượng.

我有 一 布 袋
Ngã hữu nhất bố đại
虛空 無 障 礙
Hư không vô chướng ngại
展開 遍 十 方
Triển khai biến thập phương
如實 觀 自 在
Như thật quán tự tại

Ta có một túi vải
Hư không chẳng quái ngại
Mở ra khắp mười phương
Như thật quán tự tại.
(Báo Mỹ Phật tuệ tấn số 44)
Túi vải chỉ tâm đã khai ngộ, đối ngoại mười phương không chướng ngại, đối nội tất cả đều tự tại.
Mười phương thế giới của chúng sinh đều ở trong tâm ta, tâm ta và chúng sinh đồng tại, không đối lập.
(Thánh Nghiêm)

1423. Đại ý Phật pháp.

Có một lần, một ông tăng hỏi Bố Đại:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Bố Đại không nói một lời, bỏ túi vải xuống, khoanh tay đứng.
- Chỉ là thế thôi hay còn đạo lý cao thâm nào nữa không?
Bố Đại vẫn không nói một lời, lại khoác túi vải lên lưng mà đi.
(Cao tăng truyện)
Bỏ túi vải xuống là chỉ khám phá thế tình bỏ xuống vạn duyên (có thể xuất thế)
Khoanh tay mà đứng: lấy con mắt lãnh đạm mà nhìn thế gian, giải thoát tự tại.
Lại khoác túi vải lên lưng: có thể nhấc lên (có thể nhập thế).
Không nói một lời: ngôn ngữ không thể diễn tả được chân lý.
Hoạt cảnh trên biểu thị không chấp tướng mới gánh vác được gia nghiệp của Như Lai, ngay đó đảm trách bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, bát nhã, thiền định (lục độ). Tự độ rồi độ tha. Không một chuyện gì là không đảm đương, cũng không chấp một tướng nào. Phàm phu có thể nhấc lên được (chấp tướng) nhưng không bỏ xuống được. Tiểu thừa bỏ xuống được (xuất thế) nhưng không nhấc lên được. Đại thừa bồ tát bỏ xuống được (xuất thế) cũng nhấc lên được (nhập thế) nhưng không chấp tướng. Bỏ xuống là không (chân đế) nhấc lên là Hữu (tục đế). Không hữu viên dung, chân tục bất nhị đó là Trung đạo đệ nhất nghĩa đế, không lời nào có thể diễn tả được cho nên Bố Đại không nói.
Câu đại ý Phật pháp:
Mọi điều ác không làm: là bỏ xuống.
Mọi điều thiện đều làm: là nhấc lên.
Ý tự thanh tịnh: là không chấp tướng.
Đó là lời dạy của chư Phật.
(Hùng Uyển )

1424. Trên đường gập mãnh hổ.

Một ông tăng hỏi Thiệu Hóa:
- Trên đường gập mãnh hổ, phải làm sao?
- Ngàn vạn người chẳng gập sao lại nhè nhà ngươi mà gập?
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của ông tăng có nghĩa là hành giả khi gập duyên ứng duyên thì phải làm thế nào?
Ngàn vạn người là chỉ những người có tu, có chứng, tâm đã thanh tịnh thì gập hay không gập mãnh hổ cũng không thành vấn đề. Vì tâm ngươi còn ô nhiễm, còn phân biệt nên mới bị phiền não.
Mãnh hổ ở đây chỉ nghịch cảnh.
Tâm ông tăng chưa thanh tịnh, còn phân biệt nên mới thấy hổ là mãnh thú và thấy sợ hãi bị ăn thịt. Nếu tâm ông tăng thanh tịnh thì ông không thấy hổ là mãnh hổ, nếu hổ là chủ nợ của một kiếp quá khứ thì dù mất sinh mạng cũng phải trả; còn không thì chẳng hề hấn gì?
Thí dụ Hỏa Bảo Long rất hung dữ, Đức Phật lấy lòng từ bi nhập từ bi tam muội đã chiết phục được nó.

1425. Đến tăng đường.

Động Sơn thượng đường bảo đại chúng:
- Có một người ở trong đám ngàn vạn người, không xoay lưng hoặc đối diện với một người nào, các ngươi nói mặt mũi hắn thế nào?
Vân Cư bước ra thưa:
- Hiện giờ con muốn đến tăng đường.
(Động Sơn lục)
Câu của Động Sơn có nghĩa là phải siêu việt trước, sau.
Vân Cư nói là muốn đến tăng đường nhưng thực ra là không đến tăng đường.
Hai thầy trò đồng ý: tự tánh không lệ thuộc vào không gian.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 07 Aug 2012, 7:36 PM | Message # 287
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1426. Hỏi, đáp không đúng cách.

Một ông tăng hỏi Động Sơn:
- Thế nào là hỏi, đáp đúng cách?
- Không từ miệng ra.
- Nếu có người hỏi, thầy có đáp không?
- Cho tới giờ chưa có người hỏi ta .
(Động Sơn lục)
Câu của Động Sơn có nghĩa là dùng không lời mà hỏi.

1427. Thuyết pháp.

Một ông tăng hỏi Động Sơn:
- Từ khi thầy xuất gia, thuyết pháp có bao người tin phục.
- Không một người tin phục.
- Tại sao không ai tin phục thầy?
- Vì mọi người đều có kiến thức của bậc vương giả.
(Động Sơn lục)
Thuyết pháp giống như trị bệnh. Trên thế gian này không có một thứ tiên dược nào có thể trị bách bệnh, có khi bệnh tự lành.

1428. Vì con mắc bệnh.

Một hôm khi chư tăng đều ra ngoài phổ thỉnh (lao tác), Động Sơn đi một vòng kiểm soát thấy một ông tăng còn ở tăng đường bèn hỏi:
- Sao ngươi không đi phổ thỉnh?
- Con mắc bệnh.
- Khi ngươi mạnh, có đi không?
(Động Sơn lục)
Phổ thỉnh không hạn chế ở việc làm ruộng. Ý của Động Sơn là không phải khi mạnh khỏe mới tu, vì người tu phải vượt lên các cảnh giới sinh, lão, bệnh, tử.

1429. Tự tại.

Một ông tăng hỏi Tuệ Tông:
- Phía trước là vực thẳm vạn trượng, phía sau là hổ báo, sài lang, chính lúc đó phải làm sao?
- Tự tại!
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của ông tăng có ý là một người đã tu tập không, vô tướng, vô nguyện tam muội được chân chính giải thoát tri kiến là đã khai ngộ. Lúc đó linh tri, linh giác của tâm hành giả chiêu cảm nhiều nghiệp duyên tới khiến thân không tự chủ được còn tâm thì hoang loạn bất định. Trong khốn cảnh đó làm sao mở con đường máu để ra?
Tuệ Tông bảo ông trong quá trình tu tập khi chủng chủng nghiệp duyên tới, hành giả đối cảnh loạn tưởng là do tập khí còn chưa dứt tận. Hành giả phải lấy tâm không mà đối diện với cảnh. Cảnh thuận không chạy theo nắm giữ, cảnh nghịch không lẩn trốn. Tâm không khởi một niệm thì sẽ an nhiên tự tại. Điều kiện tiên quyết để tự tại là buông bỏ mọi chấp trước (Xem các công án 1, 461).

1430. Phàm trần tục niệm.

Viện chủ đi thăm Thạch Thất trở về. Vân Nham hỏi:
- Ngươi đã đến Thạch Thất sao lại trở về tay không?
Viện chủ không trả lời được. Động Sơn đáp thay:
- Vì trong đó đã có người ở rồi.
- Vậy ngươi còn đến Thạch Thất làm gì?
- Không thể vì chặt đứt phàm trần tục niệm mà không đi.
(Động Sơn lục)
Chữ Thạch Thất ở đây là một song quan ngữ (có 2 nghĩa) Một là chỉ thiền sư Thạch Thất, một là chỉ động đá. Ở Du Huyện, Đàm Châu (tỉnh Hồ Nam ngày nay) có vô số thạch động. Những người sống trong các thạch động đều là các vị tu hành lánh xa trần thế, sống tự do. Ý của Động Sơn là chấp vào xa lánh trần thế cũng là mất tự do rồi.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 07 Aug 2012, 7:41 PM | Message # 288
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1431. Tất cả đều do tâm.

1- Đại sư Cưu Ma La Thập lúc lên bẩy, đến chùa chơi, thấy 1 quả chuông lớn đặt trên đất, bèn nhấc lên. Khi đặt chuông xuống thầm nghĩ “Ta mới có 7 tuổi, làm sao lại có sức mạnh như thế này? Lại thử nhấc chuông lên thì không sao nhấc lên được nữa.

2- Cổ thư có chép Lý Quảng đời Hán khi đi đánh trận thấy trong đám bụi rậm bên đường có một con hổ bèn trương cung bắn. Mũi tên liền xuyên qua con hổ. Ông xuống ngựa xem thì ra không phải là con hổ mà là một tảng đá. Ông tự nhủ:”Ta mạnh như thế sao?” Bèn giơ cung bắn một phát nữa, nhưng tên không cắm vào đá được, nói gì đến xuyên qua!
(Tĩnh Không thuyết cố sự)
Hai truyện trên chứng minh rằng người ta khi không có vọng niệm thì bản năng có năng lực vô hạn định. “Nhất thiết duy tâm tạo” là chỉ đạo lý này.

1432. Đại Trí.

Đại Trí từ nhỏ đã rất hứng thú với các nghi thức Phật giáo. Một hôm thưa với bố mẹ:
- Con muốn xuất gia, độ cha mẹ tới bờ bên kia.
Cha ông vui vẻ:
- Con định tu chùa nào?
- Chùa Đại Từ.
Lúc đó ông mới bẩy tuổi, tục danh là Vạn Thập. Cha ông dẫn ông đến gập thiền sư Nghĩa Doãn. Nghĩa Doãn nhận thấy đứa nhỏ này là một bậc tài trí bèn nói:
- Hoanh nghinh, hoan nghinh!
Và lấy một cái bánh bao trên bàn đưa cho, tự mình cũng lấy một cái vừa ăn, vừa hỏi:
- Ngươi tên chi?
- Con tên Vạn Thập.
Trong tiếng Nhật vạn thập đồng âm bới bánh bao. Do đấy Nghĩa Doãn cười bảo:
- Bánh bao ăn bánh bao là sao?
- Giống như rắn lớn nuốt rắn nhỏ.
- Ngươi rất thông minh, nếu xuất gia ta sẽ đặt tên là Tiểu Trí.
Vạn Thập không trả lời chỉ lắc đầu. Nghĩa Doãn hỏi:
- Sao ngươi không nói:
- Tiểu Trí làm trở ngại Bồ Đề, xin thầy ban danh Đại Trí.
Nghĩa Doãn rất khâm phục Vạn Thập còn nhỏ mà ứng đối được như vậy bèn xuống tóc cho Vạn Thập, lưu giữ bên mình để dạy dỗ. Năm năm sau Nghĩa Doãn viên tịch, Đại Trí quyết định vân du các nơi để tham học. Bẩy năm sau ông vượt biển tới Trung Hoa, thăm các danh lam thắng cảnh và tìm học các vị danh tăng. Tài trí ông khiến mọi người ca ngợi. Đại Trí ở Trung Quốc không tìm được điều ông mong muốn; ông có viết một bài kệ tặng các ông tăng Nhật Bản tới Trung Quốc du học:

冷暖 分 明 只 自 知
Lãnh noãn phân minh chỉ tự tri
男兒 豈 可 欺 人 哉
Nam nhi khởi khả khi nhân tai
以日 本 眞 金 之 貴
Dĩ nhật bản chân kim chi quý
博易 大 唐 鍮 子 歸
Bác dịch đại đường thâu tử quy

Nóng lạnh mình tự biết
Nam nhi há lừa ai
Đem vàng thật đất nước
Đổi về thau của người.

Ý tưởng là cái mà mình định tìm kiếm kỳ thực là ở trong tâm mình.
Ông trở về nước, đến tham Doanh Sơn, Doanh Sơn hỏi:
- Khi đứa con trở về bên cha thì sao?
- Gương cổ chiếu gương cổ, không cần ánh sáng nào khác.
Đại Trí tu học với Doanh Sơn, sau cùng được khai ngộ.
(Thiền Tông dật sự)
Đối thoại của hai thầy trò có nghĩa là khi thầy và trò tương chiếu thì không phải là thầy chiếu trò hay trò chiếu thầy mà là ánh sáng giác ngộ của thầy trò hợp thành một thể phát sáng. Phật giáo do đó mà có truyền thừa.

1433. Người không bệnh.

Động Sơn bị bệnh, một ông tăng hỏi:
- Còn có người không bị bệnh không?
- Có.
- Người không bị bệnh ấy có đến thăm sư phụ không?
- Lão tăng có phận thăm hắn.
- Không biết sư phụ thăm hắn làm sao?
- Khi thăm không thấy có bệnh.
Động Sơn hỏi ngược lại:
- Khi ngươi mất rồi gập ta ở đâu?
Ông tăng không đáp được, Động Sơn đọc cho bài kệ:

學者 恒 沙 無 一 悟
Học giả hằng sa vô nhất ngộ
過在 尋 他 舌 頭 路
Quá tại tầm tha thiệt đầu lộ
欲得 忘 形 泯 蹤 跡
Dục đắc vong hình mẫn tung tích
努力 殷 懃 空 裏 步
Nỗ lực ân cần không lý bộ

Nhiều trò không một ngộ
Theo ngoài chẳng tìm trong
Muốn vong hình sạch vết
Thành khẩn bước trong không.
(Động Sơn lục)
Người không bệnh chỉ tự tánh (xem công án 649)
Ý nói sắc thân có bệnh có thể thấy, biết. Pháp thân không bệnh không thể thấy, biết.
(Tinh Vân)

1434. Ta có một câu nói.

Dược Sơn thượng đường bảo đại chúng:
- Ta có một câu chưa nói cho người!
Đạo Ngô thưa:
- Thầy đã tiết lộ rồi.
Về sau có ông tăng hỏi Dược Sơn:
- Làm sao nói “một câu”?
Dược Sơn đáp:
- Không dùng lời.
Đạo Ngô nói:
- Sớm đã nói rồi.
(Thiền Tông đích lịch sử dữ văn hóa)
“Một câu” của Dược Sơn chỉ cái biết “không biết” hoặc “không thể biết” là cứu cánh thật tướng, không phân biệt, không cách nào hình dung được. Không thể nói nó là cái này hoặc cái kia; là thiện hoặc ác; là thị hoặc phi. Nói ra là phủ định nó. Khi Dược Sơn mở mồm nói ra, bất luận là khẳng định hoặc phủ định “một câu” của ông đã không tồn tại rồi. Đạo Ngô nhận xét sư phụ đã mâu thuẫn rồi, nhưng nhân loại không thể tránh được mâu thuẫn này.

1435. Thể lộ chân thường.

Đại Đăng (một thiền sư Nhật Bản) một hôm ngồi thiền một mình ở tăng đường, bỗng nghe tiếng người ở bên kia vách đọc câu nói của thiền sư Bách Trượng:
- Linh quang độc chiếu, hồi thoát căn trần, thể lộ chân thường, không chấp văn tự, tâm tánh bất thành, bản thân thành, lìa vọng duyên tức như, như Phật vậy. Ông hoát nhiên tỉnh ngộ bèn hướng sư phụ là Cao Phong trình kiến giải và được sư phụ chấp nhận.
(Hiện đại thiền nhập môn)
“Thể” trong câu “thể lộ chân thường” chỉ thế giới khách quan tự nhiên toàn thể. Khi tự mình biến thành “không” thì “thể” biến thành chính mình.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 07 Aug 2012, 7:42 PM | Message # 289
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1436. Đã từng gập qua.

Động Sơn đến tham Nam Nguyên, vào pháp đường Nam Nguyên bảo:
- Đã từng gập qua.
Động Sơn bỏ đi, hôm sau lại tới, hỏi:
- Hôm qua mong ơn hòa thượng từ bi chỉ thị, nhưng không biết hòa thượng và con gập nhau ở đâu?
- Tâm tâm không gián đoạn, đều chẩy vào bể tánh.
- Con cơ hồ lỡ cơ hội tốt này.
(Động Sơn lục)
Câu của Nam nguyên có nghĩa là tâm ngươi và chân tâm không khác.

1437. Không bỏ một ai.

Động Sơn đến từ biệt Nam Nguyên, Nam Nguyên nói:
- Học nhiều Phật pháp, quảng thí ân trạch.
- Con không hỏi học nhiều Phật pháp, chỉ hỏi thế nào là quảng thí ân trạch?
- Không bỏ một ai.
(Động Sơn lục)
Ý của Nam Nguyên là khi có người học đặt câu hỏi phải hết sức trả lời.

1438. Theo tánh chìm nổi.

Một ông tăng hỏi Phong Huyệt Diên Chiểu:
- Khi theo tánh chìm nổi thì thế nào?
- Dẫn trâu vào chuồng!
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của ông tăng có nghĩa là: Khi khai ngộ vì tập khí hãy còn; nếu tâm tùy duyên ứng duyên, theo cảnh mà chìm nổi thì phải làm sao?
Diên Chiểu bảo phải dẫn trâu vào chuồng. Trâu chỉ Thể của tự tánh. Trâu không chịu vào chuồng, muốn ở ngoài rong chơi là còn dã tánh (tập khí, vọng tưởng) phải điều phục nó. Bằng cách nào? Trước dùng giác để nhận biết tập khí, vọng tưởng, sau dùng quán để loại trừ chúng. Tập khí và vọng tưởng đã trừ rồi thì trâu sẽ ngoan ngoãn vào chuồng.

1439. Ý Tây sang.

Vân Cư hỏi Động Sơn:
- Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
- Sau này, xà lê có mái tranh che đầu, bỗng có người hỏi như vậy, thì trả lời sao?
- Con thực sai rồi!
(Động Sơn lục)
Ý của Động Sơn là nếu sau này ngươi không là viện chủ một tự viện lớn, chỉ là một am chủ ở một làng nhỏ. Ngươi không hỏi người mà bị người hỏi, ngươi có nghĩ đến chuyện này không? Bồ Đề Đạt Ma từ Tây phương xa xôi ngàn dặm đến Trung Thổ chỉ để thuyết giảng chân lý cho người, nhưng cái chân lý tuyệt đối này không thể dùng lời mà diễn tả ra, nên ta nói không được.

1440. Trong cảnh khổ, không khổ.

Đời Đường có một vị thiền sư sống một mình trên núi. Vì không có dao kéo để hớt tóc nên đầu tóc bù xù, không có nhiều nước để tắm rửa, giặt giũ nên người ngợm cáu ghét, quần áo dơ bẩn. Có người gập mặt hỏi:
- Thiền sư, thầy việc gì phải tự làm khổ mình vậy?
- Ngươi thấy ta đầu tóc rối bù, nhưng phiền não ta đã đoạn tuyệt. Ngươi thấy ta bẩn thỉu, nhưng thân tâm ta đã thanh tịnh rồi. Ngươi thấy ta quần áo ty tiện, nhưng ta đã sớm khoác pháp y vô thượng để trang nghiêm sinh mạng rồi.
(Thanh tịnh lưu ly)
Trong sinh hoạt tuy thiếu thốn vật chất nhưng người ngộ thiền không thấy khổ não. Ở nơi khổ không thấy khổ; ở nơi vui không thấy vui, vì người ngộ đạo đã thấy được tính chất hư vọng của vui, khổ. Do vậy, dù ở đâu, lúc nào cũng tiêu dao, tự tại.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 07 Aug 2012, 7:44 PM | Message # 290
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1441. Thủy táng.

Đời Tống, thiền sư Tánh Không rất hâm mộ cách thủy táng của Thuyền Tử. Ông có làm một đoản khúc để ca ngợi:

船子 當 年 返 故 鄕
Thuyền Tử đương niên phản cố hương
沒踪 跡 處 好 商 量
Một tung tích xứ hảo thương lượng
真風 遍 寄 知 音 者
Chân phong biến ký tri âm giả
鐵笛 橫 吹 作 教 坊
Thiết địch hoành xuy tác giáo phường

Theo làn gió gởi bạn bốn phương
Vi vu tiếng sáo để làm gương
Chẳng còn vết tích nào để lại
Thuyền Tử năm đó về cố hương.

Khi muốn nhập diệt ông bước lên một cái thuyền thúng có đục lỗ ở đáy; ngồi trên thuyền thổi sáo chờ nước tràn vào nhận chìm cả người và thuyền. ông có để lại bài kệ:

坐脫 立 亡
Tọa thoát lập vong
不若 水 葬
Bất nhược thủy táng
一省 柴 火
Nhất tỉnh sài hỏa
二省 開 壙
Nhị tỉnh khai khoáng
撤手 便 行
Triệt thủ tiện hành
不妨 快 暢
Bất phương khoái sướng
誰是 知 音
Thùy thị tri âm
船子 和 尙
Thuyền Tử hòa thượng

Tọa thoát lập vong
Gì bằng thủy táng
Củi lửa không dùng
Bớt được khai khoáng (đào huyệt)
Đi chẳng bận tâm
Không ngại khoái sướng
Ai kẻ tri âm?
Thuyền Tử hòa thượng!
(Thanh tịnh lưu ly)

1442. Bài kệ của Liên Trì đại sư.

Một hôm, một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Thời mạt kiếp cái đó còn không?
- Hoại.
- Cái đó bị hoại vậy chúng ta cũng theo nó sao?
- Theo nó đi.
Theo Phật giáo, thế giới của chúng ta cũng phải tuân theo định luật thành, trụ, hoại, không. Tới thời mạt kiếp, thế giới hoại còn tự tánh thì sao? Ông tăng thắc mắc, Triệu Châu trả lời rồi cũng không chắc là mình đúng hay không, trong lòng bất an nên đi tứ xứ để tham cứu vì vậy mới có câu “Nhất cú tùy tha khứ, thiên sơn tẩu nạp tăng” (chỉ vì một câu theo nó đi, mà nạp tăng phải đi tham phỏng khắp nơi). Bích Nham Lục lại gán cho Đại Từ (xem công án (162).
Đến triều Minh, Liên Trì đại sư đọc công án này viết bài thi như sau:

趙州 八 十 猶 行 腳
Triệu Châu bát thập do hành cước
祇爲 心 頭 未 消 然
Chi vi tâm đầu vị tiêu nhiên
及至 歸 來 無 一 事
Cập chí quy lai vô nhất sự
始知 空 費 草 鞋 錢
Thủy tri không phí thảo hài tiền

Triệu Châu tám chục còn vân du
Chỉ vì một niệm vẫn chưa rõ
Đến khi trở lại không được gì
Mới biết phí tiền mua dép cỏ.
(Thanh tịnh lưu ly)
Bài thơ diễn tả tình cảnh lúc đó Triệu Châu đã 80 tuổi, trong lòng còn một vấn đề chưa rõ; không quản ngại đường xá diệu vợi, cố tìm cho được đáp án. Trải nhiều năm, trở về không tìm được điều mình muốn tìm, mới biết bôn ba tìm kiếm bên ngoài chỉ là vô ích. Ý của bài thi này là gì? Đó là nói về Đạo. Đạo không ở bên ngoài mà tại tâm chúng ta. Nếu chúng ta, tâm trí mê man cũng như Triệu Châu tứ xứ tìm cầu chỉ là phí thời gian. Trong thiền học phải trải qua 3 giai đoạn: khám phá, phóng hạ, tự tại.

1443. Bài kệ của Đàm Châu Long Sơn.

三間 茅 屋 從 來 往
Tam gian mao ốc tòng lai vãng
一道 神 光 萬 境 閑
Nhất đạo thần quang vạn cảnh nhàn
莫作 是 非 來 辨 我
Mạc tác thị phi lai biện ngã
浮世 穿 鑿 不 相 關
Phù sinh xuyên tạc bất tương quan

Nhà tranh lui tới có ba gian
Một đạo thần quang vạn cảnh nhàn
Chớ đem thị phi làm rộn mỗ
Phù sinh xuyên tạc chẳng tương quan.
(Thanh tịnh lưu ly)
Bài kệ mô tả người ngộ đạo siêu nhiên vật ngoại. Tuy rằng sống trong căn nhà tranh nhỏ bé, ăn mặc thô sơ nhưng nếu biết dùng trí tuệ quán chiếu công danh lợi lộc, thiện ác thị phi: tất cả đều là giả tạm, hư vọng thì tâm được an định. Lúc đó nhà tranh biến thành lâu đài, vật thực tầm thường trở thành cao lương, mỹ vị, vì tâm đã khế hợp với đạo. Những chuyện tranh danh đoạt lợi chẳng còn ảnh hưởng gì đối với người tu nữa. Con người sống trong trần thế có 2 thái độ: một là túng dục, chỉ lo hưởng thụ, hai là cấm dục coi dục vọng như rắn độc. Cả 2 thái độ cực đoan này người tu đều không theo mà theo con đường trung đạo là tiết dục.

1444. Bài kệ của Bàng bà.

Sau khi chôn cất mọi người trong gia đình (xem công án 279), Bàng phu nhân có lưu lại một bài kệ. Hành trạng của bà sau này ra sao thì không ai biết.

坐臥 立 化 未 爲 奇
Tọa ngọa lập hóa vị vi kỳ
不及 龐 婆 撤 手 歸
Bất cập Bàng bà triệt thủ quy
雙手 撥 開 無 縫 石
Song thủ bát khai vô phùng thạch
不留 踪 跡 與 人 知
Bất lưu tung tích dữ nhân tri

Ngồi, đứng, nằm, đi chẳng mấy kỳ!
Đâu bằng bà Uẩn ruỗi tay đi
Hai tay dang rộng không chạm đá
Tung tích tuyệt không để lại gì.
(Thanh tịnh lưu ly)

1445. Con không có mồm.

Một ông tăng hỏi Lỗ Tổ:
- Làm sao nói mà không dùng lời?
- Mồm ngươi ở đâu?
- Con không có mồm.
- Vậy lấy gì ăn cơm?
Ông tăng không trả lời được, Động Sơn trả lời thay:
- Hắn no rồi, còn ăn cơm cái gì?
(Động Sơn lục)
Ông tăng hỏi ý Lão Tử khi nói “bất ngôn chi giáo”. Lỗ Tổ hỏi ngược lại “mồm ngươi ở đâu?” là hỏi nói hay không nói. Câu của Động Sơn có nghĩa là hắn đã thông suốt Phật pháp rồi, không còn nghi vấn gì nữa. (xem thêm công án 633)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 08 Aug 2012, 5:42 PM | Message # 291
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1446. Đi.

Một ông tăng hỏi Vân Môn:
- Thế nào là đạo?
- Đi.
(Nhất vị thiền: Quyển Nguyệt)
Ý của Vân Môn là ngươi cứ đi làm mọi việc cho tốt, nhưng đừng chấp vào phương pháp và kết quả.
(John C.H. Wu)

1447. Chuyện chưa rõ.

Một ông tăng hỏi Dược Sơn:
- Con có chuyện chưa rõ, thỉnh thầy chỉ thị.
Dược Sơn im lặng một lát rồi bảo:
- Nay ta bảo cho ngươi một lời không khó, nhưng khi ta nói rồi ngươi phải thấy ngay, nếu ngươi suy nghĩ thì là lỗi của ta.
(Thiền tông lịch sử dữ văn hóa)
“Một lời” ở đây chỉ kinh nghiệm nội chứng, không dùng lời mà diễn tả được. Tại sao? Vì ngôn ngữ chỉ là phù hiệu không phải là bản thân sự vật, chỉ là phương tiện để truyền thông mà thôi. Các thiền sư chỉ dùng ngôn ngữ để gợi dậy kinh nghiệm nội tại của người học.

1448. Truyền đăng.

Một hôm Huệ Khả bạch với tổ Đạt Ma:
- Con đã bặt hết mọi duyên rồi.
- Ngươi không đoạn diệt chứ?
- Không đoạn diệt.
- Lấy gì làm chứng.
- Con luôn tỉnh thức, không thể dùng lời mà nói được.
- Đó là sự truyền tâm của chư Phật, đừng nghi ngờ gì cả.
(Zen light)
Câu nói của Huệ Khả “con luôn tỉnh thức” chỉ rằng tâm ông luôn ở đây và bây giờ: nội tâm luôn thắp sáng. Lúc đó không có sự phân cách giữa chủ thể và đối tượng. Không có người truyền pháp và người nhận pháp, không có lời dạy (đăng) và không có sự giảng dạy (truyền đăng), chỉ có ánh sáng.

1449. Mười sự khai thị.

Có học tăng hỏi Tịch Thất:
- Xin hỏi sư phụ, trong thiền môn phải có những điều kiện gì để có thể vào thiền đạo?
- Trong hang sư tử không có thú khác, đường voi đi không dấu vết hồ ly.
- Tham thiền và không tham thiền bất đồng như thế nào?
- Đường sinh tử ngươi tự coi, người sống ở trong người chết.
- Học thiền có ích gì?
- Đừng hiềm nhạt không có vị, ăn no rồi tiêu vạn kiếp tai nạn.
Học tăng nghe rồi tham thiền khởi lòng đại tín. Một hôm dẫn khoảng 10 người quỳ xin Tịch Thất chỉ thị tham thiền pháp yếu. Thiền sư thấy đại chúng thành tâm bèn khai thị:
- Người học thiền nên chú ý 10 sự sau:
1- Nên biết sinh tử là việc lớn, vô thường đến mau, không thể đánh mất chánh niệm.
2- Trong 4 oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi kiềm thúc thân tâm, không phạm luật nghi.
3- Không chấp, không kiến, không khoe mình, tinh tiến dũng cảm, không đọa tà đạo.
4- Nhiếp 6 căn, chánh niệm, im hay nói lìa xa vọng tưởng.
5- Nhiệt tâm cầu đạo, linh minh bất muội giáo hóa chư ma.
6- Bỏ ngủ quên ăn, đứng trên vách cao vạn trượng, thẳng lưng tiến bước.
7- Nghiên cứu ý Tây lai, người niệm Phật là ai, cái gì là bản lai diện mục?
8- Tham thoại đầu công phu miên mật, không cầu chứng thành.
9- Tâm an ổn, dù trải vạn kiếp cũng không nhị tâm.
10- Đại tâm không lùi bước, thấu suốt Bồ Đề, nêu cao Phật đạo.
10 đại sự trên các ngươi có hiểu không?
Chư tăng nghe rồi hoan hỉ, không ai không thệ nguyện phụng hành.
(Tinh Vân thiền thoại)
Mười điều khai thị của Tịch Thất hà chỉ dùng cho Thiền tông sao? Bất cứ pháp môn nào cũng đều nên như thế.

1450. Ba lần bị đánh.

Lâm Tế họ Hình tên Nghĩa Huyền, người Nam Hoa, Tào Châu, từ nhỏ thông minh hơn người. Khi xuống tóc, thọ giới cụ túc, rất ham mộ Thiền tông. Theo học Hoàng Bá 3 năm, công phu cực thuần khiết.
Thủ tọa nói:
- Tuy là hậu sinh, cùng chúng chẳng đồng.
Lại hỏi:
- Ngươi ở đây bao lâu rồi?
- Ba năm rồi!
- Đã tham vấn chưa?
- Chưa, cũng chẳng biết hỏi gì?
- Sao ngươi không hỏi đại ý của Phật pháp là gì?
Lâm tế bèn đi hỏi, hỏi chưa dứt câu Hoàng Bá đã đánh. Khi trở lại Thủ tọa hỏi:
- Tham vấn thế nào?
- Hỏi chưa dứt lời, hòa thượng đã đánh, đệ tử không hiểu ý thế nào!
- Ngươi đi hòi nữa đi!
Lâm Tế lại đi hỏi, Hoàng Bá lại đánh. Như thế ba lần hỏi, ba lần bị đánh. Lâm Tế đến thưa với Thủ tọa:
- Nhờ lòng từ bi của thượng tọa, đệ tử ba lần đi hỏi, 3 lần đều bị đánh, tự hận chướng duyên, không lãnh hội được ý sâu của hòa thượng, nay đến từ biệt để đi.
- Trước khi ngươi đi, hãy đến giã từ hòa thượng.
Lâm Tế vái lạy mà lui. Thủ tọa bèn đến chỗ Hoàng Bá bạch rằng:
- Ông sư trẻ đến thỉnh giáo hòa thượng là một vị rất có căn cơ; khi hắn đến từ biệt xin sư phụ chỉ dạy, sau này hắn sẽ là một cây lớn, cấp bóng mát cho nhiều người.
Sư đến từ biệt, Hoàng Bá bảo:
- Ngươi chẳng cần đi đến nơi nào khác, chỉ cần tới Cao An chỗ ở của Đại Ngu hắn sẽ giảng cho ngươi.
Sư đến Đại ngu, Đại Ngu hỏi:
- Từ đâu đến?
- Từ Hoàng Bá.
- Hoàng Bá có câu gì chỉ dạy?
- Đệ tử 3 lần hỏi đại ý của Phật pháp là gì, cả 3 lần đều bị đánh, không biết có lỗi gì?
- Hoàng Bá thật là lão bà tâm thiết, mệt sức vì huấn luyện ngươi mà ngươi còn đến đây hỏi có lỗi hay không?
Nghe lời nói đó Lâm tế bỗng nhiên đại ngộ :
- Nguyên lai, thiền pháp của Hoàng Bá chỉ đơn giản như vậy.
Đại Ngu nắm lấy sư hỏi:
- Tên tiểu quỷ đái dầm này, lúc đến còn hỏi có lỗi, không lỗi, nay lại nói thiền pháp của Hoàng Bá chỉ đơn giản như vậy! ngươi thấy được đạo lý gì, nói mau! nói mau!
Sư đấm vào sườn Đại Ngu 3 đấm. Đại Ngu đẩy sư ra:
- Thầy ngươi là Hoàng Bá, không can dự gì đến ta.
Sư từ biệt Đại Ngu, trở lại Hoàng Bá. Hoàng Bá thấy sư đến bèn hỏi:
- Cái gã này đến đến, đi đi, bao giờ mới xong?
- Chỉ vì thầy là lão bà tâm thiết.
Chào hỏi xong bèn đứng hầu một bên. Hoàng Bá hỏi:
- Ngươi đi đâu?
- Theo lời khuyên từ bi của thầy, con đến tham Đại Ngu.
- Đại Ngu nói sao?
Sư kể lại đầu đuôi, Hoàng Bá bảo:
- Ta mà gập, thì sẽ cho hắn một trận.
- Việc gì phải đợi, cho ngay bây giờ.
Sư đánh Hoàng Bá một chưởng.
- Gã điên này dám đến đây mà nhổ râu cọp.
Sư hét lên, Hoàng Bá gọi:
- Thị giả! dẫn gã điên khùng này vào tham đường, mau!
Về sau Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Lâm Tế được Đại Ngu dạy hay được Hoàng Bá dạy?
- Lâm tế không những cưỡi đầu cọp mà còn nắm đuôi cọp nữa.
(Lâm Tế lục)
Lúc học với Hoàng Bá, Lâm tế công phu rất thuần khiết, nghĩa là giữ giới luật rất nghiêm về thân, khẩu, ý. Do đó tâm đã không còn vướng mắc vào 18 giới, sẵn sáng để giác ngộ. Hoàng Bá 3 lần đánh Lâm tế để thúc đẩy sự giác ngộ đó, nhưng thất bại. Lâm tế đã ở vào trạng thái chín mùi “gậy trúc trăm trượng chỉ cần thêm một bước nữa”. Hoàng Bá đánh Lâm Tế ngụ ý: chân lý tuyệt đối không thể dùng lời mà diễn tả được và cái chân lý đó ngươi phải hướng vào trong mà tìm chứ không thể tìm ở phòng phương trượng.
Đánh mắng vốn là hành vi thô lỗ. Nhưng các vị thiền sư dùng để truyền đạt, thậm chí còn nói phương thức này là lão bà tâm thiết. Đánh lại thầy, thầy không những không nổi giận còn chấp nhận, đó là sự hồi báo ân tình. Theo cái nhìn thế tục thì đó là “yêu cho roi, cho vọt” của bà mẹ hiền. Thiền giả đã siêu việt hình tượng nên đó là sự biểu lộ thiền tâm.
(Tinh Vân)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 08 Aug 2012, 5:46 PM | Message # 292
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1451. Động Sơn tham Bách Nham.

Động Sơn cùng Mật sư bá (đệ tử Vân Nham) đến tham Bách Nham (đệ tử Dược Sơn). Bách Nham hỏi:
- Từ đâu tới?
- Hồ Nam.
- Quan sát sứ họ gì?
- Không biết họ.
- Tên gì?
- Không biết tên.
- Còn tại chức không?
- Còn.
- Còn đi tuần tra không?
- Không.
- Tại sao không?
Sư phất tay áo đi ra. Sáng sớm hôm sau Bách Nham thượng đường kêu 2 người lại:
- Hôm qua lão tăng đối xà lê ngữ chẳng đầu cơ, cả đêm không an. Giờ thỉnh xà lê hạ một chuyển ngữ, nếu hợp ý thì lão tăng xin mời các vị dùng cháo và cùng qua hạ.
- Thỉnh hòa thượng hỏi.
- Sao không tuần tra?
- Vì quá cao quý.
Bách Nham bèn mời 2 người dùng cháo và cùng kết hạ.
(Động Sơn lục)
Quan sát sứ là 1 viên quan do Trung ương ủy quyền đi tuần tra các địa phương; ở đây dùng để chỉ sự xuất nhập của pháp thân.

1452. Duy Ma cật và Phó Đại Sĩ.

Lâm Tế thượng đường nói:
- Một người ở trên đỉnh núi không có đường đi; một người ở ngã mười đường không biết đi về hướng nào? Ai ở trước? Ai ở sau? Không làm Duy Ma Cật, không làm Phó Đại Sĩ. Các ngươi đứng đã lâu rồi, hãy bảo trọng.
(Lâm Tế lục)
Người trên đỉnh núi chỉ người tu hành, dứt bỏ mọi ràng buộc với thế gian. Người ở ngã mười đường chỉ bậc Bồ Tát ở cõi ta bà. Duy Ma Cật còn gọi là Tịnh Danh cư sĩ là cư sĩ Ấn Độ ưa sống ẩn dật. Phó Đại Sĩ còn gọi là Thiện Huệ đại sĩ, vốn tên Truyền Ông là cư sĩ Trung Hoa thời Nam Bắc Triều nổi tiếng về những hoạt động Phật sự. Câu nói của Lâm Tế là muốn dung hoà 2 cách sống.
(Paul Demiéville)

1453. Ông tăng do dự.

Một ông tăng hỏi Lâm Tế:
- Thế nào là đại ý của Phật pháp?
Thiền sư hét lên, ông tăng bèn lạy. Thiền sư bảo:
- Ông tăng này có thể nói chuyện được đây.
Một ông tăng khác hỏi:
- Sư xướng gia khúc tông phong nào?
- Ta ở nơi Hoàng Bá 3 lần hỏi Phật pháp, 3 lần bị đánh.
Ông tăng do dự. Sư bèn hét, sau đó vừa đánh vừa nói:
- Chẳng lẽ đóng đinh vào hư không hay sao?
(Lâm Tế lục)
Ông tăng do dự chứng tỏ còn suy nghĩ, không tự tin. Câu trả lời phải ngay tức khắc. Câu nói của Lâm Tế có nghĩa là tất cả đều là không, những câu hỏi đều vô ích, nhất là từ một ông tăng do dự.
(Paul Demiéville)

1454. Động Thủy chẩy ngược dòng.

Long Nha hỏi Động Sơn:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
- Đợi Động Thủy chẩy ngược, ta sẽ nói cho ngươi biết.
(Động Sơn lục)
Tự tánh không thể diễn tả bằng lời. những câu hỏi đều vô ích, nhất là từ một ông tăng do dự.
(Paul Demiéville)

1455. Hợp đạo.

Động Sơn thượng đường bảo:
- Đạo vô tâm hợp người, người vô tâm hợp đạo. Muốn hiểu ý này thì một người già, một người chẳng già.
Về sau có ông tăng hỏi Tào Sơn:
- Thế nào là một người già?
- Chẳng nuôi dưỡng.
- Thế nào là một người chẳng già?
- Cây khô.
Ông tăng lại đem chuyện này hỏi Tiêu Dao. Tiêu Dao đáp:
- Tam tòng, lục nghi.
(Động Sơn lục)
Câu nói của Động Sơn là chỉ sự liên quan giữa người và Đạo. Không nuôi dưỡng bề ngoài chỉ là một người vô dụng, nhưng thâm ý là chỉ một người có khả năng hoằng Đạo. Cây khô là chỉ lúc Đạo không được quảng bá đến mọi người. Tam tòng là chỉ tam tòng tứ đức của phụ nữ, lục nghi là 6 nghi thức mà các cung nữ đời Đường phải tuân theo.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 08 Aug 2012, 5:48 PM | Message # 293
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1456. Không khởi một niệm.

Một ông tăng hỏi Vân Môn:
- Khi không khởi một niệt niệm thì sao?
- Núi Tu Di.
(Zen and Zen classic)
Ý của Vân Môn là khi ta không khởi một niệm thì tâm ta đã lìa hiện tượng giới vào được bản thể giới. Núi Tu Di là trung tâm điểm của một tiểu vũ trụ. Trên đỉnh là trời Đế Thích, phía dưới là 4 Thiên vuơng, chung quanh bao bọc bởi 8 núi, 8 biển.

1457. Một ngày ăn hết bao nhiêu.

Hoàng Bá nhân vào phòng bếp hỏi phạn đầu:
- Ngươi đang làm gì?
- Đương lựa gạo cho chư tăng.
- Một ngày ăn hết bao nhiêu?
- Hai thạch rưỡi (=149Kg)
- Có nhiều quá không?
- Sợ còn chẳng đủ.
Hoàng Bá bèn đánh phạn đầu.
(Lâm Tế lục)
Tự tánh vốn tự đầy đủ, không thừa cũng không thiếu.
(Paul Demiéville)

1458. Bán gạo.

Lâm Tế hỏi:
- Viện chủ từ đâu về?
- Đi bán gạo vàng về.
- Bán hết không?
- Bán hết.
Lâm tế dùng gậy vạch một vạch trước mặt rồi hỏi:
- Cái này có bán được không?
Viện chủ hét lên, thiền sư bèn đánh. Không lâu Điển tọa đến. Thiền sư đem truyện trên ra kể. Điển tọa nói:
- Viện chủ không rõ ý sư phụ.
- Ý ngươi thì thế nào?
Điển tọa vái lạy, thiền sư cũng đánh.
(Lâm Tế lục)
Trong tự tánh không có trị giá (quý tiện, nhiều ít (Yanagida)
(Dẫn theo Paul Demiéville)

1459. Văn Thù sống.

Lâm Tế thượng đường nói:
- Có một đám người học, đến Ngũ Đài Sơn để cầu thấy Văn Thù, sớm đã sai rồi. Ngũ Đài Sơn không có Văn Thù. Các ngươi muốn gập Văn Thù ư? Rất giản dị, ngay trước mắt. Nếu các ngươi đầu cuối không khác. Mọi chốn không ngại. Đó chính là Văn Thù sống vậy.
(Minh tâm kiến tánh thoại thiền tông)
Người hướng ngoại mà tìm Văn Thù không biết rằng người đang tìm Văn Thù chính là Văn Thù.

1460. Thiền và Giáo.

Một ông tăng hỏi Tuyết Phong:
- Thế nào là Pháp thân?
- Ta vẫn biết nghiệp do khẩu sanh (khẩu nghiệp) nhưng tại sao ngươi lại phải nhai que cứt khô (càn thỉ quyết) vậy?
(Zen and Zen classics)
Ý của Tuyết Phong là câu hỏi này chỉ là giả đò, là lý luận, là hư ảo, không phải là Đạo. Pháp thân có thể phân làm tổng tướng và biệt tướng, thể và dụng; nhưng những chuyện này chỉ làm cho người lành mạnh sinh bệnh.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 08 Aug 2012, 5:59 PM | Message # 294
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1461. Ngọc thô.

Một ông tăng hỏi Huyền ngộ:
- Mang ngọc thô đến tham thầy thì sao?
- Không phải vật báu nhà mình.
- Vật báu nhà mình là gì?
- Không mài dũa không thành vật báu.
(Công án thiền cơ)
Ngọc thô là ngọc chưa mài dũa chỉ người tu, khi mài dũa xong thì trở thành ngọc quý chỉ người ngộ. người tu còn phiền não là tập khí và nghiệp thức. Trừ bỏ được phiền não thì tự tánh hiển hiện. Thể tánh của chúng ta không từ ngoài tới mà tự đầy đủ. Do đó đem một khối ngọc thô đến để làm gì? Khối ngọc thô đó hiển nhiên là ngoại tại, đại biểu cho tập khí, không phải là tự tánh bồ đề. Do đó thiền sư bảo không phải là vật báu nhà mình, vì vật mang đến mang đi không phải là chân tâm của ngươi. Chỉ có nội tâm mới là vật báu nhà mình. Nhưng trừ được phiền não mới là đi được nửa đường, mới thấy thể không còn chưa về đến nhà. Nếu ngưng trệ ở không thì vẫn còn bị trầm luân.

1462. Biết ca vũ không?

Một ông tăng hỏi Linh Chiếu:
- Bọn trẻ vừa ca vừa múa trên đồng cỏ, nay còn không?
Linh Chiếu bước xuống tòa giảng vừa ca vừa múa, sau đó hỏi:
- Ngươi hiểu không?
- Con không hiểu?
- Ngay cả nhịp chân theo bài hát ngươi cũng không làm được sao?
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của thiền sư là ngươi đã phá được ngã chấp chưa? Ông tăng không ca, vũ theo thầy vì hoặc là ông ca không hay, múa không khéo . . . Nói tóm lại là ông sợ bị mất mặt. Sợ mất mặt là còn ngã chấp. Phá được ngã chấp rồi thì người, sự, vật ở ngoại cảnh không còn ảnh hưởng đến tự tâm nữa.

1464. Lạy ông tăng này.

Trường Khánh thượng đường; đại chúng tụ tập lại để nghe pháp. Thiền sư lôi một ông tăng ra bảo đại chúng:
- Đại chúng hãy lạy ông tăng này!
Lại nói:
- Ông tăng này có chỗ nào tốt mà bảo đại chúng lạy?
Đại chúng không ai đáp được.
(Công án thiền cơ)
Thiền sư bảo đại chúng lạy ông tăng là hàm 2 ý:
1- Phá trừ cái tâm cống cao ngã mạn của đại chúng.
2- Trong tương lai ông tăng và đại chúng đều sẽ thành Phật.
Nhưng đại chúng không hiểu lý lẽ này. Người thường chỉ chấp tướng bên ngoài luôn phân biệt ta người, cao thấp, nhưng đối với người tu giải thoát thì phải lấy tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỉ, xả) mà đối diện chúng sinh.

1465. Nước sạch, bẩn.

Động Sơn lúc mới hành cước gập một bà lão gánh nước trên đường, ông xin nước uống. Bà lão bảo:
- Ta sẽ cho ông nước uống, nhưng trước hết hãy trả lời câu hỏi của ta: nước có bao nhiêu bụi?
- Vốn không có bụi.
- Đi, đi! Đừng làm bẩn nước của ta.
(Động Sơn lục)
Nước có bao nhiêu bụi? là bà lão nêu lên vấn đề đương thời quan niệm thân người nữ có ngũ chướng không thể thành Phật được. Động Sơn trả lời “vốn không có bụi là ông viện dẫn quan điểm của Huệ Năng trong Pháp bảo đàn kinh: tự tánh vốn tự trong sạch thì làm gì có bụi. Câu nói của bà lão là chấp nhận quan điểm này.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 08 Aug 2012, 6:00 PM | Message # 295
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1466. Đệ nhất cú.

Một ông tăng hỏi Linh Chiếu:
- Thế nào là đệ nhất cú?
- Đừng lầm danh ngôn.
- Vậy thầy không có phương tiện sao?
- Con quạ nuôi sẻ nhỏ.
(Công án thiền cơ)
Cùng một câu hỏi, ông tăng Giáp hỏi, thiền sư đáp một cách, ông tăng Ất hỏi thiền sư lại đáp một cách khác. Đại khái đó là do trực giác của thiền sư nhận định ông tăng này học tập tới đâu, có những khuyết điểm gì, tập khí ra sao v . v . Nói tóm lại là nhận biết Thể tính của ông. Trong công án này ông tăng thích giảng giải, lấy quan niệm của mình phát biểu ý kiến. Do đó thiền sư mới khuyên ông “Đừng lầm danh ngôn”. Người tu, ở hiện tượng giới phải biết bảo hộ chính mình thì mới phát huy được linh tri, diệu dụng trả lời bất cứ câu hỏi nào của người. Trong quá khứ có nhiều tăng ni, đại đức thật tu, thật chứng dùng lời để diễn tả cảnh giới ấy lưu lại cho người sau tham chiếu. Nhưng nếu dùng lời lẽ đẹp đẽ nhưng nội dung không thật, tham nhiều ngày giờ cũng chẳng đạt được cảnh giới gì thì sao chỉ dạy cho người? Linh Chiếu đề tỉnh ông tăng, đối với ngươi mà nói thì “Đệ nhất cú” là đừng lầm danh ngôn, chưa đi hết đường đâu biết cứu cánh? Đừng cho là thế này, thế kia, đừng lầm danh cú. Thực tế, thiền sư đã mang tập khí của ông tăng ra giảng rồi, nhưng ông tăng vẫn chưa vừa lòng, cho rằng câu đáp của thiền sư quá thô thiển nên mới hỏi thêm “Chẳng lẽ thầy không có pháp nào hé lộ một chút cho con sao? Sao lại đem câu “Đừng lầm danh ngôn” ra làm gì? Trong thiền tông, thiền sư nói một câu nếu học nhân không hiểu, thiền sư không có cách nào nói tiếp. Chúng ta biết người tu thiền chứng được không tướng là đi được nửa đường. Lúc đó hành giả phủ định tất cả mọi tướng đối với người, sự, vật của ngoại cảnh tâm không tương ứng đạt tới cảnh giới định. Hành giả trú ở cảnh giới không vọng tưởng nên chỉ một câu là giảng hết, không dùng tới câu thứ hai. Câu nói: “Con quạ nuôi sẻ nhỏ” có ý là ngươi còn chưa có tuệ giác, giống như sẻ nhỏ, thấy quạ đen lầm là tổ chim, vì vậy để quạ nuôi dưỡng.
Nhưng nếu cứ trú ở không thì sẽ dẫn tới đoạn diệt, vì vậy hành giả lại phải quay lại phàm. Lúc đó, hành giả đã có định lựcnên đối với người, sự, vật của ngoại cảnh có khởi pháp tương ứng nhưng không bị quái ngại. Đó mới chính là cảnh giới viên dung không hữu bất nhị vậy.

1467. Pháp Dung và Tứ tổ.

Một ông tăng hỏi Đầu Tử Đại Đồng:
- Ngưu Đầu chưa gập Tứ tổ thì thế nào?
- Làm thầy người!
- Sau khi gập thì sao?
- Không làm thầy người.
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của ông tăng là muốn biết tình cảnh trước và sau khi ngộ; ông mượn tình cảnh của Ngưu Đầu để hỏi. Trong quá trình tu thiền, giai đoạn đầu tiên là phải ngộ không là vào thánh cảnh, sau đó lại phải trở lại phàm cảnh để chứng ngộ không hữu bất nhị thì mới được tự tại vô ngại. Ngưu Đầu lúc chưa gập Tứ tổ ông đã chứng được tự tánh không. Cảnh giới này không học từ bên ngoài mà do tự quán tâm, tự tâm ngộ không. Đối với người, sự, vật của ngoại cảnh không cảm thấy hứng thú. Có người đến tham phỏng cũng không đứng dậy chào hỏi, cho nên người ta đã gọi ông là Dung lười. Lúc đó, tuy ông đã phá được ngã chấp nhưng ông vẫn nghĩ rằng có một pháp để tu là tọa thiền, một quả để chứng là Định. Nhưng chân lý không ở tọa hay ở định mà là trong mọi sinh hoạt hàng ngày không đời định. Sau khi được Tứ tổ chỉ thị ông không trú ở không, trở lại phàm để chứng ngộ không hữu bất nhị. Ông hiểu rằng không có một pháp nào để tu vì còn một pháp là còn bị trói buộc, không được giải thoát. Nếu pháp đã không có thì đâu còn thầy nữa?

1468. Bài kệ của Kim Bích Phong.

若人 欲 拿 金 碧 峯
Nhược nhân dục nã Kim Bích Phong
除非 鐵 鍊 鎖 虛 空
Trừ phi Thiết luyện tỏa hư không
虛空 若 能 鎖 得 住
Hư không nhược năng tỏa đắc trụ
再來 拿 我 金 碧 峯
Tái lai nả ngã Kim Bích Phong

Nếu người muốn bắt Kim Bích Phong
Trừ phi khóa sắt khóa hư không
Hư không có thể đem khóa lại
Lại đây, mà bắt Kim Bích Phong.
(Thanh tịnh lưu ly)
Xem công án 706.

1469. Viết chữ lên quạt.

Động Sơn viết chữ Phật lên quạt. Vân Nham trông thấy bèn viết thêm chữ Bất. Động Sơn bèn sửa lại thành chữ Phi. Tuyết Phong thấy vậy bèn thu lấy quạt. Hưng Hóa đáp thay cho Động Sơn:
- Ta không như ngươi!
(Động Sơn lục)
Ý của Vân Nham là không viết, không tưởng tới Phật. Động Sơn chữa thành chữ Phi ý là không viết không tưởng đến chữ Bất. Câu của Hưng Hóa có nghĩa là Động Sơn khen ngợi hành động của Tuyết Phong.

1470. Bó củi.

Một lần, Tuyết Phong vác một bó củi đến trước mặt Động Sơn, ném xuống.
Động Sơn hỏi:
- Nặng chừng nào?
- Toàn thế giới không ai nhắc lên được.
- Vậy sao ngươi lại vác được đến đây?
Tuyết Phong im lặng không trả lời.
(Động Sơn lục)
Bó củi ở đây ám chỉ tự tánh.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 08 Aug 2012, 6:05 PM | Message # 296
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1471. Cuồng tâm.

Một ông tăng hỏi Thụy Châu Đạo Kiền:
- Người người đều hết lời thỉnh ích, không biết thầy giúp đỡ cách nào?
- Ngươi nói coi Đại Nhạc còn cần thêm tấc đất nào nữa không?
- Vậy đi khắp bốn biển tham học là vì cái gì?
- Diễn Nhã điên đầu, tâm tự cuồng.
- Còn có người không cuồng chăng?
- Có.
- Thế nào là người không cuồng?
- Đường bỗng sáng mà mắt không mở.
(Công án thiền cơ)
Ông tăng hỏi có người trước và sau khi ngộ đến hỏi, thầy chỉ họ thế nào? Thiền sư chỉ trả lời trường hợp sau khi ngộ, Nếu có trí tuệ Bát nhã rồi, còn cần gì đi hỏi ai nữa? Nội tâm chính là đạo tràng, cần gì phải đi đâu xa? Ông tăng hỏi tiếp: Vậy sao còn đi tham phỏng? Ý là vì tập khí chưa hết, nhận thức chưa tinh nên cần chỉ điểm.
Thiền sư dẫn tích Diễn Nhã Đạt Đa soi gương không thấy lông mi trên mặt cho là ma quỷ trêu ghẹo, phát cuồng. Đầu dụ cho chân tâm, đầu trong gương dụ cho vọng tâm. Nhận vọng tâm làm chân, tự mình điên cuồng. Ông tăng hỏi tiếp làm thế nào để không điên cuồng? Thiền sư bảo ông đừng nhìn cảnh bên ngoài, xoay vào trong mà quán chiếu vọng tâm. Dùng trí tuệ Bát nhã mà phá những vọng tướng khởi lên từ vọng tâm.

1472. Không phải là ngựa tốt.

Một ông tăng hỏi Linh Chiếu:
- Dưới gốc cây bồ đề, cứu độ chúng sinh, thế nào là cây Bồ đề?
- Giống cây khổ luyện.
- Vì sao giống cây khổ luyện?
- Không phải là ngựa tốt đâu cần bóng roi!
(Công án thiền cơ)
Mỗi vị Phật thường kết duyên với một loại cây. Phật Thích ca giác ngộ và thuyết pháp dưới gốc cây Bồ đề; trong tương lai Phật Di Lặc sẽ thuyết pháp dưới gốc cây Long Hoa.
Ông tăng không nhận biết cây Bồ đề nên đưa ra câu hỏi. Trong thế gian có nhiều người khi gập một chuyện gì không biết, cảm thấy phiền não muốn giải quyết ngay, không thể bỏ xuống được. Trái lại có người có thể bỏ xuống được; chờ cơ duyên đến có thể giải quyết được phiền não ấy. Trong thực tế cây Bồ đề và cây khổ luyện hình dáng rất khác nhau. Tại sao thiền sư lại bảo giống nhau? Ý của thiền sư là ở hiện tượng giới chúng ta vì chấp vào danh tướng nên thấy cây Bồ đề và cây khổ luyện khác nhau; nhưng ở bản thể giới chúng đều trở về không nên không khác. Trong thiền học phân biệt ba loại trí tuệ:
1- Trí tuệ thế gian: tức trí thông minh.
2- Trí tuệ xuất thế gian: ngộ được tánh không.
3- Trí tuệ xuất xuất thế gian: ngộ được không hữu bất nhị.
Câu nói của thiền sư có nghĩa là ông tăng còn chưa hiểu (còn ở trong trí tuệ thế gian, chưa ngộ 2 loại trí tuệ kia) vì nếu là con ngựa tốt chỉ cần giơ roi lên là nó đã chạy rồi, còn ngựa ngu thì phải đánh đến chẩy máu nó mới chịu chạy.

1473. Về nhà.

Một ông tăng hỏi Nguyên An:
- Con muốn về nhà thì sao?
- Nhà tan, người mất, ngươi về đâu?
- Vậy là không về?
- Mặt trời lên tuyết trước sân tan, bụi trong phòng ai quét?
(Công án thiền cơ)
Tiểu thừa quán pháp thấy pháp là do nhân duyên hòa hợp nên biết pháp là không, không có tự thể. Vì vậy phủ nhận tất cả mọi pháp. Đây là ngộ không mới đi được nửa đường. Đại thừa quán nhân duyên hòa hợp là không nên không phủ nhận sự tồn tại của pháp nhưng không bị pháp chuyển. Ông tăng nêu lên câu hỏi khi đã ngộ không nhưng những tập khí vi tế (về nhà) vẫn còn thì phải làm sao? Tuyết ngoài sân và bụi trong phòng là chỉ tập khí. Dùng trí tuệ (mặt trời) để trừ tập khí (tuyết ngoài sân). Nhưng ai quét bụi trong phòng? Chẳng tự mình làm còn nhờ cậy ai?

1474. Duy Ma Cật.

Một ông tăng hỏi Thiệu Hóa:
- Duy Ma Cật có phải là Kim Lật như lai không?
- Phải.
- Vậy sao lại ngồi dưới nghe Thích ca thuyết pháp?
- Ông ấy không tranh ta người.
(Công án thiền cơ)
Duy Ma Cật là Phật bất động ở Diệu Hỷ thế giới, thị hiện ở cõi ta bà để giúp Phật Thích ca cứu độ quảng đại chúng sinh. Kim Lật như lai chỉ cho người học không trụ ở vô vi, hữu vi mặc nhiên nhập pháp môn bất nhị. Ông tăng hỏi thập phương thế giới vốn không có một pháp để thuyết, cư sĩ Duy Ma cật có pháp thân sao lại ngồi nghe pháp? Thiền sư đáp ngã chấp chưa phá thì mới có phân cao thấp. Nếu biết bản tánh là một, chúng sinh vốn đồng một thể, làm gì còn phân biệt ta (Duy Ma Cật) người (Thích ca)?

1475. Thiền sư lạy đệ tử.

Một hành giả hỏi Cảnh Thông:
- Đại ý của Phật pháp là gì?
Cảnh Thông bèn lạy hành giả; Hành giả hỏi:
- Thiền sư vì sao lại lạy tục nhân?
- Ngươi không biết đạo tôn trọng đệ tử.
(Công án thiền cơ)
Hành giả hỏi thế nào là Phật pháp, Phật pháp dùng làm gì? Phật pháp bao gồm thiện pháp thế gian, xuất thế gian, xuất xuất thế gian. Phật pháp chân chính là giúp người đời ngộ pháp. Nếu đã ngộ rồi còn học Phật pháp làm gì? Người ngộ rồi vẫn phải học Phật pháp vì lợi ích chúng sinh. Chúng sinh có bệnh gì, biết dùng pháp nào để trị (có 8 vạn 4 ngàn pháp môn). Kinh nói “Phật thuyết nhất thiết pháp duy trị nhất thiết tâm”. Nếu chúng ta đã vô tâm thì đâu cần pháp nào nữa, nhưng đối với người đang tu để trừ tâm bệnh cần phải có món thuốc để trị.
Thiền sư lạy hành giả là để phá ngã chấp cho ông, khiến ông có thễ ngộ được bình đẳng tính trí. Ai cũng có Phật tánh, đệ tử cũng có khả năng thành Phật, đừng chấp ngã mà sinh cống cao ngã mạn.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 08 Aug 2012, 6:12 PM | Message # 297
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1476. Đổ tể cung dưỡng.

Một hôm có một đồ tể đến thỉnh Huyền Tố đến nhà để cung dưỡng. Thiền sư vui vẻ đi. Đại chúng đều kinh ngạc. Thiền sư bảo:
- Phật tánh bình đẳng, hiền ngu không khác, nếu có thể độ được, ta liền độ.
(Công án thiền cơ)
Phật và chúng sinh vốn không sai biệt, đều cùng một thể. Phật là người đã giác, chúng sinh là người còn mê. Chúng sinh vì vô minh mà tạo nghiệp; nghiệp lực che lấp tự tánh của chúng sinh. Đồ tể là người tạo sát nghiệp, là một ác nghiệp rất nặng. Muốn độ ông phải là một người có năng lực tương đương. Thiền sư là người này vì ông có đại nguyện từ bi độ tất cả mọi người có thể độ, không phân biệt nghiệp nặng hay nhẹ. Đồ tể muốn mời thiền sư về nhà để cung dưỡng là có một thiện niệm, từ đó sẽ khởi thiện tâm. Thiện niệm này không phải bỗng nhiên mà có mà là do túc nghiệp; trong quá khứ đồ tể đã gieo một nhân tốt. Đây là 1 cơ hội tốt để hướng về đạo.

1477. Giơ lên, hạ xuống.

1- Đức Phật giơ tay lên hỏi A Nan:
- Tay ta thế nào?
- Thế Tôn giơ tay lên.
Đức Phật hạ tay xuống, hỏi:
- Hiện tại thì sao?
- Thế Tôn hạ tay xuống.
- Ngươi thật điên đảo.

2- Một ông tăng hỏi Linh Vân:
- Phật chưa xuất thế thì thế nào?
Thiền sư giơ phất tử lên.
- Phật xuất thề rồi thì sao?
Thiền sư giơ phất tử lên.
Ông tăng không hiểu về thuật lại cho Tuyết Phong. Tuyết Phong nói:
- Ngươi hỏi lại đi, ta bảo cho.
- Phật chưa xuất thế thì thế nào?
Tuyết Phong giơ phất tử lên.
- Phật xuất thế rồi thì sao?
Tuyết Phong hạ phất tử xuống.
Ông tăng lạy tạ, Tuyết Phong bèn đánh.
(Công án thiền cơ)
Rõ ràng chưa xuất thế và xuất thế rồi là hai sự kiện khác nhau sao Linh Vân lại cùng giơ phất tử lên? Linh Vân dạy ông tăng đừng khởi tâm phân biệt. Ông tăng không hiểu đi hỏi Tuyết Phong. Tuyết Phong giơ lên, hạ xuống hợp với ý của ông tăng nên lạy để tạ ơn. Tuyết Phong thấy ông quá chấp vào cảnh nên đánh cho ông tỉnh.

1478. Không giơ phất tử.

Một ông tăng hỏi Tuyết Phong:
- Giơ trùy hay phất tử lên đều không phải là tông thừa, hòa thượng phải làm sao?
Tuyết Phong giơ phất tử lên.
Ông tăng cúi đầu đi ra.
(Công án thiền cơ)
Câu hỏi của ông tăng có nghĩa là giơ trùy hay phất tử lên không phải là tâm pháp của Thiền tông. Nếu bỏ phất tử đi, thiền sư lấy gì dạy người? Giơ phất tử lên là chỉ thiền cơ. Ông tăng không hiểu khởi tâm phân biệt vì hãy còn pháp chấp. Để phá cái chấp này cho ông, thiền sư lại giơ phất tử lên. Ông tăng hiểu cơ ý nên cúi đầu đi ra.

1479. Không tu.

Lúc trước, có một ông tú tài, đọc vài quyển ngữ lục của chư tổ, cho rằng mình đã đại ngộ, đến tham Quy Tông nói mình đã đạt cảnh giới vô tu, vô đắc, vô chứng rồi. Tông chỉ mỉm cười. Khi tú tài cáo từ, Tông đưa ra đến cửa bảo:
- Áo bông của các hạ sao lại có chỗ rách ở lưng vậy?
Tú tài hoang mang hỏi:
- Ở đâu! ở đâu vậy?
- Đúng là một người không tu, không đắc, không chứng vậy!
Tú tài đỏ mặt, đi mất.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Có người nói “Thiền là ngộ, không phải là tu. Thiền là đốn, không phải là tiệm. Thiền gọi là thiền chỉ đến Lục tổ là ngưng, từ đó về sau chỉ là giáo không phải là thiền.” Vì giáo là tiệm tu, từng bước từng bước tiến lên có tu, có đắc, có chứng; mà thiền là ngộ rồi liền nghỉ, ở đâu, lúc nào chỉ tùy duyên phóng khoáng, nhậm vận tiêu dao. Câu nói này nghe qua rất cao diệu, nhưng trong thực tế, sợ rằng không phải. Vì có tông và giáo nên mới có phân biệt đốn, tiệm, ngộ, tu. Nghiên cứu giáo lý, thấy được bản tánh gọi là giáo, chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật gọi là tông. Cả hai đều cùng đạt mục đích không khác, cho nên cổ nhân có nói “giáo là thiền có tiếng, thiền là giáo không tiếng”. Nếu nói ngộ rồi liền nghỉ thì sao Lục tổ ngộ rồi còn phải ẩn tu hàng mười mấy năm trời?

1480. Tu Bồ Đề giảng Bát Nhã.

Tu Bồ Đề ngồi thiền trong động vắng, trời Đế Thích rải hoa cúng dường. Tu Bồ Đề hỏi:
- Ai rải hoa?
- Tôi là trời Đế Thích kính trọng tôn giả giảng Bát Nhã hay nên rải hoa cúng dường.
- Tôi còn chưa nói pháp.
- Tôn giả không nói, tôi không nghe đó là chân Bát Nhã.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Câu truyện trên cho thấy không nói, không nghe mới là chân chính nói, nghe.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 08 Aug 2012, 6:17 PM | Message # 298
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1481. Không trú ở không.

Vân Tế đến tham Nam Tuyền, hỏi:
- Người không biết Ma Ni châu, nhưng Như Lai Tạng thâu được, thế nào là Như Lai Tạng?
- Cùng đến, đi với ngươi.
- Không đến, đi thì sao?
- Cũng vậy.
- Thế nào là châu?
Nam Tuyền gọi:
- Vân Tế!
- Dạ!
- Đi, ngươi không hiểu lời ta.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Câu nói của Nam Tuyền “Cùng đến, đi với ngươi” là chỉ vọng niệm đến đi, không ngừng. Vân Tế hỏi nếu trụ ở không, không động thì sao? Nam Tuyền bảo cũng sai. Khi Nam Tuyền gọi, Vân Tế dạ, nhưng không hiểu người dạ là ai. Do đó, Nam Tuyền mắng, đuổi đi. Chỉ trú ở không mà không biết bản lai diện mục thì chỉ là châu, mà không phải là bảo châu. Muốn được châu thiệt thọ dụng phải biết bản lai diện mục, sau đó bảo nhiệm chu đáo trừ tận tập khí. Thường trú trong không chỉ luyện thành đất, gỗ, kim thạch, là nước chết trong hồ, là bệnh chứ không phải là Đạo.

1482. Trăng tròn, trăng khuyết.

Một ông tăng hỏi Đầu Tử Đại Đồng:
- Khi trăng chưa tròn thì thế nào?
- Nuốt 2, 3 cái.
- Tròn rồi thì sao?
- Nhổ ra 7, 8 cái.
(Công án thiền cơ)
Trăng chỉ tự tánh. Ông tăng hỏi khi tự tánh không thanh tịnh, vọng thức hãy còn thì tình trạng thế nào? Thiền sư đáp nuốt 2, 3 cái. 2+3=5 là chỉ 5 căn. 5 căn không thanh tịnh hòa hợp với 5 trần và 5 thức khởi pháp tương ứng do đó phát sinh vô lượng phiền não, cần phải loại trừ. Tại sao thiền sư không đề cập đến thức thứ 6? 5 thức trên không thanh tịnh là bởi vì thức thứ 6 còn phân biệt. Nếu thức thứ 6 thanh tịnh thì 5 thức trên sẽ không tạo nghiệp nữa. Nhổ ra 7, 8 cái. 7, 8 chỉ thức thứ 7 và thức thứ 8. Khi thức thứ 7 thanh tịnh sẽ biến thành bình đẳng tính trí, phá được ngã chấp. Khi những chủng tử chưa chín của thức thứ 8 bị loại trừ hết thì thức thứ 8 sẽ biến thành đại viên cảnh trí, hành giả chứng được 3 thân, 4 trí, thành tựu Phật đạo (xem thêm công án 346)

1483. Áo mẹ sanh.

Trời lạnh, ở Thiên Đồng Tự Mật Vân Ngộ thiền sư sai thị giả tặng áo bông cho các lão túc để tránh lạnh. Một lão túc bảo thị giả:
- Ta tự có áo mẹ sanh, không cần áo bông.
Thị giả về thưa lại với Mật Vân Ngộ. Ngộ bảo:
- Ông tăng này dường như có chỗ ngộ, chỉ sợ không thật, hãy thử coi.
Bèn sai thị giả đến hỏi:
- Trước khi mẹ sanh, mặc áo gì?
Ông tăng không trả lời được. Ngộ khuyên nên tham câu nói trên. Ba năm sau ông tăng viên tịch, vẫn chưa đáp được. Khi trà tỳ, xá lợi vô số. Đại chúng kinh ngạc tán thán. Ngộ nói:
- Cả chục đấu xá lợi chẳng bằng một chuyển ngữ, các ngươi thử đáp coi!
Đại chúng không đáp được.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Công án này cho thấy một câu tương tự không phải là chân ngộ, hỏa thiêu có xá lợi không phải là chứng đạo, cần phải tự thức bản tâm, tự thấy bản tánh.

1484. Phật là thế nào?

1- Một ông tăng hỏi Quy Tông:
- Phật là thế nào?
- Chính là ngươi.

2- Một ông tăng hỏi Huệ hải:
- Phật là thế nào?
- Người nói chuyện trước mặt, không là Phật thì là ai?

3- Tụ đại phu hỏi Tố Ngọc:
- Phật là thế nào?
Tố Ngọc lên tiếng gọi:
- Đại phu!
- Dạ!
- Chính là thế đó, không là gì khác.
Tụ đại sư có chỗ tỉnh. Dược Sơn nghe được chuyện này bảo:
- Tụ đại phu bị chôn ở núi Tố Ngọc.
Đại phu nghe câu của Dược Sơn rất nghi hoặc bèn đến tham Dược Sơn. Dược Sơn bảo:
- Có nghi cứ hỏi .
- Phật là thế nào?
Dược Sơn lên tiếng gọi:
- Đại phu!
- Da!
- Là cái gì?
Đại phu liền đại ngộ.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Dược Sơn phủ nhận Tố Ngọc là để trắc nghiệm xem Tụ đại phu có để gót chân trên đất không? nếu là chân ngộ thì dù Phật xuất thế cũng không nghe, không thấy. Còn nếu không ngộ thì sẽ theo người mà chuyển gót. Thủ pháp của Tố Ngọc và Dược Sơn là một. Khi các thiền sư lên tiếng gọi, Tụ đại phu đều dạ, liền hiểu ngay người lên tiếng là Phật không là ai khác. Dược sơn lại thêm là cái gì? là xác nhận sự đáp ứng đó là Phật (tham khảo thêm các công án 253, 337, 708, 732, 736, 881, 918).

1485. Méo mồm.

Có một vị cổ đức trúng gió, mồm bị méo. Thị giả cười bảo:
- Hòa thượng cả ngày mắng Phật, mắng tổ, hôm nay bị quả báo rồi.
- Ngươi theo ta hàng 10 năm rồi mà xem ta như vậy sao? Nên biết tất cả nghiệp chướng trên thân tổ sư như hoa trong không, như trăng trong nước. Tuy trả quả mà như không trả quả, muốn trả thì trả, muống không trả thì không trả.Ngươi thấy mồm ta méo hay không méo?
Vừa nói vừa lấy tay vả vào mồm, mồm trở lại bình thường như cũ. Lại bảo:
- Ngươi chấp tướng chúng sinh, ở trong không tạo nghiệp chướng tưởng, ở không trả quả tạo trả quả tưởng. Đó là nghiệp chướng.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Do trên, ta có thể biết tất cả nghiệp chướng là do tâm. Tâm nếu là không thì không có gì gọi là chướng, không có gì gọi là trả quả, không trả quả. Có trả quả là do không trả quả.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 08 Aug 2012, 6:24 PM | Message # 299
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1486. Thần thông.

Ma Cốc và bạn đồng học sau khi ngộ Đạo rồi, cả bọn 5 người cùng đi hành cước tham phỏng. Trời nắng gắt 5 người khát nước bèn vào một quán trà bên đường, gọi 5 ly trà. Bà lão bán trà thấy 5 vị hòa thượng bèn hỏi:
- Các vị đi đâu?
- Đi tham thiện tri thức.
Bà già bưng trà ra rồi bảo:
- Trà ở đây chỉ người có thần thông mới uống được, người không thần thông không uống được.
5 vị thiền sư tuy đã đại ngộ nhưng thần thông chưa phát, nhìn nhau không dám nâng ly lên uống.
Bà già thấy vậy cười ha hả:
- 5 con chim ngốc này hãy coi bà bà trình thần thông uống trà!
Nói rồi nâng ly lên uống cạn một hơi.
5 người hoảng nhiên đại ngộ, cùng thưa:
- Hôm nay mới là ngày chúng tôi chân chính ngộ đạo; chúng tôi ở trong thần thông mà không biết thần thông, còn tìm bên ngoài. Hôm nay nếu không gập bà bà thì đã sai lầm một kiếp.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Tầm thường nhật dụng chính là thần thông diệu dụng.

1487. Khai, thị, ngộ, nhập.

Thời mạt Thanh, Phát Tổ thuộc dòng Lâm Tế, đạo phong truyền xa. Các người có tên tuổi như Nguyệt Hà, Sở Tuyền đều mộ danh đến theo sư tham cứu. Một hôm sư thượng đường bảo chúng:
- Đây là nơi truyển Phật trường, đào luyện long tượng, không bảo các ngươi đến để ăn, ngủ, chợp mắt. Hôm nay ta muốn khảo sát các ngươi xem ai là bậc hào kiệt, anh tài. Yếu chỉ của kinh Pháp Hoa là khai thị ngộ nhập Phật tri kiến. Ý chỉ huyền ảo, lịch đại tổ sư đều tuyên dương như hoa như gấm. Mọi người đọc xong không ai là không tán thán. Nhưng đó là của các vị tổ sư, không phải là của các ngươi. Căn cứ vào những lời, những chữ trên để ngộ thì thật vô ích. Hôm nay ta muốn chính các ngươi từ trong lòng nói ra xem ai có chân tri kiến.
Nói rồi rút một thẻ điểm danh ra:
- Sở Tuyền! ngươi nói trước: “Khai” làm sao khai?
Tuyền không đáp được.
- Ngươi ở đây nhiều ngày làm cái gì? Tham thiền như thế chỉ là trò con nít, uổng phí thời gian, bao giờ mới xuất đầu lộ diện? Quỳ xuống! Tham!
Sư sai Duy Na đốt hương, đánh bảng bảo đại chúng tham. Quẻ hương cháy hết. Duy Na đánh bảng khai tĩnh. Sư hỏi Sở Tuyền:
- Làm sao khai?
Tuyền vẫn không đáp được. Sư thở dài:
- Tham thiền như vậy, chừng nào mới được!
Lại ra lệnh quỳ tham tiếp.
Que hương thứ hai cháy hết, Tuyền vẫn không đáp được, sư vẫn không cho nghỉ, trách rằng:
- Hôm nay không đáp được, sẽ bảo ngươi quỳ ở đây tới chết.
Lại ra lệnh tiếp tục quỳ tham.
Đáng thương cho Sở Tuyền, tâm như lửa đốt, quỳ đến tê chân, mồ hôi rỏ giọt nhìn que hương thứ 3 đã cháy hết. Duy Na đánh bảng khai tĩnh. Sở Tuyền hốt nhiên tỉnh ngộ lớn tiếng thưa:
- Có rồi! Có rồi! Khai được rồi!
- Làm sao khai?
- “Khai” ra bản hữu.
- Thị?
- “Thị” ra bản vô
- Ngộ cái gì?
- Ngộ vô hữu vô.
- Là người gì?
- Vào ra vô ngại.
Sư nghe rồi khen ngợi:
- Tốt, rất sảng khoái. Nếu không buộc các ngươi dụng công thì bao giờ mới xong. Hôm nay không uổng công ngươi quỳ 3 que hương.
Tổ rất cao hứng, lại gọi:
- Nguyệt Hà, ngươi nói làm sao khai, thị, ngộ, nhập?
Hà không suy nghĩ, đáp ngay:
- Con xin mượn 4 câu của Sở huynh để trả lời.
- Mượn thế nào?
- “Khai” ra bản hữu là lý pháp giới, “thị” ra bản vô là sự pháp giới, “ngộ” vô hữu vô là lý sự vô ngại pháp giới, “Nhập” xuất vô ngại là sự sự vô ngại pháp giới.
Sư khen ngợi:
- Tốt lắm! So với Sở Tuyền còn hơn. Nơi đây không uổng là tuyển Phật đường. Hôm nay tuyển được 2 vị tôn Phật.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Đây chính là:
Chẳng phải một phen sương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Người xưa không ngại khó, ngại khổ cho nên mới có thành tựu.

1488. Nghiệp chướng.

Một ông tăng hỏi một vị cổ đức:
- Nghiệp chướng là thế nào?
- Vốn không.
- Vốn không là thế nào?
- Nghiệp chướng .
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Không ở đây không phải là ngoan không hoặc đoạn diệt không mà là tất cả sự việc. Tâm vốn thông linh vô ngại chỉ vì mê cảnh chấp tướng mà thành chướng, chấp tướng mà tạo nghiệp. Trải nhiều kiếp nghiệp tích thành tập khí. Nếu biết tướng vốn không thì chướng cũng không, nghiệp cũng không, nghiệp chướng cũng không nốt.

1489. Tụng kinh.

Chi hòa thượng nghe nói có ông tăng hàng ngày tụng 100 bộ kinh Kim Cương bèn sai thị giả vời đến, hỏi:
- Nghe nói mỗi ngày ông tụng 100 bộ kinh Kim Cương có phải không?
- Dạ phải!
- Ông có tham ý kinh không?
- Dạ không .
- Ông nên tụng mỗi ngày một bộ, tham cứu Phật ý; nếu ngộ được một câu thì như nếm một giọt nước biển, mà biết được vị của trăm sông.
Ông tăng nghe lời. Một hôm tụng đến câu “nên biết như thế, thấy như thế, tín giải như thế, chẳng sinh pháp tướng “ liền có chỗ ngộ.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Nhiều người học Phật, thấy Phật nói tụng kinh công đức không thể nghĩ bàn, nghĩ rằng càng tụng nhiều công đức càng lớn. Công đức này tích tụ có thể dẫn đến khai ngộ. Không biết rằng tụng mà không hiểu ý thì khác gì con vẹt học nói tiếng người, làm sao mà khai tâm kiến tánh? Tụng nhiều chỉ là gieo thiện nhân, chờ quả phúc mà thôi.

1490. Chư Phật không dối.

Hoàng Bá sau khi xuất gia rồi, nhận rằng phải buông bỏ mọi ân tình, đạt đến vô vi thì mới là chân chính báo ân. Do đó trong 30 năm tu học không hề về thăm nhà một lần. Nhưng trong thâm tâm ông rất nhớ thương mẹ già. Năm ông 50 tuổi trên đường đi tham phỏng, bất tri bất giác hướng về cố hương. Mẹ ông rất tưởng nhớ con đã xuất gia, nhưng chẳng có tin tức gì, thương nhớ khóc lóc khiến mắt bị mù luôn. Để tưởng niệm con bà lập một quán trà bên đường, chiêu đãi các vân thủy tăng, mời họ về nhà, rửa chân cho họ để tỏ lòng kính lễ. Ngoài ra còn một nguyên nhân nữa là chân trái của Hoàng Bá có một nốt ruồi lớn. Mắt bà đã bị mù nên hy vọng trong khi rửa chân, vạn nhất có thể nhận ra con chăng. Hôm đó Hoàng Bá tiếp thọ mẫu thân chiêu đãi. Một mặt để mẹ rửa chân, một mặt thuật sự tích Phật xuất gia, hy vọng mẹ sẽ khởi tín tâm. Hoàng Bá chỉ đưa chân phải cho mẹ rửa. Hoàng Bá 2 lần về nhà. Tuy thấy khó lìa bỏ nhưng ông cố nén đau thương lên đường hành cước. Hàng xóm không nhịn được mách cho bà mẹ biết người kể truyện Phật xuất gia chính là đứa con mà bà ngày đêm mong nhớ. Bà như phát cuồng nói:
- Chả trách tiếng nói giống tiếng con ta.
Nói rồi đuổi theo đến bờ sông, không may lúc đó Hoàng Bá đã lên thuyền và thuyền đã rời bến. Bà mẹ lỡ bước rơi xuống sông bất hạnh bị chết đuối.
Hoàng Bá đứng ở bờ bên kia thấy mẹ lỡ bước bị chết đuối không nén được bi thương, khóc rằng:
Một con xuất gia, 9 tộc lên trời, nếu không được vậy chư Phật đã nói dối.
Bèn quay trở lại, làm lễ hỏa táng cho mẹ. Khi hỏa táng dân làng đều thấy hình ảnh của bà mẹ bay lên không.
(Tinh Vân thiền thoại)
Hoàng Bá Hy Vận người Phúc Kiến, xuất gia ở Giang Tây thọ pháp với Bách trượng Hoài Hải, nhưng giác ngộ và được ấn chứng ở nơi Nam Tuyền. Hoàng Bá không phải là không hiếu thuận. Gọi là hiếu có 3 bậc:
1- Tiểu hiếu: phụng dưỡng cha mẹ.
2- Trung hiếu: quang tông, diệu tổ
3- Đại hiếu: độ cho cha mẹ siêu thăng.
Hoàng Bá độ cho mẹ siêu thăng là đại hiếu vậy.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 08 Aug 2012, 6:28 PM | Message # 300
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1491. Thấy sắc là thấy tâm.

Một ông tăng hỏi Huệ Chân:
- Thấy sắc là thấy tâm, chư pháp vô hình làm sao thấy?
- Một nhà có chuyện, trăm nhà bận rộn.
- Con không hiểu, xin thầy chỉ thị.
- 3 ngày sau coi lại.
(Công án thiền cơ)
Công án này nêu lên 2 vấn đề:
1- Kiến sắc tức kiến tâm, nhưng tâm vô hình làm sao thấy?
2- Khi có phiền não làm sao giải quyết?
Khi ngoại cảnh có nhân duyên tới, ta khởi tâm tương ứng thì A lại da thức sẽ phản ánh cảnh bên ngoài (thí dụ một ngọn núi). A lại da thức có công năng y tha khởi tánh (do cảnh bên ngoài mà khởi tự tánh) ở trường hợp này là kiến tánh, nếu ở ngoại cảnh là âm thanh thì tự tánh sẽ là văn tánh. Nhờ kiến tánh mà ta nhận biết hình ảnh trong A lại da thức là ngọn núi. Tiếp đó thức thứ 7 sẽ trắc lượng nó to, nhỏ. Thức thứ 6 sẽ phân biệt nó với các ngọn núi khác. Do đó mà sinh tâm. Bởi vậy mới nói kiến sắc là kiến tâm.
Thiền sư nói một nhà có sự là chỉ căn trần thức hòa hợp; trăm nhà bận rộn là chỉ 18 xứ khởi tác dụng sẽ sinh ra chư pháp.
Vấn đề thứ hai nếu ta giải quyết ngay thì sẽ khó tránh được sai lầm. Thiền sư bảo để 3 ngày sau sẽ coi lại. Phiền não phát sinh là do một nhân ở trong quá khứ, ta không thể thay đổi được. Nhưng nó cần có trợ duyên thì mới sinh ra quả phiền não được. Nhưng ta biết duyên có thể thay đổi bởi thời gian, không gian. Nên 3 ngày sau trở lại thì duyên đã biến đổi có thể không tạo ra quả nữa, hoặc có tạo thì cũng là một quả mới không phải là quả cũ.

1492. Tham gần đừng tham xa.

Lúc trước, có một ông tăng tham thoại đầu “Mặt mũi lúc cha mẹ chưa sanh là thế nào?” Tham đã nhiều năm mà vẫn chưa khai ngộ. Về sau gập một vị đại đức bèn xin vị này từ bi chỉ thị phương tiện. Đại đức hỏi :
- Ông Tham thoại đầu nào?
- Tôi tham thoại đầu “Mặt mũi lúc cha mẹ chưa sanh là thế nào?”
- Ông tham quá xa, hãy tham gần hơn.
- Làm sao tham gần?
- Không cần biết mặt mũi lúc cha mẹ chưa sanh, hãy tham khi một niệm chưa sanh thì sao?
Ông tăng ngay đó đại ngộ.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Chúng ta thường coi Đạo là xa vời, ngộ đạo khó khăn. Đạo không ở đâu xa, ngay trước mắt. Khi ngôn ngữ chưa hình thành, một niệm còn chưa sanh chính tại lúc đó hồi quang “là cái gì?” nếu mãnh tỉnh, thì đó là ngộ đạo.

1493. Kiếm sắc.

Một ông tăng hỏi Toàn Hoát:
- Kiếm sắc trảm thiên hạ, ai là người bị chém?
- Ám (tối tăm)
Ông tăng lại hỏi nhiều câu nữa. Thiền sư bảo:
- Tên độn căn này! Đi ra!
(Công án thiền cơ)
Ý của ông tăng là bát nhã chặt đứt những gì? Thiền sư trả lời ám, là chỉ những trần cấu trong tâm. Khi tâm đã trừ hết mọi tập khí rồi thì tự tánh sẽ hiển hiện. Thể của tự tánh là không, nó tự tại, vô ngại, đầy đủ công đức vô lậu, không tham, sân, si, mạn, nghi. Chúng ta phải làm sao để được minh tâm kiến tánh? Khi chùng ta không khởi một niệm (không nghĩ thiện, không nghĩ ác) còn có một cái giác tri, cái giác tri đó chính là tự tánh. Chúng ta nhận biết được cái giác tri đó thì gọi là kiến tánh.

1494. Đạo thường.

Nghiêm Dương tôn giả trên đường gập một ông tăng, giơ gậy chống lên hỏi:
- Là cái gì?
- Không biết.
- Một cây gậy chống cũng không biết?
Nghiêm Dương hạ gậy xuống, chọc đất một hồi, lại hỏi:
- Còn biết không?
- Không biết.
- Một lỗ đất cũng không biết.
Lại vác gậy lên vai, hỏi:
- Hiểu không?
- Không hiểu.
- Cầm ngang gậy cau đi vào nơi ngàn vạn núi.
(Thiền tông trí tuệ dữ phong tư)
Nếu đã không biết thường thì làm sao biết vật thường (gậy chống), sự thường (lỗ đất), thường hành (gánh). Nhưng một khi đã biết, thì tất cả đều quay về thường đạo

1495. Mạt hậu cú.

Một hôm, một ông tăng đến thỉnh Ích Ngũ Tổ Diễn:
- Thế nào là mạt hậu cú? (câu nói sau cùng)
- Sư huynh ngươi hiểu “mạt hậu cú”, ngươi đi tìm hắn mà hỏi.
Ông tăng y lời đến gập sư huynh gập lúc sư huynh đi núi về đang rửa chân, bèn hỏi:
- Thế nào là “mạt hậu cú?”
Sư huynh vốc nước rửa chân, rửa mặt, hỏi:
- Mạt hậu cú cái gì?
Ông tăng trở lại vừa khóc, vừa mách tổ.
- Ta nói ngươi biết hắn biết mạt hậu cú!
Ông tăng ngay đó đại ngộ.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Ông tăng này không phải là một người thường. Ông là một bậc anh tài dám vuốt râu cọp, cùng đại tông sư pháp chiến. Từ công án trên chúng ta có thể rút ra mấy điểm sau:
1- Ngộ đạo không khó, chỉ cần coi tất cả cảnh vật như hoa trong không, như trăng trong nước, không thể nắm bắt. Tâm không, không ô nhiễm, không thủ, không xả.
2- Khi công phu tâm có thể thâu, có thể phóng. Trong sinh hoạt hàng ngày linh hoạt vận dụng, luôn phản tỉnh, phản chiếu.
3- Thấy Đạo rồi thì bảo nhiệm chu đáo, bảo nhiệm mà không trụ vào đâu phải như Quy Tông nói “như mắt có một hạt bụi, không hoa rơi loạn” (hạt bụi dụ cho bảo nhiệm) Còn chấp vào bảo nhiệm thì vẫn chưa được giải thoát.


Đại Bi Chú
 
FORUM » TRANG PHẬT GIÁO » TRUYỆN PHẬT GIÁO » Những đoá hoa Thiền (Dịch gỉa: Dương Đình Hỷ)
Search:


TỰ-ĐIỂN TRỰC-TUYẾN :

Từ Điển Online
Bấm vào dấu V để chọn loại Tự-Điển
Gõ Chữ muốn tìm vào khung trắng dưới đây:
Xong bấm GO