Chủ Nhật
05 May 2024
11:52 AM
ĐĂNG NHẬP


Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

[ BÀI VIẾT MỚI · Forum rules · TÌM KIẾM · RSS ]
FORUM » TRANG PHẬT GIÁO » TRUYỆN PHẬT GIÁO » Những đoá hoa Thiền (Dịch gỉa: Dương Đình Hỷ)
Những đoá hoa Thiền
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 13 Jul 2012, 4:40 PM | Message # 101
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
476 Bất động Đạo tràng.

Nham Tuấn đến tham phỏng Đầu Tử. Đầu Tử hỏi:
- Tối qua ngươi ngủ ở đâu?
- Ở Bất Động Đạo Tràng.
- Nếu đã nói bất động sao còn đến đây?
- Đến đây chả lẽ lại là động sao?
- A! nguyên lai ngủ ở nơi chẳng chấp.
(Thiền Cơ)

Bất Động đạo trường và nơi chẳng chấp đều chỉ tự tánh.

477 Người xuất gia.

Một hôm, Dũng Tuyền ăn cơm không mặc cà sa. Một ông tăng hỏi:
- Thế này chẳng là biến thành người tục hay sao?
- Chả lẽ bây giờ lại là người xuất gia?
(Thiền Cơ)

Ông tăng còn chấp mặc hay không mặc cà sa, người xuất gia và người tục. Câu nói của thiền sư là để phá cái chấp sai biệt ở hiện tượng giới này cho ông.

478 Xem Kinh Hoa Nghiêm.

Tĩnh Huệ hỏi Đạo Tiềm:
- Ngoài tham thỉnh ra, ngươi còn xem kinh gì?
- Xem Kinh Hoa Nghiêm.
- Tổng, biệt, đồng, dị, thành, hoại, 6 tướng trên nắm lấy cái nào?
- Ở thập địa phẩm nói "Các pháp đều gồm 6 tướng.”
- "Không" còn có 6 tướng không?
Đạo Tiềm không đáp được, Tĩnh Huệ bảo:
- Ngươi hãy hỏi ta
- "Không" còn có 6 tướng không?
- "Không.”
Đạo Tiềm đại ngộ, Tĩnh Huệ hỏi:
- Ngươi hiểu thế nào?
- "Không.”
Tĩnh Huệ ưng chịu.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

6 tướng là Dụng không phải là Thể. Chân như một pháp chẳng lập huống hồ là 6, cho nên Tĩnh Huệ đáp “không.” Đạo Tiềm lấy "không" mà ngộ. Không thấy một pháp tức là Như Lai, cho nên gọi là Quán Tự Tại. Thấy cái vô sở kiến, thì bất kỳ hình tượng nào cũng không thể trói buộc được.

479 Thanh Nguyên Duy Tín.

Thanh Nguyên nói:
Lão tăng 30 năm trước lúc chưa tham thiền thấy núi là núi, thấy sông là sông. Về sau thân cận bậc thiện tri thức, có được chỗ vào, thấy núi chẳng phải núi, thấy sông chẳng phải sông. Nay vào chốn yên vui tịch tĩnh lại như lúc trước, thấy núi chỉ là núi, thấy sông chỉ là sông. (Hương Thủy Hải)

Câu "thấy núi là núi, thấy sông là sông" và câu "thấy núi chỉ là núi, thấy sông chỉ là sông" có điều nào bất đồng chăng? Chỗ bất đồng là ở cái Ngã.
Trong giai đoạn 1, vì lấy cái ngã lý giải mà quan sát. Tập quán khiến chúng ta đứng trên quan điểm chủ quan mà quan sát thế giới khách quan, Ngã là trọng tâm của thế giới, cái ngã tập quán từ cái ngã lập trường mà ra. Lấy vị trí, tư tưởng, lòng yêu ghét của ngã mà nhìn ngắm thế giới. Ngã tuy nhiên "thấy núi là núi, thấy sông là sông" kỳ thực thì chỉ thấy thế, không khế nhập vào núi, sông. Giữa ngã và núi sông còn ly cách.
Giai đoạn 2 , Thanh Nguyên nói "có được chỗ vào" là đã ngộ được chân lý thiền, là thể nghiệm được vạn vật đều không, phá được ngã chấp, biết được ngã hoặc núi sông chỉ là do duyên khởi mà tồn tại. Lúc đó, phủ định tất cả những chủ quan lúc trước. Do đó nói "thấy núi chẳng phải núi, thấy sông chẳng phải sông.”
Giai đoạn 3. "Không" không phải là một khách thể thuần nhiên không tiến vào một trạng thái viên mãn do đó núi sông, vạn vật theo bản lai diện mục hiển hiện trước mắt ta. Núi sông tự thân là 1 loại thực tại. Nó không phải là phản ảnh của ngã, nó cũng không phải là hình ảnh của không. Nó chỉ là núi thật, sông thật. Ngã không ở trong, không ở ngoài vì ngã là cái bản nhiên đó. Chúng ta có thể nói ba giai đoạn của Thanh Nguyên là quán sát, thể nghiệm, viên mãn. Đó là 3 giai đoạn của quá trình thiền ngộ.

480 Thượng thượng căn khí.

Một ông tăng hỏi Nam Viện:
- Người thượng thượng căn khí đến, thầy có tiếp không?
- Tiếp.
- Vậy sao, thỉnh thầy tiếp.
- Trước hết, lấy bình đẳng giao tiếp.
(Thiền Cơ)

Nhà Phật phân 3 hạng người: thượng, trung, hạ căn khí. Người thượng thượng căn khí, ngộ tánh cao, dễ dàng thấy tánh. Người hạ hạ căn khí ngộ tánh thấp thấy tánh khó. Khó,và dễ là do trình độ không đồng. Tự tánh mọi người đều bình đẳng. Ông tăng mời thiền sư tiếp là còn chấp khó, dễ. Câu trả lời của thiền sư ám chỉ chi bằng tự tánh tự tiếp.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 13 Jul 2012, 4:43 PM | Message # 102
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
481 Đệ nhất đẳng nhân đến.

Một hôm, Chân Định Suý Vương đến thiền viện. Triệu Châu ngồi yên trên thiền sàng không động, hỏi rằng:
- Đại Vương hiểu không?
- Không hiểu.
- Lão tăng từ nhỏ ăn chay đến nay, không có sức xuống thiền sàng.
Suý Vương nghe rồi càng trọng, cách ngày lại sai một vị tướng quân đến thăm. Triệu Châu liền xuống thiền sàng tiếp đón. Khi vị tướng quân đi rồi, thị giả thấy kỳ quái bèn hỏi:
- Hôm qua Suý Vương đến, thầy không xuống sàng, hôm nay tướng quân đến vì sao lại xuống sàng?
- Điều này ngươi không biết. Người đệ nhất đẳng đến ta tiếp ở thiền sàng, người trung đẳng đến ta xuống sàng tiếp, người mạt đẳng đến ta ra tận ngoài cổng tam quan đón.
(Thiền Cơ)

Thiền sư tuỳ theo căn khí, trình độ, trạng huống đối chứng mà cho thuốc.

482 Một hạt hoàn đơn.

Một ông tăng hỏi Chân Giác:
- Một hạt hoàn đơn điểm sắt thành vàng, một lời chí lý điểm phàm thành thánh, thỉnh thiền sư điểm.
- Ngươi có biết Tế Vân thiền sư điểm vàng thành sắt không?
(Thiền Cơ)

Ông tăng còn hướng ngoại tìm hoàn đơn và lời chí lý. Thiền sư bảo ông hoàn đơn phải tự cầu, lời chí lý phải tự chứng.

483 Mạt vàng vào mắt.

Một ông tăng hỏi Chân Giác:
- Mạt vàng tuy quý, nhưng rơi vào mắt không thấm được, phải làm sao?
- Thấm không được còn thấm sao?
(Thiền Cơ)

Mạt vàng tuy quý nhưng cũng nhưng cũng như hạt cát, rơi vào mắt chỉ khiến sinh bệnh, phải làm sao loại nó ra. Ở đây thiền sư bảo ông tăng pháp quý như mạt vàng, nhưng cũng phải bỏ, không thể chấp được.

484 A!

Một ông tăng hỏi Khế Như:
- Sanh tử đến, làm sao để tránh?
- Lệnh phù đến thì phải làm theo.
- Vậy là bị sanh tử bắt đi sao?
- A!
(Thiền Cơ)

Sanh tử thuộc về hiện tượng giới, ông tăng còn muốn tránh sanh tử là còn có phàm thánh đối lập. Thiền sư có thể trong sanh lìa sanh, trong tử lìa tử, phàm thánh vô ngại. Lời đáp của thiền sư 'Lệnh phù đến thì phải làm theo" khiến ông tăng hiểu lầm là thiền sư bị sanh tử bắt đi. Do đó, thiền sư kêu "A" ám chỉ giữa hai người không hợp cơ.

485 Dưới cầu Ma Giang.

Một ông tăng hỏi Đại Dung:
- Phật là gì?
- Dưới cầu Ma Giang, ngươi có hiểu không?
- Không hiểu.
- Trước chùa Thánh Thọ.
(Thiền Cơ)

Phật không đâu không có. Dưới cầu Ma Giang, trước chùa Thánh Thọ đều là Phật tánh hiện thành.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 13 Jul 2012, 4:47 PM | Message # 103
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
486 Hang chuột.

Tăng Chính vào phòng phương trượng hỏi Thuấn Phong:
- Phòng phương trượng vì sao tối đen như thế này?
- Vì là hang chuột.
- Thả mèo vào.
- Ngươi thả thử coi!
(Thiền Cơ)

Hang chuột chỉ tự tánh, mèo chỉ trần duyên. Thả mèo vào hang chuột, hang chuột vẫn là hang chuột.

487 Tướng mạo đường đường.

Hoàng Bá sau khi xuất gia, đến Thiên Đài Sơn học tập, sau lên Trường An. Một hôm đi khất thực trên đường đi qua một nhà nọ, bỗng thấy một bà lão chạy ra mắng:
- Đồ hòa thượng tham tâm!
- Tôi chưa hề lấy một vật gì của bà, sao lại bảo là tôi tham tâm?
- Cầu người ta thí xả không phải là tham tâm sao?
Hoàng Bá nghe lời nói có lý bèn cười. Bà lão thấy ông cười bèn đổi thái độ, mời vào nhà và cúng dường thức ăn. Nhân bà lão hỏi chuyện, Hoàng Bá bèn đem chuyện tu hành của mình kể hết cho bà nghe, bà lão bèn cho ý kiến. Hoàng Bá thấy ích lợi vô cùng bèn xin bà thâu làm đồ đệ. Nhưng bà lão bảo bà là người nữ sợ không tiện, nếu muốn tìm minh sư hãy đến kiếm Bách Trượng. Hoàng Bá nghe lời bèn đến gập Bá Trượng. Bá Trượng hỏi:
- Người tướng mạo đường đường từ đâu tới?
- Người tướng mạo đường đường từ Lãnh Nam tới.
- Người tướng mạo đường đường tới làm gì?
- Người tướng mạo đường đường tới không vì việc khác.
(Thiền Tông Dật Sự)

Trước mặt thiền sư Bách Trượng mà xưng mình là tướng mạo đường đường, Hoàng Bá thật là một người thuần phác, thú vị.' Không vì việc khác" là nói tới nơi chỉ muốn thành Phật, không vì chuyện gì khác cả.

488 Gập trà thì uống, gập bữa thì ăn.

Khai Sơn Tổng Trì Tự Vinh hòa thượng (1268-1325) nghe sư phụ là Triệt Thông hòa thượng (1232-1309) giảng công án bình thường tâm là Đạo (xem công án số 1085) hoát nhiên đại ngộ. Bèn lớn tiếng reo hò:
- Con ngộ rồi.
Triệt Thông hỏi:
- Ngộ thế nào?
- Côn Lôn tối đen đi trong đêm.
- Chưa được, hãy nói lại.
- Gập trà thì uống, gập bữa thì ăn.
Triệt Thông gật đầu, mỉm cười nói:
- Sau này ngươi nhất định dương cao tông phong.
Nói rồi bèn cấp ấn khả.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Côn Lôn tối đen đi trong đêm là nói ném một quả cầu sơn đen trong đêm tối là chỉ Chân Không Vô Tướng, bình đẳng (tất cả mọi sai biệt đều bị loại bỏ trở thành vô tâm, vô ngã cảnh giới). Nếu đã ngộ được tâm bình thường là Đạo thì gập trà uống trà, gập bữa thì ăn nhưng nếu thiếu "Côn Lôn tối đen đi trong đêm" (chỉ thiền định tam muội) thì không thể đạt tới cảnh giới chân chính của thiền giả.

489 Đạo nhân.

Hoàng Bá nói:
- Biết trăm loại chẳng bằng cầu điều chót hết. Đạo nhân là vô sự nhân, chẳng cần phải quanh co, cũng không có đạo lý gì có thể nói.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Vô sự là chỉ tâm vô sự. Sự đến thì ứng, sự đi không giữ. Tất cả đều mặc tự nhiên, không tính toán, không bắt buộc. Đó là điều tất yếu của nhà Thiền. Sư cũng có nói tu lục độ vạn hạnh là có Phật thứ tự. Nhưng tâm ngộ thì thấy không có diệu pháp nào để được. Đó là chân Phật. Phật và chúng sanh đều là một tâm không khác. Hướng ngoại cầu Phật, chấp tướng tu hành đều là ác pháp, không phải là đạo Bồ Đề. Cúng dường mười phương Phật chẳng bằng cúng dường 1 đạo nhân vô tâm.

490 Siêu việt hình tượng.

Phó đại sĩ nói:
- Có một vật có trước thiên địa, vô hình vốn tịch liêu, có thể làm chủ vạn vật, chẳng đuổi theo bốn thời mà tàn.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Nó có trước thiên địa, lại còn tồn tại sau bốn thời: là sung mãn thời gian, làm chủ vạn vật là sung mãn không gian, nhưng lại tịch liêu vô hình vì vậy không thể tìm nó trong thời không. Gọi nó là tự tánh. Tâm Kinh nói nó "vô trí diệc vô đắc.” Vô trí là siêu việt tri kiến, vô đắc là siêu việt hình tượng (vì những gì có được đều có hình tượng).



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 13 Jul 2012, 4:51 PM | Message # 104
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
491 Cái búa của Nham Đầu.

Một hôm Đức Sơn bảo Nham Đầu:
- Ta có 2 thiền sinh ở đây đã lâu, ngươi hãy đi xem họ thế nào?
Nham Đầu vác búa đến lều 2 ông tăng đang ngồi thiền. Nham Đầu giơ búa lên nói:
- Nếu các ngươi nói một lời ta sẽ chặt đầu, nếu không nói gì ta cũng chặt đầu.
Hai ông tăng vẫn tiếp tục ngồi thiền như không có chuyện gì. Nham Đầu vứt búa xuống và nói:
- Các ngươi thực là những thiền sinh chân chánh.
Ông quay về Đức Sơn và thuật lại câu chuyện. Đức Sơn nói:
- Ta biết ý ngươi nhưng ý họ thì sao?
- Động Sơn có thể chấp nhận họ nhưng Đức Sơn thì không.
(Zen Koans)

Nham Đầu là đệ tử của Đức Sơn và chuyện Nham Đầu khám phá 2 ông tăng là một trắc nghiệm cho chính ông. Khi Đức Sơn hỏi, câu trả lời của Nham Đầu có vẻ châm biếm. Động Sơn (một thiền sư hiền từ, hòa nhã) có thể chấp nhận, nhưng Đức Sơn (nổi tiếng là thô bạo vì dùng gậy đánh) sẽ không chịu. Nếu đánh mà có thể giác ngộ thì những con ngựa kéo xe đều là Phật cả. Nham Đầu thử thách lại sư phụ. Ông chủ có khi bị chó cắn lại. Rõ ràng là có 2 trường phái sai biệt trong thiền học.

492 Bảo Thọ xoay lưng.

Một hôm, Triệu Châu đến thăm Bảo Thọ. Bảo Thọ thấy Triệu Châu đến bèn xoay lưng lại. Triệu Châu trải tọa cụ và sửa soạn lạy Bảo Thọ. Bảo Thọ đứng dậy về phòng. Triệu Châu nhặt tọa cụ và bỏ đi.
(Zen Koans)

Đây là một công án không lời rất thử thách. Thấy Triệu Châu đến, Bảo Thọ bỏ đi không một lời giải thích. Triệu Châu rất tự nhiên, trải tọa cụ mà các ông tăng thường mang theo mình, sửa soạn lễ như thông lệ. Nhưng Bảo Thọ nhỏm dậy và bỏ về phòng. Triệu Châu đáng nhẽ phải thắc mắc 'phải có một ý nghĩa sâu xa nào đó cho việc này", lại chỉ thu dọn tọa cụ và bỏ đi. Triệu Châu tự nhiên như một trận gió thổi qua cành thông, hay như bóng theo vật, vang theo tiếng. Đến và đi, là một tác động bình yên. Triệu Châu giống như một người đi câu cá, gập mưa, khoác áo tơi, trở về nhà không buông cần câu. Một ngày như vậy đó.

493 Bách Linh và Bàng Uẩn.

Một hôm, Bách Linh gập Bàng cư sĩ ở trên đường bèn hỏi:
- Câu đắc lực của Nam Nhạc có chỉ cho ai không?
- Có.
- Ai được?
Bàng cư sĩ chỉ vào mình:
- Bàng công.
- Thực là diệu đức không sinh, khen ngợi chẳng kịp.
- Câu đắc lực của Nam Nhạc ai biết được?
Bách Linh không trả lời, đội nón lên đầu đi thẳng.
- Hãy bước cẩn thận!
Bàng cư sĩ gọi với theo, nhưng Bách Linh vẫn tiếp tục đi không ngoảnh cổ lại.
(Zen Koans)

Bách Linh và Bàng Uẩn luôn thử thách nhau về Thiền. Trong công án này họ luận về sự hiểu biết tánh không của Nam Nhạc. Câu đắc lực của Nam Nhạc chỉ mọi sự việc luôn thay đổi, không có gì là vĩnh viễn.
Khi ta xác nhận một sự việc gì thì trong thực tại nó đã thay đổi rồi không còn là như vậy nữa. Chân lý ngày hôm qua không phải là chân lý bây giờ.
Trong đối thoại Bách Linh hỏi Bàng Uẩn có ai thực chứng những gì Nam Nhạc nói không? Bàng Uẩn đáp có, chính ông đã tự chứng. Rồi Bách Linh chọc quê Bàng Uẩn bằng cách khen ngợi. Cuối cùng Bàng Uẩn hỏi sự hiểu biết của Bách Linh. Bách Linh bầy tỏ bằng cách bước đi không nói lời gì. Nhưng thực ra 2 người trên, ai thực sự hiểu Thiền?

494 Thần thông.

Thạch Đầu hỏi Bàng cư sĩ:
- Gần đây, thường ngày ông làm gì?
Bàng cư sĩ trả lời bằng một bài kệ:


日用 事 無 別
Nhật dụng sự vô biệt
惟吾 自 偶 偕
Duy ngô tự ngẫu giai
頭頭 非 取 捨
Đầu đầu phi thủ xả
處處 勿 張 乖
Xứ xứ vật trương quai
朱紫 誰 為 號
Chu tử thùy vi hiệu
丘山 絕 點 埃
Khâu sơn tuyệt điểm ai
神通 並 妙 用
Thần thông tịnh diệu dụng
運水 與 搬 柴
Vận thủy dữ ban sài.

龐 居 士
Bàng cư sĩ

Nhật dụng không gì khác
Mình ta, ta hòa chung
Việc việc không nắm bỏ
Nơi nơi chẳng trệ ngưng
Đỏ tía ai còn bảo
Đồi núi bặt bụi hồng
Xách nước là diệu dụng
Bửa củi ấy thần thông.

(Trúc Thiên dịch)
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Dưới con mắt của Bàng cư sĩ xách nước, bửa củi đều là thần thông nghĩa là thần thông cũng đồng dạng với bình phàm.
Tam tổ Tăng Xán cũng nói trong Tín Tâm Minh 'Lục trần bất ác, hoàn đồng chính giác.”
Duy có sáu trần, nhưng nếu không khởi ác niệm thì đó tức là Bồ Đề.

495 Chẳng lìa ly tấc.

Diệu Không hỏi một ông tăng mới đến:
- Gần đây ngươi lìa địa phương nào mà tới?
- Chẳng lìa ly tấc.
- Chẳng dễ gì tới.
- Chẳng dễ gì tới!
Thiền sư bèn tát cho ông một cái.
(Thiền Cơ)

Chẳng lìa ly tấc là chẳng lìa tự tánh.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 15 Jul 2012, 7:59 PM | Message # 105
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
496 Lão Bảo Ứng không có nhà.

Bảo Ứng hỏi một ông tăng mới đến:
- Ngươi vừa từ đâu lại?
- Tang Châu.
- Đến làm gì?
- Đến bái phỏng thiền sư.
- Gập lúc lão Bảo Ứng không có nhà.
Ông tăng bèn hét, thiền sư nói:
- Đã nói cho ngươi biết không có nhà, còn hét làm gì?
Ông tăng lại hét, thiền sư hươi gậy đánh. Ông tăng bèn lạy tạ. Bảo Ứng bảo ông:
- Gậy này đáng nhẽ là ngươi đánh ta, ta lại đánh ngươi năm, ba gậy, mong chuyện này lưu hành.
(Thiền Cơ)

Ông tăng lại bái phỏng thiền sư,chỉ thấy thân xác của thiền sư chứ không thấy lão Bảo Ứng (tự tánh). Câu hỏi của Bảo Ứng là chỉ ông tăng phải tự mình kiến tánh.

497 Đàm Tạng.

Đàm Tạng nuôi một con chó khôn. Một hôm đi kinh hành, con chó cắn áo sư, sư liền về phòng. Nó nằm phục bên ngoài cửa mà sủa, dạng mạo dữ tợn. Quả thực bếp phía Đông có một con mãng xà dài mấy trượng, há mồm phì ra khí độc. Thị giả thỉnh sư tạm lánh. Thiền sư bảo:
- Chết có thể trốn được sao? Nó lấy độc mà đến, ta lấy lòng từ mà nhận. Độc không có thực tánh, ngăn lại thì nó càng mạnh hơn. Lòng từ cẩu thả, vô duyên thì sẽ oan một mạng.
Nói xong, con mãng xà cúi đầu bò đi, không thấy nữa.

Lại một chiều khác, có một bọn cướp đến, con chó lại cắn áo sư. Sư nói với bọn cướp rằng:
- Am cỏ có gì các ngươi muốn thì cứ việc lấy đi, ta không hề tiếc.
Bọn cướp nghe nói cảm động, bỏ đi.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Chết đã không thể trốn được thì sanh có gì phải tiếc. Đạo lý này biết thì dễ nhưng làm thì lại rất khó. Đàm Tạng ở trong sanh tử, đắc thất mà không bị động nên biến hoàn cảnh hiểm ác thành an bình.

498 Sơn hà đại địa.

Phật Nhãn hòa thượng nói rằng:
- Thanh tịnh bản nhiên sao nói bỗng nhiên sinh sơn hà đại địa? Nếu đã sinh sơn hà đại địa làm sao trở lại thanh tịnh bản nhiên? Nếu đã trở lại thanh tịnh bản nhiên làm sao thấy sơn hà đại địa?
Sau đó lại hỏi:
- Thế là thế nào?

Rất lâu sau đó lại thêm:


水自 竹 邊 流 出 冷
Thủy tự trúc biên lưu xuất lãnh
風從 花 裏 過 來 香
Phong tòng hoa lý quá lai hương

Nước chẩy bên khóm trúc, lạnh
Gió từ khóm hoa tới, thơm.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Nước vốn không lạnh, lạnh là do trúc. Gió vốn không thơm, thơm là do hoa.
Cũng như tự tánh vốn không sai biệt, do thọ sáu trần mà bị ô nhiễm biến thành trần tướng.
Nhưng trong trần tướng có sanh có diệt cũng có tự tánh không sanh diệt.
Nước và lạnh, gió và thơm có thể hợp thành một không sai biệt. Nhưng ở tự tánh cầu sai biệt thì không thể được. Công án này thuyết minh vấn đề tập nhiễm vậy.

499 Phổ Chiếu.

Phần Dương Phổ Chiếu thiền sư và Long Đức phủ doãn Lý Hầu
là bạn cũ. Lý mời sư đến trụ trì ở Thừa Thiên. Sứ giả đến mời ba lần mà sư không chịu đi. Sứ giả bị phạt, đến thưa với sư:
- Nếu thầy không tới con sẽ bị tội chết!
- Ta bị bệnh chẳng muốn rời núi, nếu phải đi thì hoặc đi trước hoặc đi sau hà tất phải cùng đi.
- Thầy đã hứa rồi, thì trước sau tùy thầy lựa chọn.
Sư bảo đại chúng:
- Ta đi đây, ai theo được?
Một ông tăng bước ra thưa:
- Con theo được.
- Một ngày ngươi đi được mấy dặm?
- 50 dặm.
- Ngươi theo ta không được.
Một ông tăng khác bước ra thưa:
- Con theo được.
- Một ngày ngươi đi được mấy dặm?
- 70 dặm.
- Ngươi cũng không theo ta được.
Thị giả bước ra thưa:
- Con theo được, thầy tới đâu con tới đó!
- Ngươi theo lão tăng được.
Quay lại sứ giả, sư nói:
- Ta đi trước nhé!
Nói xong liền mất, thị giả đứng bên cũng mất theo.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Sư là vị cao tăng một thời, có thể ra đi một cách ung dung. Ngay cả thị giả cũng có thành tựu như vậy. Thực là dưới tay tướng mạnh, không có binh yếu.

499 Phổ Chiếu.

Phần Dương Phổ Chiếu thiền sư và Long Đức phủ doãn Lý Hầu
là bạn cũ. Lý mời sư đến trụ trì ở Thừa Thiên. Sứ giả đến mời ba lần mà sư không chịu đi. Sứ giả bị phạt, đến thưa với sư:
- Nếu thầy không tới con sẽ bị tội chết!
- Ta bị bệnh chẳng muốn rời núi, nếu phải đi thì hoặc đi trước hoặc đi sau hà tất phải cùng đi.
- Thầy đã hứa rồi, thì trước sau tùy thầy lựa chọn.
Sư bảo đại chúng:
- Ta đi đây, ai theo được?
Một ông tăng bước ra thưa:
- Con theo được.
- Một ngày ngươi đi được mấy dặm?
- 50 dặm.
- Ngươi theo ta không được.

Một ông tăng khác bước ra thưa:
- Con theo được.
- Một ngày ngươi đi được mấy dặm?
- 70 dặm.
- Ngươi cũng không theo ta được.
Thị giả bước ra thưa:
- Con theo được, thầy tới đâu con tới đó!
- Ngươi theo lão tăng được.
Quay lại sứ giả, sư nói:
- Ta đi trước nhé!
Nói xong liền mất, thị giả đứng bên cũng mất theo.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Sư là vị cao tăng một thời, có thể ra đi một cách ung dung. Ngay cả thị giả cũng có thành tựu như vậy. Thực là dưới tay tướng mạnh, không có binh yếu.

500 Lại Toản.

Hòa thượng Lại Toản ẩn cư trong một hang đá ở Hành Sơn. Đường Túc Tông rất ngưỡng mộ, đặc biệt phái sứ giả đến vời vào Hoàng Cung. Sứ giả đến trước hang kêu to:
- Thánh chỉ đến!
Lúc đó Lại Toản đang mải sao thuốc, không lên tiếng. Sứ giả không thấy động tịnh gì cả liền sai tiểu lại vào xem. Tiểu lại thấy hòa thượng nước mắt, nước mũi chẩy dòng dòng, mặt mũi nhem nhuốc đang sao thuốc bèn nói:
- Hòa thượng! Ngài hãy chùi mũi rồi nghênh tiếp thánh chỉ.
- Ta không rỗi hơi chùi mũi vì tục nhân.
Nói rồi lại tiếp tục sao thuốc.
(Hương Thủy Hải)

Câu chuyện này cho chúng ta thấy thiền sư thật tự tại, khí phách.


Đại Bi Chú

Message edited by LongTracAn - Chủ Nhật, 15 Jul 2012, 8:04 PM
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 15 Jul 2012, 8:03 PM | Message # 106
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
501 Tự tánh.

Hoàng Bá nói rằng:
- Cái tánh linh giác này từ vô thủy mà đến, thọ cùng hư không. Chưa hề sanh, chưa hề diệt, chưa hề có, chưa hề không, chưa hề bẩn, chưa hề sạch, chưa hề náo, chưa hề tĩnh, chưa hề trẻ, chưa hề già. Không ở nơi nào, không trong, không ngoài, không số lượng, không hình tướng, không sắc, không âm.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Cái linh giác này không thể dùng cảm quan mà tiếp xúc nhưng cái mà cảm quan tiếp xúc lại không lìa linh giác. Nghĩa là tự tánh không phải là hình tượng, nhưng lại không lìa hình tượng.

502 Không thể nói.

Thiền sư Hoa Lâm trú ở một tòa miếu lớn nhưng không có đồ đệ. Một hôm tể tướng Bùi Hưu đến bái phỏng, thấy miếu lớn mà không có người giữ, ngạc nhiên hỏi Hoa Lâm:
- Thầy không có đồ đệ sao?
- Có chứ.
- Họ ở đâu vậy, sao không thấy?
- Ta có hai đồ đệ, một tên Đại Không, một tên Tiểu Không.
- Thầy có thể kêu họ cho đệ tử gập mặt không?
- Chỉ sợ không tiện.
Nhưng Bùi Hưu cứ năn nỉ mãi, Hoa Lâm đành chấp nhận, bèn gọi lớn:
- Đại Không, Tiểu Không, mau ra tiếp khách!
Hai con hổ từ trong chạy ra. Bùi Hưu tuy là quan lớn nhưng mật nhỏ tỏ vẻ kinh sợ. Hoa Lâm bảo hai con hổ:
- Đồ đệ ngoan! Vị khách này chưa đủ khả năng đối diện các ngươi, mau vào đi!
Hai con hổ vẫy đuôi, gầm lên một tiếng rồi chạy vào sau miếu. Lúc đó, Bùi Hưu rất ngạc nhiên và hết lời tán thán, thưa với Hoa Lâm rằng:
- Sư Phụ, thầy tu theo pháp môn nào mà có thể cảm động được hai con hổ này?
Hoa Lâm nhắm mắt yên lặng, một lúc sau mở mắt ra hỏi Bùi Hưu:
- Ngươi hiểu không?
- Thầy còn chưa nói, làm sao con hiểu được?
- A! ta đã nói rồi, lại còn nói nhiều nữa, chỉ vì ngươi không hiểu mà thôi!
- Thầy thực chưa nói mà, xin thầy rủ lòng từ bi nói cho vài câu.
- A! ngươi thực là hạng độn căn, ta giảng cao siêu ngươi không hiểu nổi; thôi được! ta cứ phương tiện mà nói thôi. Hàng ngày, sau bữa ăn ta vào rừng tản bộ cho tiêu cơm. Cứ đi được bẩy bước ta lại giơ gậy lên niệm: Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, lại bước bẩy bước ta lại giơ gậy lên niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, hàng ngày ta đều niệm như vậy nên đã cảm động được hai con hổ này.
Bùi Hưu nghe rồi khen rằng:
- Thực hay quá! Thực hay quá!
(Sinh Hoạt Thiền)

Nhiều người đã từng niệm Phật, nhưng cũng chả thấy có cảm ứng gì, cho thấy niệm không phải là chìa khóa của vấn đề. Ở đây chính là lúc thiền sư nhắm mắt, không nói mới chính là thực tu, mới chính là Thiền. Nhưng như vậy là thế nào? Đó là cái không thể nói. Ngôn ngữ là dùng để miêu tả thế gian, nó có giới hạn, không thể miêu tả những trạng thái siêu việt thế gian, cho nên mới nói "Không thể nói.” Đức Phật trước khi nhập Niết Bàn đã từng nói " Ta đã thuyết pháp 49 năm rồi, nhưng ta chưa hề nói qua một chữ, một câu nào."

503 Vàng thật không sợ lửa.

Vân Cư (1582-1659) trụ trì Tùng Đảo Đoan Nghiêm Tự; mỗi đêm vào khoảng 12 giờ đến một hang núi ở Biện Thiên Đảo để ngồi thiền.
Trong làng có một thanh niên biết chuyện này, tìm cách dọa cho ông sợ. Anh ta trèo lên ngồi trên cành của một cây to mà Vân Cư phải đi qua. Khi ông đi qua, anh ta thò tay ấn xuống đầu ông.
Ông không tỏ vẻ sợ hãi, đứng yên tại chỗ. Khi anh ta rút tay lại, ông từ từ mà đi. Anh ta rất kính phục đảm lượng của ông. Ngày hôm sau, coi như không có chuyện gì xẩy ra, anh ta hỏi:
- Nghe nói hôm qua Thiên Cẩu xuất hiện (một loại yêu quái mặt đỏ, mũi dài trong truyền thuyết Nhật Bản). Không biết Hòa thượng có bị nó ấn đầu không?
- Đó chỉ là bọn trẻ trong thôn làm đó thôi!
- Sao thầy biết?
- Lại còn hỏi, tay ấn đầu ấm áp sao là tay quỷ được?
Thanh niên mắc cỡ, bèn hướng Hòa thượng xin lỗi.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Vàng thật không sợ lửa luyện mà càng phát sáng tươi đẹp, tương tự một thiền giả có minh nhãn, dù có gập tai nạn nào cũng không biến đổi.

504 Thông Tuệ.

Thông Tuệ lúc còn là sa di, sư phụ sai đi rửa chậu. Ngẫu nhiên có một người bán cá đi qua, một con cá nhẩy vọt vào chậu, bị quậy chết. Về sau làm trụ trì, một hôm nói với đại chúng rằng:
- Hai mươi năm trước một đoạn công án, hôm nay phải gánh rồi!
Đại chúng gạn hỏi duyên cớ, thiền sư chỉ nói:
- Đợi đến trưa sẽ biết.
Nói rồi ngồi kiết già đợi.
Lúc đó Trương Tuấn thống binh tới Quan Trung, một binh sĩ cầm cung tên đến pháp đường trợn mắt nhìn thiền sư định bắn. Thiền sư cười nói:
- Lão tăng đợi ngươi đã lâu lắm rồi!
- Chưa hề gập mặt, nay mới gập, tâm không ngăn được chỉ muốn giết là tại sao?
Thiền sư kể lại câu chuyện cũ, binh sĩ bèn đọc bài kệ:


寃寃 相 報 何 時 了
Oan oan tương báo hà thời liễu
刦刦 相 纏 豈 偶 然
Kiếp kiếp tương triền khởi ngẫu nhiên
不若 與 師 俱 解 釋
Bất nhược dữ sư câu giải thích
如今 立 地 往 西 天
Như kim lập địa vãng tây thiên

Oan oan tương báo bao giờ dứt?
Kiếp kiếp ràng buộc chẳng ngẫu nhiên.
Chi bằng cùng với sư giải thích
Ngày nay lập tức tới Tây thiên.

Nói rồi đứng mà hóa.

Thiền sư lấy bút viết bài kệ:


三十 三 年 飄 蕩
Tam thập tam niên phiêu đãng
做了 機 番 模 樣
Tố liễu cơ phiên mô dạng
誰知 今 日 相 逢
Thùy tri kim nhật tương phùng
卻是 在 前 變 障
Khước thị tại tiền biến chướng

Ba mươi ba năm loay hoay
Đã mấy phen làm mẫu mực
Đâu biết gập lại ngày nay
Là do nghiệp làm lúc trước.

Viết xong bèn hóa.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thaoại Thiền Tông)

Từ công án trên chúng ta rút ra được mấy điều:
1- Oan oan tương báo, nhân quả tuần hoàn, định nghiệp không trốn được.
2- Buông dao đồ tể, lập tức thành Phật là có thật.
3- Người ngộ đạo không bị sanh tử trói buộc.

505 Bài tụng Ngũ Vị Quân Thần của Động Sơn.

1/ Chánh Trung Thiên:


三更 初 夜 月 明 前
Tam canh sơ dạ nguyệt minh tiền
莫怪 相 逢 不 相 識
Mạc quái tương phùng bất tương thức
隱隱 猶 懷 舊 日 嫌
Ẩn ẩn do hoài cựu nhật hiềm.

Đêm tối, canh ba trăng rọi hiên
Lạ chi cùng gặp chẳng cùng biết
Ẩn ẩn vẫn còn ôm hận phiền.

2/ Thiên Trung Chánh:


失曉 老 婆 逢 古 鏡
Thất hiểu lão bà phùng cổ kính
分明 覿 面 別 無 眞
Phân minh địch diện biệt vô chân
休更 迷 頭 猶 認 影
Hưu cánh mê đầu do nhận ảnh.

Mất sáng lão bà tìm cổ kính
Rõ ràng đối diện đâu riêng chơn
Thôi chớ quên đầu theo nhận bóng.

3/ Chánh Trung Lai:


無中 有 路 隔 塵 埃
Vô trung hữu lộ cách trần ai
但能 不 觸 當 今 諱
Đãn năng bất xúc đương kim húy
也勝 前 朝 斷 舌 才
Dã thắng tiền triều đoạn thiệt tài.

Đường cái trong không cách trần ai
Chỉ hay chẳng chạm ngày nay kỵ
Đã thắng tiền triều cắt lưỡi tài.

4/ Thiên Trung Chí:


兩刄 交 鋒 不 須 避
Lưỡng nhẫn giao phong bất tu tị
好手 猶 如 火 裏 蓮
Hảo thủ do như hỏa lý liên
宛然 自 有 衝 天 志
Uyển nhiên tự hữu xung thiên chí

Hai kiếm đua nhau cần gì tránh
Tay khéo vẫn như lò lửa sen
Nguyên vẹn nơi mình xung thiên chí.

5/ Kiêm Trung Đáo:


不落 有 無 誰 敢 和
bất lạc hữu vô thùy cảm hoà
人人 盡 欲 出 常 流
Nhân nhân tận dục xuất thường lưu
折合 還 歸 炭 裏 坐
Chiết hiệp hoàn quy thán lý tọa

Chẳng rơi không có ai dám hòa
Người người trọn muốn vượt dòng thường
Tan hiệp trở về ngồi trong tro.

(Thích Thanh Từ dịch)

(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

1- Chánh Trung Thiên:
Đây là Thể Khởi Dụng, là cảnh tượng tưởng ngộ nhưng chưa ngộ, chưa tự tin, còn dư tập chưa chặt đứt.

2- Thiên Trung Chánh:
Đây là Dụng quay về Thể, là cảnh tượng sơ ngộ, tất cả đều tự hiện thành, ngộ là ngộ, không cần phải nghi, thâm nhập thức tâm.

3- Chánh Trung Lai:
Đây là có Thể không Dụng, đi vào chân không, phủ định tất cả trần cảnh, ngộ cảnh này không thể nói ra được bằng lời, chỉ có thể dùng tâm mà chứng.

4- Thiên Trung Chí:
Đây là Thể và Dụng cùng tới, là cảnh ngộ đoạn trừ tất cả phiền não, hiểu rằng Thể Dụng là một, có cảm giác siêu nhiên ngoài vật.

5- Kiêm Trung Đáo:
Đây là Thể Dụng đều tịch, là cảnh tượng Hữu và Vô đều không chấp.



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 15 Jul 2012, 8:10 PM | Message # 107
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
506 Đạt Ma giảng tâm.

Có hành giả hỏi tổ Đạt Ma:
- Nếu không lập văn tự, lấy gì làm tâm?
- Ngươi hỏi ta, đó là tâm ngươi; ta trả lời ngươi tức là tâm ta. Nếu ta không tâm thì lấy gì trả lời ngươi? Nếu ngươi không tâm thì lấy gì hỏi ta? Hỏi ta tức là tâm ngươi, từ vô thủy đến nay bất cứ lúc nào, chỗ nào đều là bản tâm của ngươi, bản Phật của ngươi. Tâm là Phật. Ngoài tâm này không có Phật nào khác. Phật là tiếng Tây Trúc, nơi đây (Trung Hoa) gọi là giác tánh. Giác là linh giác ứng cơ tiếp vật; dương mày chớp mắt, động tay, động chân đều là tánh của linh giác. Tánh tức tâm, tâm tức Phật, Phật tức Đạo, Đạo tức Thiền. Thiền không thể dùng phàm thánh đo lường được. Thấy bản tánh là Thiền. Nếu không thấy bản tánh thì không phải là Thiền vậy. (Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Từ lời nói trên của tổ sư, chúng ta thấy rằng Tâm, Phật, Đạo, Thiền tuy bốn mà một. Mục đích duy nhất của Thiền là thấy bản tánh. Động, nói, nhìn, nghe, ngửi, nếm, giác, biết đều là tự tánh khởi dụng. Nhưng phàm phu bị thức tâm chi phối cho nên không thấy tự tánh. Tiểu thừa thì rơi vào không tịch, đặt chân tâm vào chỗ vô dụng. Nếu có thể sanh tâm nhưng không trụ, có thể, có dụng, không rơi vào không, hữu thì đó mới là Tâm Linh Giác vô nhiễm. Ngộ Tánh Luận nói:
- Phàm phu sanh tâm gọi là Hữu, Tiểu Thừa diệt tâm gọi là Vô. Phật và Bồ Tát chưa hề sanh tâm hay diệt tâm, nên gọi là phi hữu, phi vô tâm, là trung đạo vậy.

507 Duy Ngã ĐộcTôn.

Vân Môn có một lần kể lại:
Thế Tôn lúc sanh ra một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, đi bẩy bước nói rằng:
" Trên trời, dưới trời chỉ có ta là hơn cả." Lúc đó, nếu ta thấy vậy liền dùng gậy đánh chết, vứt cho chó ăn thì thiên hạ được thái bình.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Thiền tông để phá trừ tướng Phàm Thánh, mắng Phật, mắng Tổ, coi thường như ăn cơm hàng bữa. Người nói lời độc địa nhất là Vân Môn. Câu nói của Thế Tôn là chỉ Pháp Thân, tuyệt đối đãi, ngoài ngã này không có một vật nào khác, còn gọi là Đại Ngã. Nếu không hiểu nghĩa này và cho đó là tiểu ngã Tất Đạt Đa (nếu ngài có tư tưởng độc tôn này) thì ngài đã có phàm thánh phân biệt. Chỉ những thiền sư đã chứng ngộ mới hiểu được, nếu như chỉ là Thiền ngoài miệng, do thức tâm mà phát ra lời mắng chửi, thì đó là pháp sanh diệt, còn rơi vào vòng nhân quả. Thiền tông có tinh thần siêu Phật, vượt Tổ, do đó không lập Phật Điện chỉ có Pháp Đường, mọi chỗ đều biểu thị tác phong bình đẳng khiến mọi người không có lòng tự ty, không mất đi tín niệm "Tức Tâm Tức Phật"; cũng không có lòng cống cao ngã mạn khinh thị người sơ học, mạt học không thể tinh tiến. Cả hai đều là chướng ngại. Có người cho mắng Phật, mắng Tổ là ung bướu của Phật Giáo. Đó là lấy thế pháp luận xuất thế pháp. Chúng ta có thể nói những người này là không có đầu óc. Nếu một người đã đọc qua kinh sách Phật quyết không có những lời vọng ngữ này.

508 Đồng tử rót trà.

Có một vị hòa thượng dẫn một đồng tử đến thăm Thuận Đức, thưa rằng:
- Đồng tử này thường hay hỏi Phật pháp, thỉnh thiền sư khảo nghiệm.
Thiền sư bèn bảo đồng tử rót trà. Đồng tử mang trà lại, thiền sư uống xong đưa chén trà cho đồng tử. Đồng tử bước lên đón. Thiền sư rụt tay lại hỏi:
- Còn nói được không?
- Xin thầy cứ hỏi!
Hòa thượng không nhịn được, xen vào hỏi:
- Thiền sư, không biết kiến giải của đồng tử thế nào?
- Chẳng qua chỉ là một ông tăng giữ giới.
(Thiền Cơ)

Đối với Thiền tông điều quan trọng nhất là kiến tánh. Đối với các tông giáo khác của Phật giáo thì điều quan trọng nhất là giữ giới luật. Kiến tánh và giữ giới chẳng có liên quan gì đến nhau. Khi Thiền sư hỏi "Còn nói được không?" Đồng tử trả lời "Xin thầy cứ hỏi.” Kỳ thực, bản lai diện mục lại còn cần người khác hỏi mình sao? Do đó, kết quả cuộc khảo nghiệm là "Chỉ là một ông tăng giữ giới.”

509 Quy Tông.

Giang Châu Quy Tông Khả Tuyên thiền sư sau khi ngộ đạo, trú ở Quy Tông, gập lúc Quách Công Phủ nhận chức quan thú ở Nam Xương. Hai người qua lại rất thân. Thiền sư bị quận thú sở tại áp bức, viết thư cho Quách Công Phủ:
- Đời này ta còn có duyên với ông sáu năm, nay bị quận thú áp bức, sẽ thác sinh vào nhà ông nếu ông thấy không có gì trở ngại.
Công Phủ vui vẻ gật đầu. Đêm đó phu nhân nằm mơ thấy thiền sư vào màn, thất thanh kêu lên:
- Đây không phải là chỗ hòa thượng vào được!
Công Phủ lay tỉnh và gạn hỏi. Phu Nhân kể lại giấc mộng. Công Phủ cười lấy thư cho xem. Phu nhân sau đó quả nhiên mang thai, khi sanh đặt tên là Tuyên Lão. Lớn lên nhớ rõ chuyện cũ. Sáu năm sau không bệnh mà mất.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Chuyện đầu thai có được nghe, nhưng đính ước trước khi đầu thai, sau khi sanh ra lại nhớ rõ truyện trước thì thật là hiếm, chỉ trừ những bậc đạt đạo mới có thể tự do như vậy.

510 Đạo chính ở công việc bình thường hàng ngày.

Đạo Khiêm khi chưa khai ngộ, tu học với Đại Huệ ở núi Kinh Sơn thuộc tỉnh Chiết Giang. Có một lần, Đại Huệ sai Đạo Khiêm mang một phong thư đến Trường Sa ở Hồ Nam. Lúc đó, giao thông bất tiện, từ Chiết Giang đến Hồ Nam đường xá xa xôi chỉ nhờ vào đôi chân, gian khổ thấy rõ. Đạo Khiêm rầu rĩ nhưng không giám trái lệnh, chỉ than thở:
- Ta tham thiền đã 20 năm rồi mà chưa ngộ, nay lại phải bôn ba trên đường, coi bộ việc tu hành đành bỏ.
Một đạo hữu là Tông Nguyên nghe được bèn an ủi:
- Đạo huynh đừng sợ, cứ đi đi, ta sẽ đi cùng với huynh cho có bạn.
Đạo Khiêm bất đắc dĩ phải lên đường. Đi được vài ngày không nhịn được, khóc với Tông Nguyên rằng:
- Ta một đời tham thiền, chưa thấy được gì, giờ lại phải bôn ba, làm sao ngộ đạo?
Tông Nguyên bèn nói:
- Ta đề nghị đạo huynh từ bây giờ bỏ hết những kiến thức đọc trong sách vở, những gì nghe được từ những vị thiền sư Viên Ngộ, Đại Huệ, cả những kinh nghiệm ngồi thiền trong 20 năm qua đều bỏ hết đi. Trên đường đi, có chuyện gì ta đều làm cho.
Đạo Khiêm rất vui mừng không ngờ lại có chuyện may như thế vội đáp:
- Tốt quá! Mọi chuyện phiền huynh giúp giùm.
Tông Nguyên lại nói:
- Chỉ có 5 chuyện ta không thể giúp cho đạo huynh được, mà huynh phải tự làm đó là: mặc áo, ăn cơm, đi tiêu, đi tiểu, đi đường.
Đạo Khiêm nghe nói giản dị như vậy, bất giác khoa chân, múa tay nói:
- Chuyện lúc trước: sở học, sở tu ta không quản nữa, bây giờ chỉ như vậy tới Trường Sa.
- Tốt lắm! bây giờ sư huynh có thể tự mình đến Trường Sa, ta phải trở lại Kinh Sơn.
Nửa năm sau, Đạo Khiêm từ Trường Sa trở về Kinh Sơn, Đại Huệ trông thấy, hoan hỉ nói rằng:
- Mừng cho ngươi, chuyến này đã thay đổi cả con người.
(Nhất Vị Thiền: Quyển Nguyệt)

Tông Nguyên dụng tâm đối bệnh cho thuốc thực là cao minh. Kỳ thực Đạo Khiêm tham thiền 20 năm mà chưa ngộ vì không bỏ được Tri Thức. Một khi bỏ được, từ những sinh hoạt bình thường hàng ngày mà thể ngộ. Dần dần, cơ duyên chín mùi chỉ cần một người chỉ cho thì ba cửa đều không, tự mình xúc duyên mà ngộ, đó không phải là chuyện khó khăn. Việc sinh hoạt phải tự mình, ngộ đạo cũng không thể do người. Điều trọng yếu là dùng tâm bình thường mà sinh hoạt, không tu mà tu.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 15 Jul 2012, 8:14 PM | Message # 108
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
511 Nam Tuyền bác bỏ tu sĩ và cư sĩ.

Một ông tăng trẻ đến gập Nam Tuyền nhưng không vái chào theo thường lệ. Nam Tuyền phê bình:
- Ngươi quá cư sĩ!
Ông tăng bèn chắp hai tay lại vái chào, Nam Tuyền bảo:
- Ngươi quá tu sĩ!
Ông tăng không biết sau đó phải làm sao. Một thiền sư khác khi nghe được chuyện này bèn nói:
- Nếu ta là ông tăng đó, ta sẽ buông thõng hai tay và lui ra.
(Zen Koans)

Những người trẻ thường hay phá phách, những thiền sinh trẻ ngày xưa cũng không ngoại lệ. Ông tăng trẻ trên thử thách thầy không theo sự chào hỏi thường lệ. Ông ta nghĩ rằng ông ta có thể tự do làm bất cứ việc gì không bị trói buộc bởi luật lệ. Nhưng sự tự do khác với tự do đối với một sự gì. Con người từ khởi thủy đã tự do, chỉ vì chấp nên bị trói buộc. Nếu một người không chấp vào một cái gì cả thì không bị trói buộc. Lúc đó luật tắc không bao giờ làm phiền ông. Đến và đi, vái chào hay thối lui không có gì khác biệt đối với người tự do.

512 Giảng pháp.

Thiền sư Nghĩa Trung lên giảng đàn. Một cư sĩ bước ra rồi đi từ Đông sang Tây. Một ông tăng cũng bước ra và đi từ Tây sang Đông.
Nghĩa Trung bảo:
- Cư sĩ hiểu thiền, còn ông tăng thì không.
Cư sĩ bước lại gần thiền sư và nói:
- Con cám ơn Thầy đã chấp nhận.
Trước khi dứt lời, ông đã bị thiền sư đánh một gậy.
Ông tăng lại gần và thưa:
- Xin Thầy chỉ dạy.
Ông cũng bị thiền sư đánh một gậy.
Nghĩa Trung hỏi:
- Ai kết luận công án này?
Đại chúng không ai trả lời được. Thiền sư hỏi thêm hai lần nữa nhưng vẫn không có một câu đáp.
- Vậy, để ta.
Thiền sư ném thiền trượng xuống đất và trở về phòng.
(Zen Koans)

Phương cách truyền pháp của Thiền tông là lấy Tâm ấn Tâm, luôn luôn giản dị và trực tiếp,mặc dầu nó có vẻ kỳ lạ và phi lý. Cư sĩ và ông tăng đều diễn tả sự hiểu biết của mình. Thiền sư bảo cư sĩ hiểu còn ông tăng thì không. Nhưng khi cư sĩ cám ơn, ông bị đánh vì chấp vào sự chấp nhận. Ông tăng lo tìm sự giác ngộ cũng bị đánh. Thiền sư không bao giờ ngần ngại nghiền nát sự chấp trước của thiền sinh vì phần lớn những rắc rối và đau khổ của cuộc đời đều do chấp trước. Chấp vào sự thuận lợi là tham, chấp vào điều nghịch là sân và nguyên nhân của chấp là si. Tham, sân, si là ba chất độc của cuộc đời.

513 Trị sự tăng.

Hưu Tĩnh là một ông tăng trị sự của Thiền viện Lạc Phổ. Một hôm ông ra lệnh:
- Chư tăng từ hàng đầu đến hàng giữa ra đồng làm việc, những hàng còn lại lên núi nhặt củi.
Viện chủ hỏi:
- Còn Văn Thù thì sao?
- Lệnh của con chỉ áp dụng cho chư tăng, còn Văn Thù không ăn nhậu gì đến chuyện này.
Về sau, Viên Ngộ phê bình đoạn đối thoại trên như sau:
- Nếu ta bị Viện chủ hỏi vậy ta sẽ trả lời: Đạo giống như cái gương, không động nhưng phản chiếu tất cả những gì tới nó.
(Zen Koans)

Trong các Thiền đường thường có tượng hay tranh của Văn Thù hoặc Bồ Đề Đạt Ma. Khi Hưu Tĩnh phân chư tăng thành hai nhóm để làm việc cho có hiệu quả, Viện Chủ hỏi còn Văn Thù thì làm gì? Hưu Tĩnh trả lời Văn Thù làm việc của ngài, như mặt trời chiếu sáng. Là vị trị sự tăng, ông phân phối công việc cho chư tăng không liên quan gì đến Văn Thù. Mỗi người làm việc riêng của mình không vì bổn phận hay kiêu hãnh. Một cây thông mọc ở ghềnh đá phô bầy những lá xanh trong tuyết. nó không có ý định trình diễn vì lá xanh là biểu thị đời sống của nó. Ở Nhật Bản cây Mận nở hoa vào tháng hai dù trời tuyết. Hoa mận nở dưới trời tuyết vì bản chất của nó như vậy chứ không phải là trình diễn sự bạo dạn. Như Viên Ngộ phê bình, Đạo giống như tấm gương phản chiếu. Nếu A tới thì nó phản chiếu A, nếu B tới thì nó phản chiếu B. Nó tác động khi có sự hiện diện của Nhân và Duyên. Không có tính nhân tạo hay ngã trong sự phản chiếu này. Thật tốt khi phản ánh sự vật như chính nó. Tấm gương của người ích kỷ phản ánh dục vọng và chấp trước. Vì Vậy, tấm gương phải nên phá bỏ rồi ta sẽ được
hoàn toàn tự do.

514 Hậu tục tử.

Sau khi bị bà lão đuổi đi (Xem công án 227) ông tăng đi khất thực ba năm, sau đó lại quay về xin bà lão cho nhập thất. Ít năm sau, cô gái cũng y theo lần trước ôm lấy ông và hỏi:
- Thầy thấy thế nào?
Ông tăng đáp:
- Trời biết, đất biết, cô biết, ta biết nhưng đừng nói cho bà lão biết.
Bà lão nghe được câu nói ấy rất mừng nói với ông tăng rằng:
- Mừng thầy đã ngộ!
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Câu nói trước của ông tăng (công án số 227) chỉ sự thanh bạch, không nhiễm bụi trần là một vị Liễu Hạ Huệ khó kiếm. Câu nói trong công án này chỉ tâm nội chứng. Trời biết, đất biết chỉ không linh giác tánh, đừng nói cho bà lão là chỉ không thể nói được.

515 Giận dữ.

Thản Sơn tính tình phóng lãng không câu nệ tiểu tiết, uống rượu, hút thuốc đều chẳng từ. Vân Thăng trái lại rất trang trọng, ít khi nói cười. Một hôm, Thản Sơn đang uống rượu trong phòng, gập lúc Vân Thăng đi qua, Thản Sơn bèn mời Vân Thăng cùng uống. Vân Thăng cự tuyệt. Thản Sơn bảo:
- Ngay rượu cũng không uống, thật chẳng giống người!
- Ngươi dám chửi người sao?
- Ta không chửi ngươi!
- Ngươi vừa nói rượu cũng không uống thật chẳng giống người, đó không phải là chửi ta sao?
- Ngươi thật chẳng giống người!
- Được, ngươi chửi ta chẳng giống người, vậy giống gì ngươi hãy nói mau!
- Giống Phật.
(Thiền, Sinh Hoạt Đích Vi Tiếu)

Giận dữ làm người ta mất bình tĩnh, không thể suy nghĩ, không thể đè nén mình. Do đó, các thiền sư rất coi trọng tu sửa giận dữ.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 15 Jul 2012, 8:17 PM | Message # 109
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
516 Củ cải Trấn Sơn nặng ba cân.

Có ông tăng hỏi Thủ Sơn:
- Thế nào là Tâm của Cổ Phật?
- Củ cải Trấn Châu nặng ba cân.
(Thiền Cơ)

Tâm của Cổ Phật chỉ tự tánh. Tự tánh ở đâu cũng có, Trấn Châu, củ cải, ba cân đều là tự tánh.

517 Bồn hoa sen.

Văn Ích sai một ông tăng đi lấy đất cho thêm vào bồn sen. Ông tăng lấy đất đem về. Văn Ích hỏi:
- Ngươi lấy đất ở phía Đông hay phía Tây cầu?
- Ở phía Đông.
- Là chân thật hay là hư vọng?
(Thiền Cơ)

Nói phía Đông cầu, phía Tây cầu là có sai biệt. Ở hiện tượng giới sự sai biệt này là thực, nhưng ở bản thể giới sai biệt là hư vọng.

518 Giải thoát.

Càn Phong hỏi đại chúng:
- Phải có con mắt nào để thoát khỏi lục đạo luân hồi?
(Zen Koans)

Những chúng sanh nào chưa giác ngộ đều phải luân hồi trong sáu đường Địa Ngục (Khổ), Ngạ Quỷ (Tham), súc sanh (Si), Atula (sát), Người (sướng, khổ), Trời (chỉ có sướng) Đường thứ bẩy là Phật giới (không còn khổ nữa). Càn Phong hỏi Đại chúng các người phải luân hồi trong lục đạo có con mắt nào? Họ không có mắt. Lòng si mù quáng làm họ sống trong tham lam và đau khổ. Thiền dạy thực tại vượt lên lý luận. Sự việc đơn giản là không có tốt hay xấu. Mỗi đường có một con mắt riêng. Thế giới Atula có con mắt hiếu sát, súc sanh có con mắt ngu si. Con mắt của người nông phu là trồng trọt, của thương gia là buôn bán. Những con mắt này là trở ngại, phải quên đi. Tình yêu chân thật phải quên chữ tình yêu. Lửa thì nóng, nước đá thì lạnh; ta bà là niết bàn; niết bàn là ta bà (không có sự giác ngộ ngoài cuộc đời). Con mắt thiền là nhìn sự vật như chính nó, không yêu, không ghét, không có kẻ thù, không có đồng minh.

519 Chuyện khó.

Chuyện khó mới thấy tâm trượng phu.
Tuyết ngưng mới hay tùng bách nhẫn.
(Hư Đường Lục)

Khi gập trường hợp khó khăn, con người mới phát huy được tiềm lực của mình cũng như sau cơn phong ba bão tuyết mới thấy được sức chịu đựng của cây tùng, cây bách.

520 Dỡn sư tử.

Dược Sơn hỏi Vân Nham:
- Nghe nói ngươi biết dỡn sư tử phải không?
- Phải.
- Dỡn mấy xuất?
- Sáu xuất.
- Ta cũng dỡn được.
- Mấy xuất?
- Một xuất.
- Một là sáu, sáu là một.
( Thiền Cơ)

Sư tử chỉ tự tánh, sáu xuất chỉ sáu căn. Nhà có sáu cửa hay một cửa thì cũng vậy, đều ra vào được.



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 15 Jul 2012, 8:21 PM | Message # 110
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
521 Đo nước.

Một hôm, Triệu Châu đến thăm giảng đường Thù Du. Ông cầm
gậy thượng đường, nhìn từ Đông sang Tây rồi từ Tây sang Đông. Thù Du hỏi:
- Ngươi làm gì vậy?
- Ta đang đo nước.
- Ngay đến một giọt nước còn không có thì đo cái gì?
Triệu Châu dựng gậy vào tường và bỏ đi.
(Zen Koans)

Triệu Châu đến thăm Thù Du để thử sự hiểu biết của ông này. Ông đo bề sâu của tâm Thù Du. Lời trách cứ của Thù Du hay, nhưng ông tỏ ra hãy còn vướng ở trong có và không. Triệu Châu ra đi tự do như khi ông tới.

522 Thường thức.

Cá nhỏ nuốt cá lớn.
(Ngũ Đăng Hội Nguyên)

Đối với kẻ phàm phu tục tử nghe câu nói trên nhất định là ôm bụng mà cười. Lấy thường thức mà phán đoán thì chuyện này không thể nào xẩy ra được. Nhưng thiền lý thường đột phá thường thức, vượt lên thường lý để thấy ánh sáng chói lọi của thiền đạo. lật ngược thường thức có thể thấy sự tồn tại của thiền. Lớn nhỏ bất quá chỉ là sự so sánh tương đối, nếu lấy con mắt đạo mà nhìn thì to nhỏ chỉ là một, làm gì có sai biệt.

523 Trí Thông.

Một hôm, Trí Thông đang ngồi tham thiền bỗng nhiên cười ha hả. Hôm sau bạn đồng tu hỏi:
- Hôm qua sao tự nhiên lại cười lớn thế làm chúng tôi đều bị tỉnh giấc?
- Ta khai ngộ rồi!
- Ngộ cái gì?
- Ngộ rằng sư cô nguyên lai là người nữ.

Ông lại làm bài kệ:


舉手 攀 南 斗
Cử thủ phan nam đẩu
回身 依 北 辰
Hồi thân y bắc thần
出頭 天 外 看
Xuất đầu thiên ngoại khán
誰是 我 般 人
Thùy thị ngã bàn nhân

Giơ tay với Nam Đẩu
Xoay mình dựa Bắc Thần
Ta hạng người chi đó?
Ngoài trời nhìn trân trân.

(Sinh Hoạt Thiền)

Bất cứ một sự việc gì cũng đều là Phật tánh lưu lộ. Trong sư cô cũng có Phật tánh chí thiện, chí mỹ.

524 Khẳng Đường Ngạn Sung.

Đời Minh, Khẳng Đường Ngạn Sung đọc công án Niêm Hoa Vi Tiếu bèn nói:
- Thế Tôn chẳng nói mà nói, Ca Diếp chẳng nghe mà nghe.
Sau đó lại làm hai câu kệ:


水流 黄 葉 來 何 處
Thủy lưu hoàng diệp lai hà xứ
牛帶 寒 鴉 過 遠 村
Ngưu đái hàn nha quá viễn thôn

Nước chẩy cuốn lá vàng từ đâu tới?
Trâu đưa quạ lạnh về thôn xa.

(Sinh Hoạt Thiền)

Không nói mà nói vì chân lý không thể diễn tả ra bằng lời, và vì tất cả đều không, dù có nghe được thì cũng là không. Vì vậy Ca Diếp chẳng nghe mà nghe.
Lá vàng ở trong nước, theo dòng nước mà trôi đi, xin hỏi lá vàng từ đâu tới?
Quạ thường đậu ở trên lưng trâu, khi mục đồng dẫn trâu về nhà thì cũng dẫn luôn quạ về.
Lá vàng tượng trưng cho chân lý tuyệt đối.
Xin hỏi chân lý tuyệt đối từ đâu lại? Vấn đề này câu kệ thứ nhì giải đáp cùng một dạng.
Trâu và quạ đều chỉ chân lý tuyệt đối, từ đây dẫn về thôn xa, nói cách khác chân lý không đâu không có.

525 Tâm thủy tinh.


無來 無 去 本 湛 然
Vô lai vô khứ bản trạm nhiên
不居 內 外 及 中 間
Bất cư nội ngoại cấp trung gian
一顆 水 精 絕 瑕 翳
Nhất khỏa thủy tinh tuyệt hà ế
光明 透 出 滿 人 間
Quang minh tú xuất mãn nhân gian.

Không đến, không đi vốn lặng yên
Chẳng ở trong, ngoài, chẳng trung gian.
Một trái thủy tinh không tỳ vết
Chiếu soi khắp cả cõi nhân gian.

(Xả Đắc)
(Nhất Vị Thiền, Quyển Hoa)

Câu 1 và 2 chỉ tự tánh, không đầu không cuối, không đến không đi, sung mãn khắp sơn hà đại địa, vượt lên cả không gian và thời gian.
Câu 3 và 4: Xả Đắc khuyến khích chúng ta trong cõi đời vô minh bị ngũ trọc ô nhiễm, hãy bồi dưỡng một cái tâm thủy tinh, để tự thanh lọc mình và người khiến cho tự tánh được phát sáng.
Xả Đắc cùng Hàn Sơn, Phong Can được người đương thời gọi là Quốc Thanh Tam Ẩn (ba người ở ẩn ở Quốc Thanh Tự).


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 15 Jul 2012, 8:24 PM | Message # 111
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
526 Tự kỷ.

Có ông tăng hỏi Đại Tùy Pháp Chân:
- Thế nào là tự kỷ của con?
- Là tự kỷ của ta.
- Thế nào là tự kỷ của Thầy?
- Là tự kỷ của ngươi.
(Nhất Vị Thiền: Quyển Nguyệt)

Cách trả lời của Đại Tùy trong Thiền học gọi là Trùng Phục Ấn Chứng. Đại Tùy bảo ông tăng hỏi người chẳng thà hỏi mình, cũng như mình còn đói lại phải hỏi người rồi mới xác định được là mình chưa no ư? Ông tăng hỏi "Thế nào là tự kỷ của con?" là hỏi "bản lai diện mục của con là gì?"
Hai câu trả lời của Đại Tùy "tự kỷ của ta", "Tự kỷ của ngươi " là bảo ông tăng chính cái hỏi và đáp là nó, không hai, không khác.

527 Đạo.

Có người hỏi Vân Môn:
- Thế nào là Đạo?
- Bỏ.
- Bỏ cái gì?
- Bỏ tà làm chánh.
(Thiền Viên)

Đó chính là diễn tả câu "Vi học nhật ích, vi Đạo nhật tổn, tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô.” Vô là Đạo, là Phật, là Thiền. Vô cũng vì " tổn chi hựu tổn" nhân bỏ mà được. Thiền là văn hóa hình tròn không phải văn hóa đường thẳng. Văn hóa hình tròn là đi rồi lại quay, đắc Đạo thành Phật rồi lại quay lại cứu độ chúng sanh. Văn hóa đường thẳng là đi rồi không bao giờ quay trở lại, đắc đạo thành Thần rồi liền ở mãi trên cao.

528 Bí truyền.

Một ông tăng hỏi Ba Lăng:
- Thế nào là sự bí truyền ở Đông Độ và Tây Thổ?
- Có phải ngươi dẫn lời của Tam Tổ không?
- Không, đó là lời của Tín Tâm Minh.
- Lỗi của ta, ta thật lẩm cẩm.
(Zen Koans)

Từ khi đức Thế Tôn nhập Niết Bàn, sự giác ngộ đã được truyền bằng cách ấn tâm từ thế hệ này sang thế hệ tiếp ở Ấn Độ (Tây Thổ) và ở Trung Hoa, Nhật Bản (Đông Độ). Thật ra sự bí truyền này là gì?
Xuân tới hoa nở. Thu tới lá vàng. Mặt trời mọc ở phương Đông mỗi buổi sáng và lặn về phương Tây mỗi buổi chiều.
Nước tự nhiên chẩy từ chỗ cao xuống chỗ thấp. Đây là sự bí truyền ở Đông Độ và Tây Thổ.
Nó không có gì là bí mật cả. Nó là sự hiểu biết về chân lý. Nhiều học giả, nhà thần học, tăng sĩ quá chú trọng về những lời nói, lý thuyết; họ không nhìn thực tại.
Ba Lăng không đãng trí hay quên, ông cố chỉ cho ông tăng thấy sự quan trọng của cái nhìn trực tiếp về cuộc đời.

529 Đọc kinh.

Một hôm, Triệu Châu hỏi một ông tăng:
- Một ngày ngươi đọc bao nhiêu kinh?
- Bẩy, tám hay mười quyển.
- Ngươi còn chưa biết đọc kinh.
- Thầy một ngày đọc bao nhiêu kinh?
- Mỗi ngày chỉ đọc một chữ.
(Hảo Tuyết Phiến Phiến)

Thiền ở chính ngay thân mình, chẳng phải cầu bên ngoài.

530 Sư Tử Liễu Nghĩa.

Liễu Nghĩa đã ăn chay từ nhỏ, 17 tuổi nghe danh Cao Phong Nguyên Diệu bèn đến tham phỏng. Cao Phong bảo ông tham câu "Vạn pháp trở về một.” Một hôm Liễu Nghĩa thấy tuyết đọng trên cây tùng có chút tỉnh ngộ bèn làm bài kệ dâng lên Cao Phong:


大地 山 河 一 片 雪
Đại địa sơn hà nhất phiến tuyết
太陽 一 出 便 無 蹤
Thái dương nhất xuất tiện vô tung
自此 不 疑 諸 佛 性
Tự thử bất nghi chư Phật tánh
更無 南 北 與 西 東
Cánh vô Nam Bắc dữ Tây Đông

Núi sông phủ tuyết trắng một sắc
Mặt trời rọi sáng thảy đều tan
Từ đó Phật tánh hết nghi nan
Chẳng còn phân Đông, Nam, Tây, Bắc
(Ngộ Không dịch)

Cao Phong chẳng nói một lời, giơ gậy đánh, đánh đến nỗi Liễu Nghĩa ngã nơi sườn núi, bị trọng thương gần chết. Trải qua 7 ngày Liễu Nghĩa bỗng nhiên đại ngộ, kêu lên:
- Lão hòa thượng, hôm nay chẳng thể che dấu con được nữa.
Cao Phong bèn cấp ấn khả.
(Hảo Tuyết phiến phiến)

Việc ngã dưới sườn núi đối với sự cầu ngộ vẫn còn sai một bước, cho thấy ngộ thiền không phải là dễ.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 15 Jul 2012, 8:27 PM | Message # 112
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
531 Giám, Di của Vân Môn.

Vân Môn thường nói với học nhân "Giám" khi học nhân định trả lời , Vân Môn lại nói "Di.” Người sau gọi là Cố, Giám, Di, lại có bài kệ:


相見 不 揚 眉
Tương kiến bất dương mi
君東 我 亦 西
Quân Đông ngã diệc Tây
紅霞 穿 落 月
Hồng hà xuyên lạc nguyệt
白日 繞 須 彌
Bạch nhật nhiễu tu di.

Gập nhau chẳng dương mi
Đông, Tây ta người đi
Sương hồng che trăng lặn
Bạch nhật nhiễu Tu Di.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Cố, Giám, Di là 3 giai đoạn có tác dụng khác nhau:
1- Cố: đề tỉnh sự chú ý của học nhân, khiến học nhân chú ý lắng nghe lời chỉ thị, hàm ý pháp "chỉ.”
2- Giám: tương đương với chữ quán trong quán tâm, là bảo học nhân trực quán tự tánh. Cũng có nghĩa bảo học nhân tham cứu. Sau khi nghe chữ Giám, học nhân định trả lời, ta sẽ có hai trường hợp: một là không hiểu mở miệng hỏi, hai là nói ngộ cảnh của mình để cho Vân Môn chứng cho.
Nhưng chữ Giám của Vân Môn không thể giảng được, giảng ra là xúc phạm. Vì vậy Vân Môn ngăn không cho mở miệng.

3- Di: tác dụng của chử Di là chỉ "chẳng dương mi" trong bài kệ, là chỉ không rơi vào pháp sanh diệt. Nếu có hành động (dương mi) đều là pháp sanh diệt, tức là có phân biệt Thể, Dụng là sai Đạo. Sương hồng, bạch nhật là Vân Môn chỉ tánh cách của tự tánh, chiếu sáng khắp hư không.

532 Ngộ Đạt quốc sư.

Đời Đường quốc sư Ngộ Đạt (Tri Huyền thiền sư) làm bài kệ:

花開 滿 樹 紅
Hoa khai mãn thụ hồng
花落 萬 枝 空
Hoa lạc vạn chi không
唯餘 一 朵 在
Duy dư nhất đóa tại
明日 定 隨 風
Minh nhật định tùy phong

Hoa nở, khắp cây hồng
Hoa rụng, vạn cành không
Chỉ còn lại một đóa
Ngày mai theo gió tung.
(Hảo Tuyết Phiến Phiến)

Bài kệ mô tả tánh cách vô thường của vạn vật.

533 Phó Đại Sĩ và Lương Võ Đế. (I)

Thời đại Phó Đại Sĩ tương đương với thời Đạt Ma tổ sư đến Trung Hoa. Hành vi, cử chỉ của ông rất kỳ dị, khác người. Một hôm, ông đến thăm Lương Võ Đế, đầu đội mũ đạo sĩ, mình mặc áo cà sa, chân đi dép nho sĩ. Võ Đế thấy ông ăn mặc kỳ quái bèn hỏi:

- Thầy là ông tăng sao?
Ông bèn chỉ mũ.
- Thầy là đạo sĩ sao?
Ông chỉ xuống dép.
- Vậy thầy là người tục?
Ông chỉ cà sa.
(Hảo Tuyết Phiến Phiến)

Trong câu chuyện này Phó Đại Sĩ muốn diễn tả Thiền Tâm không phải do bên ngoài mà thấy. Thiền gồm cả Nho, Thích, Đạo. Nó có Tuệ giải của Nhà Phật, vô vi của Nhà Đạo, tinh thần nhập thế của Nhà Nho. Ăn mặc chỉ là hình thức. Thiền vượt lên mọi hình thức.

534 Phó Đại Sĩ và Lương Võ Đế. (II)

Một hôm Phó Đại Sĩ đang giảng kinh, Lương Võ Đế đến thăm. Đại chúng đều đứng dậy nghênh đón, chỉ có Phó Đại Sĩ ngồi yên không động. Cận thần của Hoàng Đế hỏi:
- Hoàng đế giá lâm vì sao thầy không đứng dậy?
- Đất pháp nếu động, tất cả đều không yên.
(Hảo Tuyết Phiến Phiến)

Dưới mắt Phó Đại Sĩ, Hoàng đế và người thường đều bình đẳng không hai. Có tâm bình đẳng thì mới coi người, trâu, cầu, nước chẩy đều là sự vật ảo hóa hà tất phải chấp trước.

535 Tô Khâm.

Tổ Khâm khi còn theo học với Kinh Sơn, có một vị đồng học là Tu thượng tọa. Tổ Khâm muốn thân cận ông nhưng không có cơ hội. Quá một năm, một hôm đang đi ở hành lang, trông thấy ông bèn lại gần hỏi:
- Năm ngoái muốn nói chuyện với ông, mà ông chỉ tránh tôi là sao?
- Người tu chân chánh, ngay cắt móng tay cũng không có thì giờ, nói gì đến cùng ngươi nói chuyện!
(Hảo Tuyết Phiến Phiến)

Câu đáp thật hay. người tu hành chân chánh ngay thời gian cắt móng tay, móng chân còn không có làm gì có thời gian nói chuyện tầm phào?


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 15 Jul 2012, 8:31 PM | Message # 113
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
536 Vá hư không.

Có một người làm nghề may vá tên là Hồ Đính Giảo đến tham phỏng Bảo Thọ. Bảo Thọ hỏi:
- Có phải ngươi là Hồ Đính Giảo, người may vá nổi tiếng không?
- Không dám, chính là tại hạ.
- Ngươi giỏi may vá như vậy, có cách nào vá hư không chăng?
- Xin thầy cứ xé rách hư không đi, con sẽ vá lại.
Bảo Thọ không nói một lời, giơ gậy đánh, Hồ Đính Giảo bị đau kêu lên:
- Thầy chẳng muốn phá hư không sao, sao lại đánh lầm con?
Bảo Thọ giận nói:
- Bây giờ ta không nói vì sao ta đánh ngươi. Sau này gập được ông thầy lắm mồm, ông sẽ nói cho ngươi rõ.
Hồ Đính Giảo không hiểu, đành từ biệt. Về sau gập được Triệu Châu bèn kể lại chuyện bị đánh. Triệu Châu hỏi ông:
- Ngươi có biết vì sao bị đánh không?
- Con không biết sai ở chỗ nào?
- Cái hư không của ngươi đã phá nát đường may của ngươi, bị đánh là đúng rồi!
Hồ Đính Giảo nghe rồi liền ngộ.
(Hảo Tuyết Phiến Phiến)

Bảo Thọ nhân Hồ Đính Giảo làm nghề may vá nên nói "Vá hư không" để khai thị cho ông. Khi Hồ Đính Giảo đắc ý bảo thiền sư phá hư không đi rồi mình sẽ vá lại là nhận rằng phải phá trước rồi mới sửa sau. Không ngờ thiền sư lại vác gậy đánh. Đả phá cái chấp ngoại tướng chính là đả phá hư không. Hồ Đính Giảo không hiểu nghĩa "Không", tự mình không sửa được ngã chấp làm sao sửa được hư không? May được Triệu Châu chỉ cho mà ngộ.

537 Hư Vân.

Hư Vân pháp sư có làm một bài kệ:


杯子 撲 落 地
Bôi tử phác lạc địa
響聲 明 瀝 瀝
Hưởng thanh minh lịch lịch
虛空 粉 碎 也
Hư không phấn toái dã
狂心 當 下 息
Cuồng tâm đương hạ tức
虛 雲

Hư Vân

Chén nước rơi xuống đất,
Tiếng vọng lên rõ ràng
Hư không đà vỡ nát
Cuồng tâm lập tức ngưng.
(Ngộ Không dịch)
(Nhất Vị Thiền: Quyển Hoa)

Các thiền sư thường dùng hét, đánh để khai ngộ cho thiền sinh.
Họ đã quan sát và thấu hiểu trình độ của thiền sinh tới đâu, còn chấp trước hoặc thiếu sót điều gì, cũng như lời của Khổng Minh nói với Chu Du trong trận Xích Bích "Muôn việc đủ cả, chỉ thiếu gió đông.” Điều trọng yếu là thiền sinh đã sẵn sàng chưa; nếu chưa thì dù thiền sư có giúp đỡ đánh, hét trăm lần, ném vỡ chén ngàn lần cũng vô ích thôi.

538 Cỗ cúng của Vân Môn.

Một hôm, trong buổi giảng pháp Vân Môn hỏi đại chúng:
- Các ngươi có muốn gập chư tổ không?
Trước khi mọi người kịp trả lời, ông giơ gậy lên trên đầu họ và nói:
- Chư tổ ở trên đầu các ngươi.
Lại hỏi tiếp:
- Các ngươi có muốn nhìn thẳng vào mặt họ không?
Ông chỉ xuống đất và nói:
- Họ đều ở dưới chân các ngươi.
Sau một lúc ông nói:
- Ta sửa lễ cúng họ, nhưng bọn quỷ đói chẳng bao giờ thỏa mãn.
(Zen Koans)

Vân Môn là một vị thiền sư lớn, sáng tổ của dòng thiền Vân Môn, là thầy của hơn 90 vị thiền sư, là một thiền sư trí tuệ và có tài nói năng lưu loát. Ở đây, ông khuyên chúng ta nếu muốn biết tinh tủy của Thiền thì đừng tìm kiếm ở Ấn Độ, hay ở thời xưa. Hãy nhìn đây, ngay ở trên đầu chúng ta. Giác ngộ, niết bàn ở ngay dưới chân ta. Vân Môn làm cỗ cúng nhưng cô hồn chẳng bao giờ thỏa mãn vì họ không ăn được. Chúng ta nào khác gì lũ qủy đói, tìm kiếm Niết Bàn khi chúng ta đang ở trong đó.

539 Chân Hòa Thượng không thể dối.

Triệu Châu lúc còn nhỏ, theo học Nam Tuyền, có một lần dẫn câu nói của Nam Tuyền "Đạo không lìa vật, lìa vật không phải là Đạo" đem hỏi Nam Tuyền:
- Cái Đạo siêu việt đó là gì?
Nam Tuyền giơ gậy đánh, Triệu Châu nắm lấy gậy nói:
-Về sau thầy nên cẩn thận, đừng đánh lầm người!
Nam Tuyền bèn khen Triệu Châu rằng:
- Rồng, rắn dễ phân biệt, chân hòa thượng không thể dối.
(Nhất Vị Thiền: Quyển Nguyệt)

Kiến thức và đảm thức của Triệu Châu đều hơn người, chân hòa thượng không thể dối, chân thiền sư cũng không thể dối người.

540 Đánh Rắm.

Có một lần Tô Đông Pha, thi sĩ trứ danh đời Tống làm một bài thi tán Phật như sau:


稽首 天 中 天
Khể thủ thiên trung thiên
毫光 照 大 千
Hào quang chiếu đại thiên
八風 吹 不 動
Bát phong xuy bất động
端坐 紫 金 蓮
Đoan tọa tố kim liên.

Ta nay đảnh lễ trước tòa sen
Hào quang Phật tổ chiếu khắp miền
Tám gió dù hung tâm chẳng động
Phật vẫn ngồi yên giữa thực, mộng.

(Ngộ Không dịch)

Ý nói: ta lễ Phật tổ, hào quang của ngài có thể chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới.
Tám gió thổi không động. (tám gió là: lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc)
Phật ngồi ở trên liên hoa tòa, khám phá mưa gió ở thế gian.

Tô Đông Pha viết xong bài thơ, rất tự hào, bèn sai thơ đồng đem qua sông cho Phật Ấn coi. Phật Ấn xem xong không nói một tiếng chỉ viết hai chữ "Đánh rắm" vào đằng sau bài thơ, bảo thơ đồng đem về cho Tô Đông Pha. Tô Đông Pha xem rồi, tức giận chịu không nổi, đang đêm đi thuyền qua sông kiếm Phật Ấn. Phật Ấn biết Tô Đông Pha không phải là người 8 gió thổi không động, nên viết vào mảnh giấy một hàng chữ dán ngoài cửa:


八風 吹 不 動
Bát phong xuy bất động
一屁 打 過 江
Nhất thí đả quá giang

Tám gió dù hung, tâm chẳng động
Chỉ vì phát rắm phải qua sông.

(Ngộ Không dịch)

Tô Đông Pha đến cửa Phương Trượng, chính mắt trông thấy, không dám gõ cửa, lại lên thuyền trở về.
(Sinh Hoạt Thiền)

Câu chuyện này cho chúng ta thấy phải buông bỏ 8 gió thì mới mong giải thoát được.
Thiền giả khi xử sự mọi việc phải giữ gìn không để cho hoàn cảnh dẫn dắt, không bị tham dục làm mê hoặc định tâm, không bị mạo phạm làm mất đi sự bình tĩnh. Đó mới gọi là Thiền Định.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 15 Jul 2012, 8:35 PM | Message # 114
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
541 Một nụ cười trong đời.

Mặc Nguyên không bao giờ mỉm cười cho đến chót đời. Khi sắp mất ông triệu tập đồ đệ lại và bảo:
- Các ngươi đã học với ta trên mười năm, hãy nói cho ta biết các ngươi hiểu Thiền như thế nào? Ai diễn tả được rõ ràng sẽ kế vị ta và được truyền y bát.
Mọi người nhìn bộ mặt khó đăm đăm của Mặc Nguyên nhưng không ai trả lời. Diên Trường, một đệ tử lâu năm bước đến gần và đẩy bát thuốc trên bàn cạnh giường về phía trước vài phân. Mặc Nguyên nghiêm mặt hỏi:
- Đó là tất cả sự hiểu biết của ngươi sao?
Diên Trường lại đẩy bát thuốc về chỗ cũ.
Mặc Nguyên mỉm cười rạng rở:
- Tên vô lại, ngươi đã học với ta trên mười năm mà chưa thực biết ta. Hãy nhận lấy y bát.
(Zen Koans)

Diên Trường đẩy bát thuốc về phía thầy biểu thị trong giây phút cuối cùng của thầy, ông không thể bàn về Thiền, ông chỉ muốn thầy sống. Khi nghe thầy hỏi, ông dời bát thuốc về chỗ cũ có ý nói "Nếu thầy cố nài con sẽ lấy lại thuốc, dù thầy có mất, xin đừng lo, con sẽ trông nom tự viện.”
Mặc Nguyên mỉm cười vì đã yên tâm về người kế vị.

542 Thần Tú.

Thần Tú từ nhỏ đã xem nhiều sách vở, sau quyết chí xuất gia, theo Ngũ tổ tu học, được Ngũ tổ rất trọng. Ngũ tổ có lần nói với ông:
- Ta đã độ cho nhiều người, nhưng có thể thông đạt, viên mãn quán chiếu thì không có ai sánh bằng ngươi.

Thần Tú tuy không được truyền y bát, nhưng vẫn phụng sự thầy cho đến khi Ngũ tổ mất. Về sau, ông về trú ở Giang Lăng Đương Dương Sơn. Danh tiếng truyền khắp thiên hạ. Nữ Hoàng đế Võ Tắc Thiên nghe danh, hạ chiếu vời vào cung. Khi kiệu ông vào tới cung, Võ Tắc Thiên hoàng đế quỳ ngay xuống đất nghênh đón, lại sai thiết lập đạo trường ở trong cung để cung dưỡng và thường đến hỏi đạo. Về sau, ông muốn trở lại Đương Dương Sơn, Võ Tắc Thiên lại sai lập chùa cho ông. Theo sách vở chép lại, các vương công đại thần và thứ dân hàng ngày đến tham học với ông cả vạn người. Ông có lưu lại bài kệ:

一切 佛 法
Nhất thiết Phật pháp
自心 本 有
Tự tâm bản hữu
將心 外 求
Tương tâm ngoại cầu
捨父 逃 走
Xả phụ đào tẩu

Phật pháp do tâm
Tất cả đều vậy
Tưởng tìm ngoài tâm
Bỏ cha mà chạy.

Năm 705, Võ Tắc Thiên và Trung Tông hạ chiếu vời Huệ Năng vào kinh thuyết pháp. Trong chiếu nói là do Thần Tú và Huệ An suy cử. Sự kiện này cho thấy Thần Tú là một người cởi mở, hoạt bát, không hề hận Huệ Năng mà còn kính phục nữa.

Vào lúc vãn niên, danh vọng của Huệ Năng ở phương Nam lên cao, một đệ tử của Thần Tú là Thích Nghị xuống phương Nam tìm Huệ Năng để tranh biện lại còn nói:

- Huệ Năng một chữ cũng không biết thì có kiến thức gì?
Thần Tú nghe được chuyện này, bảo đồ đệ rằng:
- Huệ Năng được vô sư trí, thân ngộ thượng thừa ta chẳng bằng được. Vì vậy, thầy ta là Ngũ tổ mới thân truyền y pháp đâu để uổng phí? Ta hận vì thọ quốc ân, lại ở xa quá không thể thân cận mà học hỏi được!
(Hảo Tuyết Phiến Phiến)

Lời nói của Thần Tú khiến chúng ta cảm động. Từ ngàn năm qua, rất nhiều sách Thiền coi nhẹ và nói xấu Thần Tú.
Thực ra, ông là một người đáng kính phục. So sánh hai bài kệ trình Ngũ tổ (xem công án 264) thì bài kệ của Thần Tú cho thấy ông ngừng lại ở "Hữu.”
Ông nhận rằng Thiền có mục đích, có thể đạt được. Kỳ thực, lau chùi bụi bặm của tâm linh chỉ là quá trình không phải là mục đích. Mặc dầu muốn tâm linh an tịnh phải trải qua giai đoạn lau chùi, nhưng muốn được Bát Nhã, thì không thể chỉ dựa vào lau chùi mà được.

Bài kệ của Huệ Năng cao hơn Thần Tú vì ông giảng thật tướng của Bát Nhã, cho chúng ta biết Bát Nhã không thể gọi thành một danh tướng.
Không thể nói là đài gương sáng, cây bồ đề hoặc nói là cái này, cái kia, hoặc bất cứ cái gì.
Bát Nhã là tuyệt đối không tánh. Nếu muốn tìm Bát Nhã bằng cách lau chùi thì Bát Nhã không ở đó. Bởi vì tự tánh thanh tịnh khiến bụi trần không thể bám vào, vì vậy việc gì phải lau chùi?
Đốn pháp của Huệ Năng trở thành dòng Thiền chính khiến Tiệm pháp của Thần Tú bị im tiếng.
Mặc dầu vậy, nhân cách và phong cách của ông khiến chúng ta phải ngưỡng mộ.

543 Châu Quang.

Thủy tổ của Trà Đạo Nhật Bản là Châu Quang. Ông là đệ tử của Nhất Hưu, thường hay bị ngủ gục, cảm thấy bất an bèn xin thầy thuốc chữa trị. Thầy thuốc khuyên ông nên uống trà, có thể trị được ác tập buồn ngủ. Ông nhận thấy uống trà phải có quy củ, do đó trà đạo được phát sinh.
Khi quy củ trà đạo đã hoàn thành rồi, Nhất Hưu hỏi ông:
- Ngươi lấy tâm cảnh nào khi uống trà?
- Lấy tâm cảnh uống trà lợi cho sức khỏe, mô phỏng Vĩnh Tây thiền sư trong tác phẩm "Uống trà dưỡng sinh ký.”
- Một ông tăng hỏi Triệu Châu "Đại ý của Phật pháp là gì?.” Triệu Châu đáp "Uống trà đi.” Đối với câu trả lời này ngươi thấy sao?
Châu Quang im lặng không đáp. Nhất Hưu sai thị giả bưng một chén trà lại cho Châu Quang. Khi Châu Quang cầm lấy chén trà, Nhất Hưu hét lên một tiếng và lấy tay hất chén trà trong tay Châu Quang rơi xuống đất. Nhưng Châu Quang vẫn đứng yên, sau đó hành lễ và cáo lui. Khi ông ra đến cửa Nhất Hưu gọi:
- Châu Quang!
- Dạ!
- Vừa rồi ta hỏi ngươi tâm đắc khi uống trà, nếu như không nói tâm đắc mà lấy vô tâm uống trà thì sao?
- Liễu lục, hoa hồng.
Nhất Hưu bèn thôi.
(Thiền Tông Tọa Thạch Minh)

Từ đó Châu Quang cải biến tâm cảnh uống trà, hoàn thành trà đạo bao hàm thiền cơ trong đó. Không phải vì hứng thú, sức khỏe, khảo cứu trà đạo mà là thâm ngộ thiền diệu thú "Uống trà đi.” Câu nói đó bao hàm toàn bộ kinh nghiệm nhân sinh.

544 Sau bức mành giấy.

Thiền sư Tiệm Nguyên ngồi đằng sau một bức mành giấy. Một ông tăng vào độc tham phải nhấc mành lên để chào thầy; ông nhận xét:
- Lạ thật!
Thiền sư nhìn ông im lặng sau đó hỏi:
- Ngươi hiểu không?
- Con không hiểu.
- Trước khi chư Phật xuất hiện, thế giới cũng như lúc này sao ngươi không hiểu?
Về sau, ông tăng đem chuyện này đi hỏi Thạch Sương. Thạch Sương khen ngợi Tiệm Nguyên:
- Tiệm Nguyên giống như một vị thầy dậy bắn cung, ông không bao giờ buông tên mà không trúng đích.
(Zen Koans)

Phương pháp giảng dạy của Thiền là trực giác và không lời. Tiệm Nguyên im lặng và sau đó hỏi ông tăng có hiểu không. Ông tăng này phải là một ông tăng mới vào nghiệp lâm (?) vì ông không hiểu câu hỏi.
Tiệm Nguyên có giải thích cho ông nói rằng ngay từ ban sơ vạn vật đã tự như. Khi Thạch Sương nghe được chuyện này ông nhận xét rằng Tiệm Nguyên đã chỉ pháp một cách trực tiếp nhưng ông tăng không hiểu.
Đáng thương cho ông tăng, ông không thể thấy sự việc ở ngay trước mắt mặc dầu đã được thiền sư chỉ điểm.

545 Cành cây.

Đời Đường, thiền sư Tuyết Phong một hôm ngắm một cành cây thấy rất đẹp bèn nhặt về dâng sư phụ là Đạo An, trên đề mấy chữ "Vốn tự nhiên, không đẽo gọt."
Đạo An nhận được lễ vật, vừa thưởng thức, vừa khen đồ đệ:
- Bản sắc của người ở núi là không dùng đao búa.
(Thiền Sinh Mạng Đích Vi Tiếu)

Người sinh hoạt trong chân không diệu hữu không tạo tác, không tham lam, không hư ngụy đó là tông chỉ tu hành lý "không" của nhà Phật.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 15 Jul 2012, 8:39 PM | Message # 115
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
546 Lương Khoan.

Lương Khoan cả đời tu Thiền, thành tựu rất cao. Khi trở về già, một hôm nhận được thư nhà cho biết cháu ngoại chẳng chịu làm ăn gì cả chỉ lo ăn uống chơi bời, không chóng thì chầy sẽ khuynh gia bại sản. Người nhà hy vọng ông trở về khuyên bảo cháu. Do đó, Lương Khoan từ ngoài ngàn dậm trở về quê. Đứa cháu ngoại cũng rất vui được gập ông cậu, và giữ ông ở lại nhà một đêm. Đêm đó, Lương Khoan cũng không hề dạy dỗ hay mắng mỏ gì cháu. Sáng hôm sau khi sắp đi Lương Khoan bảo cháu:
- Cậu đã già rồi, hai tay đều run rẩy, cháu có thể giúp cậu xỏ dép vào chân không?
Đứa cháu vui vẻ giúp cậu; lúc đó Lương Khoan mới nói:
- Cám ơn cháu, đấy cháu xem người già mỗi ngày mỗi yếu, cháu nên bảo trọng cho mình, lúc còn trẻ nên làm người tốt, làm tốt sự nghiệp.
Lương Khoan nói rồi bỏ đi, một lời trách cũng không; vậy mà từ đó người cháu không còn tiêu pha xa xỉ nữa.
(Thiền Sinh Mạng Đích Vi Tiếu)

Cái công phu của Lương Khoan đó là lòng khoan dung, chỉ cần hai ba câu là có thể cảm động đối phương, tạo nên kết quả tốt đẹp nhất.

547 Pháp Nhãn.

Đời Đường, Pháp Nhãn Văn Ích là một vị thiền sư rất trọng sự tích cực thực tiễn. Một hôm có ông tăng hỏi:
- Thế nào là đạo làm người?
- Thứ nhất là dạy ngươi làm, thứ hai cũng kêu ngươi làm.
(Thiền Sinh Mạng Đích Vi Tiếu)

Mỗi người phải có lòng tích cực mới có thể đạt được hạnh phúc chân chính. Một câu ngạn ngữ nói "Phú quý chẳng quá ba đời.” Câu nói này không phải là hoàn toàn tuyệt đối nhưng thường chúng ta thấy các nhà khá giả thiếu xót sự dậy dỗ con cái tinh thần tinh tiến. Một người tinh tiến trước hết phải đặt mục đích hợp lý, sau cố gắng thực hiện thì mới có được khoái hoạt mãn túc.

548 Hư Minh Giáo Hanh Thiền sư.

Hư Minh thiền sư có làm bài kệ:


日面 月 面
Nhật diện nguyệt diện
星流 電 轉
Tinh lưu điện chuyển
若更 遅 疑
Nhược cánh trì nghi
面門 著 箭
Diện môn trước tiễn.

Ngày tháng trôi đi
Sao xa điện chuyển
Nếu còn trì nghi
Bị tên xuyên đến.
(Hương Thủy Hải)

Câu (1) và (2): ngày tháng qua mau như điện chớp.
Câu (3) và (4): nếu còn nghi ngờ, chậm trễ thì sẽ bị mũi tên vô thường bắn trúng.
Nếu cho đến chết mà vẫn chưa ngộ, thì uổng một kiếp làm người.

549 Thiền của Dược Sơn.

Thái thú Lý Cao hỏi Dược Sơn:
- Con biết Phật tử phải tuân thủ giới, định, huệ; thầy có giữ giới, tập định và phát huệ không?
- Ở đây, bần tăng không có chuyện bá láp này.
- Giáo lý của thầy rất cao siêu, nhưng con không hiểu.
- Nếu thái thú muốn hiểu thì phải trèo lên đỉnh núi cao mà ngồi hay lặn xuống đáy biển sâu mà đi. Khi đi ngủ thái thú đầu còn nặng chĩu tâm tư thì làm sao mà hiểu được thiền pháp của ta?
(Zen Koans)

Có nhiều người chỉ tò mò về Thiền. Họ muốn biết người khác thực hành như thế nào và đạt được gì? Những người đó chỉ là kẻ bàng quan, họ không phải là người đi tìm chân lý. Có lẽ Dược Sơn thấy phiền lòng vì câu hỏi của Lý Cao, vì cả đời ông là sự thực hành giới, định, huệ. Nhưng câu trả lời của ông là câu trả lời tiêu biểu của Thiền: "Ở đây không có chuyện bá láp này."
Ngày nay, có nhiều người cũng như Lý Cao, bối rối, lo lắng nên ngủ chẳng yên giấc. Thiền không biếng nhác. Đó là cách sống bình yên và hòa hợp. Nếu thành thật muốn hiểu Thiền thì phải trèo lên đỉnh núi cao, lặn xuống đáy biển sâu.

550 Không đi đường chim bay.

Động Sơn thường dạy nên đi đường chim bay. Có người hỏi:
- Đường chim bay là sao?
- Chẳng gập một người nào.
- Vậy làm sao đi?
- Dưới chân vô tư.
- Đó có phải khuôn mặt xưa nay không?
Động Sơn cười đáp:
- Ngươi điên đảo rồi!
- Con điên đảo ở chỗ nào?
- Nhận nữ làm nam.
- Vậy thế nào mới là khuôn mặt xưa nay?
- Đừng đi đường chim bay.
(Thiền Viên)

Đi đường chim bay không gập một người nào: Thiền lộ là toàn trông cậy vào chính mình, chí công vô tư. Ông tăng hỏi đó có phải là bản lai diện mục không. Dĩ nhiên không phải, đây chỉ là phương tiện, không phải cứu cánh, chẳng khác gì nhận nữ là nam. Ông tăng lại hỏi: "Vậy thế nào là bản lai diện mục?"
Hiển nhiên ông tăng này hãy còn ở trong tình huống tu hành, chưa thể liễu ngộ cho nên Động Sơn nói:
"Đừng đi đường chim bay.” Thiền là linh hoạt phải tùy cơ, lúc nào nên nói và nói gì.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 15 Jul 2012, 8:42 PM | Message # 116
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
551 Thạch Đầu.

Thạch Đầu đến viếng Thanh Nguyên, Thanh Nguyên hỏi:
- Ngươi từ đâu đến?
- Từ Tào Khê.
Thanh Nguyên giơ phất tử lên hỏi:
- Tào Khê có cái này chăng?
- Chẳng những Tào Khê không có mà cả Thiên Trúc cũng không.
- Ngươi đã từng đến Thiên Trúc sao?
- Nếu đến tức có.
- Chưa đủ, hãy nói lại.
- Hòa thượng hãy nói phân nửa, đừng chỉ trông vào con.
- Ta chẳng từ chối nói với ngươi chỉ e về sau không người thừa kế.
- Không phải là không có, chỉ là không ai diễn tả được thôi!
Thanh Nguyên giơ phất tử đánh và Thạch Đầu liễu ngộ.
(Zen Light)

Vấn đề then chốt trong công án này là "cái này.” Cái này là là cái gì? là phất tử, là Phật pháp, là thiền sư? Nó không có ở Tào Khê, ở Thiên Trúc, vậy nó có ở đâu? Thạch Đầu muốn nói gì khi nói "Nếu đến tức có.” Tại sao Thanh Nguyên nói trả lời "chưa đủ, hãy nói lại"? Tương tự như công án gập Phật giết Phật. Khi hiểu được lý do vì sao phải giết Phật thì sẽ hiểu vì sao "cái này" không có ở Ấn Độ, Trung Hoa, Phi Châu, Nữu Ước, Los Angeles. Nếu nó không có ở các chỗ này vậy thì nó có ở đâu? Lại có thơ rằng:

Thạch Đầu
Giống như con rùa mù
Bơi trong bể vô thường
Tới và đi
Lên và xuống
Cứ xoay vòng.

552 Lâm Tế ngủ.

Một hôm Lâm Tế ngủ ở tăng đường. Hoàng Bá vào trông thấy bèn lấy gậy gõ vào ghế một cái. Lâm Tế mở mắt ra xem, thấy Hoàng Bá lại nhắm mắt lại ngủ. Hoàng Bá lại gõ vào ghế một cái nữa rồi ra. Thấy thủ tọa đang ngồi thiền trước tăng dường bèn nói:
- Tên tiểu tử đang ngồi thiền ở tăng đường, ngươi ở đây loạn tưởng cái gì?
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Lâm Tế ngủ không dụng tâm, không chấp tướng tu hành. Thủ tọa chấp tướng ngồi nhưng nội tâm vẫn chưa dứt được vọng tưởng giống như Hoài Nhượng nói mài gạch để thành gương. Do đó, không được Hoàng Bá chấp nhận.

553 Huệ Trung và Ngư Triều Ân.

Ngư Triều Ân hỏi Huệ Trung quốc sư:
- Vô minh là gì? lúc nào xuất hiện?
- Phật pháp ngày nay đã suy rồi, ngay nô tài cũng biết hỏi Phật pháp!
Đây rõ ràng là một câu nói khinh miệt, Ngư Triều Ân liền biến sắc. Quốc sư bèn nói:
- Đó là vô minh, vô minh từ đó khởi.
Ngư Triều Ân lập tức tỉnh ngộ.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Ngàn vạn lời cũng chẳng bằng sự chỉ dậy này. Chúng sanh từ xưa đến nay có cách sinh hoạt và hoàn cảnh khác nhau nên tập nhiễm cũng khác nhau. Do đó đối với một sự việc mỗi người có một cái nhìn khác nhau, nhưng động cơ chỉ là một đó là ngã chấp, chỉ cần có gì lợi, hại liên quan đến ngã liền lập tức xuất hiện. Cái phản ứng mau lẹ ấy Tâm Lý học gọi là bản năng, Nhà Phật gọi là vô minh. Vô minh chính là nguyên nhân khiến chúng sanh sinh tử.

554 Hai ông tăng.

Lâm Tế thấy một ông tăng tới, giơ phất tử lên, ông tăng lạy, thiền sư bèn đánh. Lại thấy một ông tăng khác đến Lâm Tế cũng giơ phất tử lên, ông tăng không nhìn, thiền sư vẫn đánh.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Dù nhìn hay không, hai ông tăng này đều chịu ảnh hưởng của phất tử, trong tâm đều có một cái phất tử. Người có minh nhãn nhìn là biết ngay, do đó đều bị Lâm Tế đánh. Giả như lúc đó có người đoạt lấy phất tử rồi bẻ gẫy đi không biết phản ứng của thiền sư sẽ ra sao?

555 Diêm Đề.

Có một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Thế nào là Diêm Đề?
- Sao không hỏi Bồ Đề?
- Thế nào là Bồ Đề?
- Là Diêm Đề.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Diêm Đề tức Bồ Đề, cũng như hỏi lừa đáp Phật, trừ sạch quan niệm phàm thánh.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 17 Jul 2012, 7:02 PM | Message # 117
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
556 Huệ Minh còn nghi.

Huệ Minh được Lục tổ chỉ thị rồi ngộ (Xem công án số 1024) nhưng hãy còn chút nghi bèn hỏi:
- Ngoài mật ngữ, mật ý trên, còn mật ý nào nữa không?
- Ta đã nói với ông thì không còn là mật nữa, nếu ông phản chiếu thì mật ở nơi ông!
- Huệ Minh này tuy ở Hoàng Mai nhưng thực chưa biết bản lai diện mục, nay mông ơn được chỉ thị như người uống nước nóng, lạnh tự hay!
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Mật ở nơi ông và nóng lạnh tự hay đều chỉ tâm là Phật, chẳng cần cầu xin ai khác.

557 Hổ ăn thịt người.

Có chú tiểu từ nhỏ được chùa nuôi, chưa hề nhìn thấy phụ nữ. Ông tăng trong chùa thường chỉ bức tranh vẽ người nữ bảo chú:
- Đó là con hổ ăn thịt người.
Chú tiểu lớn dần, theo tăng vào làng khất thực.
Về chùa, tăng hỏi tiểu:
- Khi xuống núi vật gì ngươi thích nhất?
Chú tiểu đáp không do dự:
- Con thích nhất con hổ ăn thịt người!
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Sắc bị tập nhiễm từ vô thủy đến nay, dứt được rất khó. Trong thiền môn, có các thiền sư uống rượu, ăn thịt, nhưng phạm sắc giới mà chứng ngộ thì chưa hề nghe qua. Đó là cửa ải khó nhất của người tu Thiền.

558 Ba cương lãnh.

Thích Định Quang đem 8 vạn 4 ngàn pháp môn của phật giáo tóm tắt thành 3 cương lãnh:
1- Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa là Phật đạo đệ nhất nghĩa, nên hết lòng nhớ tưởng.
2- Giới, Định, Tuệ là yếu quyết thành Đạo, nên hết lòng tu trì.
3- Bốn lời nguyện lớn nên hết lòng phụng hành.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

1. Phật giáo là những giáo huấn của đức Phật. Phật là người giác ngộ. Chữ giác bao hàm tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Chữ giác này là trí tuệ, là Bát Nhã; Ma Ha là to lớn; Ba La Mật Đa là tới bờ bên kia, có thể dịch là Đại trí hoàn thành, là ngộ. Lấy ngộ làm ý nghĩa của cuộc sống là Phật đạo.
2. Giới, Định, Tuệ là giáo pháp của Phật giáo nguyên thủy, với Phật giáo đại thừa thì đó là Lục Ba La Mật: trì giới, bố thí, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ. Muốn được trí tuệ bát nhã thì phải thiền định, nghĩa là thân và tâm phải an định, nói cách đơn giản là phải thiền. Chỉ trong thiền định mới có thể thể hội được bát nhã đó là Định Trí (Định huệ bình đẳng) Muốn vào Định này thì điều kiện tất yếu phải là giữ giới.
3. Bốn lời nguyện lớn là:
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
Pháp môn vô biên thệ nguyện học,
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

559 Nói và không nói.

Có ông tăng vào cõi âm gập bồ tát Địa Tạng, bồ tát hỏi:
- Bình sinh ông tu nghiệp gì?
- Niệm kinh Pháp Hoa.
Bồ tát đọc bài kệ:
Ngừng ngừng chẳng nên nói
Pháp ta khó nghĩ bàn
Là nói hay không nói?
Ông tăng không đáp được.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Kinh Kim Cương nói rằng: "Nếu nói Như Lai có thuyết pháp là báng Phật." Phật có thuyết pháp lại nói là không có thuyết pháp vì các pháp đều không tướng. Nói và không nói đều là pháp. Nói là không, không nói cũng là không.

560 Chẳng thấy Pháp Thân.

Vân Môn hòa thượng có một đồng môn họ Phù là một vị thượng tọa (người Thái Nguyên, năm sinh không rõ) nguyên là một vị học giả Phật giáo. Phù thượng tọa trong một buổi giảng kinh Niết Bàn, khi đề cập đến Pháp Thân có nói: "Xuyên dọc ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai) xuyên ngang mười phương.” Trong đám thiền khách có một người nghe rồi bèn cười lớn. Phù thượng tọa bèn chạy xuống hỏi:
- Ta vừa nói sai sao?
- Tọa chủ, ông chỉ giảng được tánh của Pháp Thân mà không thấy được thể của Pháp Thân.
- Vậy phải làm sao?
- Ông hãy ngưng giảng kinh ít lâu, về phòng mà ngồi thiền, sẽ có một ngày ông tìm thấy chân ngã.
Thượng tọa nghe lời, một đêm ngồi thiền đang trong trạng thái vong ngã của tam muội, nghe tiếng chuông đánh bỗng nhiên đại ngộ. Phù thượng tọa bèn đến bái phỏng vị thiền khách, nói rằng:
- Ta ngộ rồi!
- Ông hãy nói một câu thử xem.
- Từ nay trở đi, ta sẽ không bóp mũi cha mẹ sinh ra nữa!
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Câu nói của Phù thượng tọa chỉ rằng ông đã thể hội được khuôn mặt xưa nay lúc cha mẹ chưa sinh.



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 17 Jul 2012, 7:06 PM | Message # 118
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
561 Đam Nguyên.

Đam Nguyên đem 96 viên tướng của Trung quốc sư truyền cho, trao lại Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn xem một lần xong bèn đốt đi. Cách một hôm thiền sư bảo Ngưỡng Sơn:
- 96 viên tướng của quốc sư do chư tổ truyền lại, ngươi phải giữ cho cẩn thận.
- Con đã đốt rồi!
- Sao lại đốt đi?
- Muốn dùng thì dùng, không nên câu chấp, nếu muốn thì có thể vẽ lại.
Ngày hôm sau, Đam Nguyên thượng đường khảo nghiệm Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn làm trình tướng thức, khoanh tay mà đứng. Đam Nguyên hai tay nắm lại. Ngưỡng Sơn tiến ra phía trước lạy như đàn bà. Đam Nguyên chấp nhận.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Ngưỡng Sơn không bị hình tướng bó buộc, dám đốt đi viên tướng. Cái hay là hai người biểu diễn trình tướng và tiếp tướng giống như diễn kịch câm. Trình là không tướng và tiếp cũng là không tướng, trong tâm ý hai người không có vật, đó là để thuyết minh "sắc tức thị không, không tức thị sắc.” Cuối cùng Ngưỡng Sơn lạy như đàn bà là chỉ không có tướng nam, nữ, phối hợp với hành động ở trên là siêu việt hình tượng.

562 Vô Vị Chân Nhân và Phi Vô Vị Chân Nhân.

Một hôm Định thượng tọa trên đường gập Nham Đầu, Tuyết Phong, Khâm Sơn. Nham Đầu hỏi:
- Người từ đâu tới?
- Từ Lâm Tế viện.
- Lâm Tế lão sư có mạnh không?
- Đã mất rồi!
- Chúng tôi ba người định đến bái phỏng lão sư, không ngờ phúc duyên cạn mỏng chưa gập, người đã mất. Xin thượng tọa thuật lại những giáo huấn khi người còn tại thế cho chúng tôi nghe.
Do đó, Định thượng tọa thuật lại công án Vô Vị chân nhân cho ba người nghe. Nham Đầu nghe rồi thè lưỡi ra, Khâm Sơn hỏi:
- Tại sao không gọi là Phi Vô Vị chân nhân?
Định thượng tọa đột nhiên túm lấy Khâm Sơn nói:
- Vô Vị chân nhân và Phi Vô Vị chân nhân có gì bất đồng nào, ngươi nói đi!
Khâm Sơn không nói được, mặt lúc xanh, lúc trắng.
Nham Đầu và Tuyết Phong chạy lại gần, hướng Định thượng tọa tạ tội:
- Người này là tân tham giả, đắc tội thượng tọa, xin tha lỗi!
- Hôm nay nếu không nể hai vị,ta nhất định bóp chết tên tiểu hòa thượng này!
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Đây chính là cơ trí, diệu dụng của tông Lâm Tế.

563 Lâm Tế và Đức Sơn.

Có lần Lâm Tế đến tham phỏng Đức Sơn. Đức Sơn ra dáng mệt mỏi than:
- Mệt rồi!
Lâm Tế nói:
- Nói chuyện mộng làm gì?
Đức Sơn giơ gậy đánh, Lâm Tế lật ngược thiền sàng. Đức Sơn bèn thôi.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Đức Sơn nói "Mệt rồi!" là ám chỉ không có một pháp nào chỉ cho người. Lâm Tế bảo "Nói chuyện mộng làm gì?" là bảo Đức Sơn không nên mở miệng. Một người giơ gậy đánh, một người lật ngược thiền sàng, đều là pháp do tâm và không nói thành lời. Có thể nói là anh hùng biết anh hùng vậy.

564 Lời giảng của Lâm Tế.

Lâm Tế nói:
- Phật pháp không dụng công, chỉ bình thường vô sự. Mặc áo, ăn cơm, đi tiêu, đi tiểu, mệt thì nằm nghỉ, kẻ ngu cười ta, người trí khắc biết.
Lại nói:
- Vô sự là quý nhân, đừng tạo tác, chỉ bình thường.
Lại còn nói:
- Nếu ngươi cầu Phật là mất Phật, nếu ngươi cầu Đạo là mất Đạo, nếu ngươi cầu Tổ là mất Tổ.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Tất cả những lời nói trên đều là khuyên người học bình thường, vô sự. Vô sự là chỉ nội tâm ninh tĩnh, không thể cưỡng cầu, nếu có cầu là có sự.

565 Thân Phật.

Khi đức Phật giảng kinh Niết Bàn, ngài để tay lên ngực và nói:
- Các ông hãy quan sát thân ta cẩn thận nếu không sau này sẽ hối tiếc. Nếu các ông nói Phật nhập vô dư niết bàn, các ông không phải là đệ tử của ta. Nếu các ông nói Phật không nhập vô dư niết bàn, các ông không phải là đệ tử của ta.
(Zen Koans)

Công án này cắt đứt sự chấp vào lời nói, một nguyên nhân lớn gây rắc rối cho cuộc đời. Nếu nói có, ta chấp vào có, nếu nói không có ta chấp vào không. Nếu có người nói ông ấy là người xấu, chúng ta luôn coi ông ta là người xấu. Cô ấy hiền điều này không có nghĩa là cô ấy luôn luôn hiền. Thời gian và hoàn cảnh thay đổi, những lời nói lúc trước, không áp dụng cho các trường hợp sau. Đức Phật có vào vô dư niết bàn hay không chỉ đơn giản là lời nói, là một sự bàn luận vô ích. Vô dư niết bàn là Niết Bàn không đầy đủ. Theo triết lý nhà Phật, bất cứ người nào cũng có thể đạt được Niết Bàn, nhưng vì còn xác thân nên còn vài yếu tố chưa trọn vẹn. Vô dư niết bàn chỉ đạt được khi chết. Vì vậy khi đức Phật chết, ngài đã vào vô dư niết bàn. Vào khoảng thế kỷ thứ tư, Đại Thừa Phật giáo đã khai triển giáo lý tam thân để giải thích sự liên hệ giữa đức Phật với con người. Phật là tuyệt đối, là lý tưởng. Nhưng Phật cũng là con người có hơi thở, không chỉ Thích Ca Mâu Ni là Phật mà tất cả các bậc giác ngộ (kể cả những người chưa giác) nữa. Ba thân Phật là:
- Pháp thân: Không hình dạng, mầu sắc, là thực tại tuyệt đối.
- Báo thân: là lý tưởng.
- Hóa thân: là xác thân Phật, như đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni.
Pháp thân Phật không bao giờ vào Vô Dư Niết Bàn, Hóa thân Phật có vào Vô Dư Niết Bàn.
Trong công án này Phật có nhiều nghĩa khác nhau, nếu ai chấp vào một trong những ý nghĩa này thì là thiếu hiểu biết vậy.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 17 Jul 2012, 7:08 PM | Message # 119
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
566 Tùy duyên bất biến.

Vân Môn nói:
- Cả ngày nói chuyện mà chưa hề nhếch môi, cũng không một lời. Cả ngày mặc áo, ăn cơm mà chưa hề đụng một sợi tơ, một hạt gạo.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Đây là nói nhà Thiền không bài trừ thế duyên, chỉ tùy duyên bất biến, không bị nhiễm thế pháp. Người ta cũng truyền tụng ba câu nói gán cho Vân Môn; che (trở) chứa càn khôn, cắt đứt mọi dòng, theo sóng đuổi sóng. Câu (1) là chỉ Đạo thì không đâu không có, không gì không bị nó bao bọc. Những sự việc hàng ngày đều ở trong đó cả. Câu (2) loại bỏ thức tâm làm chướng ngại đạo nhãn. Câu (3) tất cả đều tuỳ duyên. Đó là chân tâm, cũng là Đạo tâm.

567 Hoa mẫu đơn.

La Hán cùng hai sư huynh là Trường Khánh và Bảo Phước đi xem hoa Mẫu Đơn được vẽ trên một tấm bình phong. Bảo Phước phê bình:
- Thật là đẹp!
Trường Khánh bảo:
- Đừng quá tin vào thị giác của ngươi!
La Hán than:
- Bậy quá! Làm hỏng cả bức họa!
(Zen Koans)

Bảo Phước chấp vào bức họa. Để cảnh cáo ông, Trường Khánh lại chấp vào sự không chấp. La Hán chỉ trích cả hai người. Ba vị thiền sư này bàn cãi về hoa Mẫu Đơn thật hay hoa vẽ? Nếu Bảo Phước chấp thị giác, Trường Khánh chấp thính giác và La Hán chấp vào cuộc biện luận của hai người trên. Chúng ta nên nở rộ và im lặng.

568 Siêu việt động tĩnh.

Kinh Hoa nghiêm nói rằng:
- Chân Như lúc trước chẳng sanh, lúc sau chẳng động, hiện tại không khởi.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Động tĩnh bao quát sanh, diệt, đến đi, biến hóa là hình thức của không gian và thời gian. Nhà Phật đối với vấn đề động tĩnh rất coi trọng đã liệt Định vào trong Tam học (Giới, Định, Tuệ). Trước hết phải có Định rồi sau mới phát Huệ như nước trong thì mới có thể soi vật, còn nước đục thì không. Nhà Thiền nói bất động không phải chỉ hình tượng mà chủ ý cầu tâm Định, do đó từ trong tướng động thấy được chân lý bất động, giống như máy chụp ảnh có thể chụp người đang hoạt động ra một tấm ảnh bất động.

569 Vô lễ.

Có một ông tăng đến lạy Quy Sơn, Quy Sơn nhỏm người dậy, ông tăng thưa:
- Xin thầy đừng đứng dậy!
- Ta không biết ngồi.
- Con cũng không biết lạy.
- Sao vô lễ vậy?
Ông tăng không trả lời được.
(Thiền Cơ)

Quy Sơn phá cái chấp đứng, ngồi của ông tăng.

570 Một chút.

Triệu Châu đang quét đất, có ông tăng hỏi:
- Vì sao có bụi?
- Từ ngoài tới.
- Thiền viện thanh tịnh vì sao còn có bụi?
- Có một chút.
(Thiền Cơ)

Thiền sư có thể ở trong bụi mà lìa bụi.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 17 Jul 2012, 7:10 PM | Message # 120
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
571 Đi chết đi.

Có ông tăng hỏi Tăng Mật:
- Về chuyện sanh tử, xin thầy nói cho một lời.
- Lúc nào ngươi ra khỏi sanh tử?
- Con không hiểu, xin thầy nói lại.
- Không hiểu? Đi chết đi!
(Thiền Cơ)

Phải chết đi rồi mới sống lại được.

572 Tới Nam Đường mà nghỉ.

Có ông tăng bạch với Chí Hạnh:
- Con từ ngàn dậm lại, xin thầy tiếp.
- Ngươi từ đâu lại?
- Từ Giang Bắc lại.
- Hãy tới Nam Đường mà nghỉ.
(Thiền Cơ)

Cầu người tiếp chẳng thà mình tự tiếp.

573 Làm phiền đại chúng.

Một hôm, Thần Hội nhận được thư nhà báo tin cha mẹ đều mất. Thần Hội vào pháp đường giơ dùi trống lên nói:
- Cha mẹ đều mất, xin đại chúng niệm kinh Ma Ha Bát Nhã.
Chư tăng tụ tập lại, Thần Hội bèn đánh trống, nói:
- Làm phiền đại chúng.
(Thiền Cơ)

Câu nói của Thần Hội ám chỉ không bị sự tử vong bó buộc.

574 Hừ! Hừ!

Một buổi chiều, chư tăng đến tham kiến đồng thời thỉnh an Vô Đẳng, thiền sư hỏi:
- Thanh âm mà đại chúng vừa thỉnh an đi về đâu?
Có một ông tăng giơ ngón tay lên, thiền sư nói:
- Trân trọng.
Cách một hôm, ông tăng giơ ngón tay lại đến thỉnh an. Thiền sư quay mặt vào tường giả rên hừ hừ:
- Lão tăng 2, 3 ngày nay thân thể khiếm an. Ngươi có mang thuốc gì đến cho ta không?
Ông tăng lấy tay đập vào tịnh bình hỏi:
- Tịnh bình này ở đâu mà có?
- Đó là của ta, còn của ngươi ở đâu?
- Của thiền sư cũng là của con.
(Thiền Cơ)

Tịnh bình chỉ tự tánh.

575 Lẩm bẩm gì đó?

Một ông tăng đang rửa bát, Phổ Nguyện đến cướp lấy. Ông tăng tay không, đứng yên. Phổ Nguyện mắng:
- Bát trong tay ta, miệng ngươi lẩm bẩm gì đó?
(Thiền Cơ)

Phổ Nguyện cướp lấy bát, chỉ không có bát để rửa, cũng ám chỉ bản lai vô nhất vật, lại mắng ông tăng tay không đứng yên, sao không thể ngộ tự tánh?


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 18 Jul 2012, 1:14 PM | Message # 121
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
576 Gánh phẩn.

Dược Sơn hỏi Vân Nham:
- Làm gì vậy?
- Gánh phẩn.
- Phẩn của ai?
- Tại.
- Ngươi đi đi, lại lại vì ai?
- Giúp hắn gánh Đông, gánh Tây.
- Sao không cùng đi?
- Thầy đừng mắng hắn.
- Chẳng nên nói thế sao?
- Nói gì?
- Còn biết gánh không?
(Thiền Viên)

Hắn chỉ tự tánh.

577 Hiếu thuận.

Động Sơn hỏi thị giả của Đức Sơn:
- Ngươi từ đâu tới?
- Từ Đức Sơn.
- Tới làm gì?
- Tới hiếu thuận thiền sư.
- Cái gì hiếu thuận nhất thế gian?
(Thiền Viên)

Câu hỏi của Động Sơn ám chỉ thị giả tự kiến tánh là tối hiếu thuận đối với thiền sư.

578 Lời giảng của Hoàng Bá.

Hoàng Bá cổ tôn túc Ngữ lục nói rằng:
- Bồ Đề không thể lấy thân mà được vì thân vô tướng, không thể lấy tâm mà được vì tâm cũng vô tướng, không thể lấy tánh mà được vì tánh là bản nguyên của tự tánh. Không thể lấy Phật mà được Phật, không thể lấy vô tướng mà được vô tướng, không thể lấy không mà được không, không thể lấy Đạo mà được Đạo. Vốn không có gì để được, cho nên nói "Không pháp có thể được.” Ý này khó biết, chỉ dạy các ngươi đừng tìm cầu, tìm cầu là mất. Như người ngu lên núi kêu một tiếng. Tiếng vọng từ hang ra, bèn chạy xuống núi tìm không thấy. Lại kêu lên một tiếng nữa. Trên núi tiếng vọng lại dội lại. Lại chạy lên núi tìm.
Cứ như vậy ngàn vạn kiếp chỉ là người đuổi theo tiếng vọng mà tìm tiếng, uổng cả kiếp người. Nếu ngươi không phát ra tiếng thì không có tiếng vọng. Nếu coi Niết Bàn không nghe, không tiếng, không biết, không tung, không tích. Nếu được như thế thì là hàng xóm của tổ sư vậy.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Tất cả mọi hình tượng đều do tâm sanh.

579 Lâm Tế trồng tùng.

Có lần Lâm Tế trồng nhiều tùng. Hoàng Bá hỏi:
- Ngươi ở chỗ núi sâu này trồng nhiều tùng để làm gì?
- Thứ nhất làm đẹp sơn môn, thứ nhì làm mẫu mực cho người sau.
Nói rồi dùng cuốc cuốc một hai nhát.
Hoàng Bá nói:
- Dù vậy, ngươi vẫn bị đánh 30 gậy.
Lâm Tế lại cuốc ba nhát, vừa cuốc vừa rên hừ hừ.
Hoàng Bá nói:
- Tông phái ta đến ngươi sẽ hưng thịnh hậu thế.
(Zen Koans)

Phàm làm việc gì ta cũng nên làm với lòng tự tin. Hoàng Bá biết Lâm Tế đã ngộ và đang trồng Thiền Lâm Tế ở tự viện, nhưng ông vẫn khảo nghiệm. Ngay cả khi bị Hoàng Bá chỉ trích Lâm Tế vẫn không lay động. Cuối cùng, Hoàng Bá bầy tỏ sự hoan hỉ. Khi một người giác ngộ, sự biểu hiện có thể khác, nhưng bản chất thì đồng.

580 Theo dòng mà đi.

Đại Mai nhân nghe Mã Tổ nói "Tức tâm, tức Phật" mà ngộ, sau đó vào núi sâu kết thảo am, ẩn cư. Có một lần, một đệ tử của Diêm Quan (bạn học của Đại Mai) vào núi chơi, bị lạc đường gập một lão hòa thượng tiên phong đạo cốt, bèn hỏi:
- Hòa thượng ở núi này bao lâu rồi?
- Ta chỉ thấy 4 mặt, 8 phương núi xanh lại vàng.
Ông tăng lại hỏi:
- Đi lối nào để ra khỏi đây?
- Theo dòng nước mà đi.
Ông tăng khi trở về đem chuyện trên bạch với sư phụ. Diêm Quan đoán là bạn đồng học Đại Mai bèn sai ông tăng đó mang thư vào mời. Đại Mai từ chối làm bài kệ trả lời:


摧殘 枯 木 倚 寒 林
Tồi tàn khô mộc ỷ hàn lâm
幾度 逢 春 不 變 心
Kỷ độ phùng xuân bất biến tâm
樵客 貝 之 猶 不 顧
Tiều khách bối chi do bất cố
郢人 何 得 苦 追 尋
Dĩnh nhân hà đắc khổ truy tầm

Cây khô gẫy mục tựa rừng xanh
Mấy độ xuân về chẳng đổi lòng
Tiều phu trông thấy nào đoái nghĩ
Dĩnh khách thôi thì chớ kiếm tìm.

(Thích Thanh Từ dịch)

Sau chuyện này ông không muốn tiếp cận người đời bèn di chuyển đi nơi khác. Ông có làm bài kệ:


一池 荷 葉 衣 不 盡
Nhất trì hà diệp y bất tận
數樹 松 華 食 有 余
Số thụ tùng hoa thực hữu dư
剛被 世 人 知 住 處
Cương bị thế nhân tri trú xứ
更移 茅 舍 入 深 谷
Cánh di mao xá nhập thâm cốc

Áo mặc, một ao sen bất tận
Đồ ăn, mấy cội tùng già dư
Đã bị người đời biết chỗ ở
Rời sâu am cỏ để lánh cư.

(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

"Theo dòng nước mà đi" là chỉ cứ theo tự nhiên mà sống, đó là sống trong chân lý vậy.
(Trần Hòa Chương)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 18 Jul 2012, 1:18 PM | Message # 122
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
581 Lâm Tế đối thoại với ni cô.

Lâm Tế hỏi ni cô:
- Thiện đến hay ác đến?
Ni cô hét lên, Lâm Tế giơ phất tử lên, nói:
- Nói lại! Nói Lại!
Ni cô lại hét lên, Lâm Tế bèn đánh.
(Lâm Tế Lục)

Thiện đến dẫn từ chữ Phạn Svagata, dịch ra chữ Hán là "Thiện lai tỳ khưu" là lời đức Phật nói khi có tín đồ đến xin thế phát. Ở đây, Lâm Tế thêm "ác đến" để thành một cặp đối đãi. Ni cô hét lên tỏ rằng cô đã vượt qua quan niệm về thiện ác. Lâm Tế vớ lấy gậy (chưa đánh) bảo cô nói lại để trắc nghiệm cô có thực sự vượt qua những quan niệm này không. Cô lại hét lên chứng tỏ mình vẫn giữ vững lập trường, đáng nhẽ cô nên nắm lấy gậy của Lâm Tế và đánh lại, ám chỉ sao dám hỏi cô một câu như thế.
(Paul Demiéville)

582 Chôn sống.

Một lần, Lâm Tế cùng mọi người làm ruộng, thấy Hoàng Bá đến, bèn dựng cuốc mà đứng. Hoàng Bá nói:
- Gã này mệt dữ!
- Cuốc còn chưa sờ đến, mệt cái gì?
Hoàng Bá bèn đánh. Lâm Tế nắm lấy gậy, đẩy một cái Hoàng Bá liền ngã. Hoàng Bá kêu lên:
- Duy na! Duy na! Mau đỡ ta dậy!
Duy na đỡ Hoàng Bá đứng lên và thưa:
- Hòa thượng! Sao lại dung túng cho gã sư điên này?
Hoàng Bá đánh Duy na.
Lúc đó Lâm tế dùng cuốc, cuốc đất và nói:
- Ở các nơi đều hỏa táng, còn ở đây thì ta bị chôn sống!
Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Hoàng Bá đánh Duy na là ý gì?
- Tên trộm nhà nghề chẳng để kẻ đuổi theo đánh.
(Lâm Tế Lục)

Câu nói của Lâm Tế có nghĩa là ở các nơi khác phải chờ đến khi chết mới được lên Niết Bàn, còn ở đây và ngay bây giờ ta đã ở Niết Bàn vì đã cắt đứt mọi liên hệ với thế giới hiện tượng.
(Lu K'uan Yu)

583 Lâm Tế phỏng vấn Long Quang.

Lâm Tế hành cước đến Long Quang, Quang thượng đường, Lâm Tế hỏi:
- Không dùng mũi nhọn, làm sao đắc thắng?
Quang cứ ngồi yên.
- Đại thiện tri thức không có phương tiện sao?
Quang trợn mắt: A!
Lâm Tế chỉ tay nói:
- Lão hán này, hôm nay bị thua rồi.
(Lâm Tế Lục)

Quang cứ ngồi yên; Tuy không nói, nhưng đây là một cách trả lời. Sự im lặng cố ý của Long Quang để diễn tả sự " yên lặng sấm sét."
(Paul Demiéville)

584 Lâm Tế phỏng vấn Tượng Điền.

Lâm Tế đến Tượng Điền, hỏi:
- Không phàm không thánh, thỉnh sư nói mau!
- Ta chỉ thế đó!
Lâm Tế hét lên:
- Có nhiều tú hòa thượng chỉ ở đây mà tìm bát!
(Lâm Tế Lục)

Câu nói của Lâm Tế không phải là một lời mắng mà là một lời khen vì Tượng Điền đã tránh không bị mắc bẫy vào cặp đối đãi phàm thánh.
(Paul Demiéville)

585 Núi Hồn Lôn.

Lâm Tế thấy một ông tăng đi tới bèn dang hai tay ra, ông tăng không nói gì. Thiền sư hỏi:
- Hiểu không?
- Không hiểu!
- Muốn phân núi Hồn Lôn ra cũng không được, ta cho ngươi hai tiền!
(Lâm Tế Lục)

Người xưa tin rằng ở giữa Tây Phương có một ngọn núi lên là Hồn Lôn, nghĩa là hắc ám, ở đây chỉ ông tăng ngu. Hai tay dang ra, hai tiền đều chỉ nhị nguyên đối
đãi. Lâm Tế cho ông tăng hai tiền để đi mua dép cỏ mà tham học các vị tôn túc.
(Paul Demiéville)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 18 Jul 2012, 1:44 PM | Message # 123
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
586 Năm trăm đệ tử của Kinh Sơn.

Kinh Sơn có năm trăm đồ đệ, ít chịu tham thiền. Hoàng Bá sai Lâm Tế đến Kinh Sơn. Hoàng Bá hỏi:
- Ngươi đến đó rồi làm gì?
- Con đến đó sẽ có cách.
Lâm Tế đến Kinh Sơn mang hành trang vào pháp đường gập Kinh Sơn, Kinh Sơn vừa ngửng đầu lên, Lâm Tế liền hét. Kinh Sơn định mở miệng, Lâm Tế phất áo mà đi.
Chúng đệ tử hỏi:
- Ông tăng này ở đâu đến, định nói gì, sao lại hét sư phụ?
- Ông tăng này từ Hoàng Bá tới, muốn biết người nói gì hãy tự mình đi hỏi.
Sau đó, đa số đệ tử tự phân tán.
(Lâm Tế Lục)

Hoàng Bá sai Lâm Tế từ Quảng Tây đến Chiết Giang (theo đường chim bay là 600 cây số) chỉ để hét một tiếng, đủ để tiêu tán đồ chúng một tự viện.
(Paul Demiéville)

587 Tứ liệu giản.

Trong một buổi giảng chiều, Lâm Tế nói:
- Có lúc đoạt người không đoạt cảnh, có lúc đoạt cảnh không đoạt người, có lúc cảnh và người đều đoạt, có lúc cảnh và người đều không đoạt.
Có ông tăng hỏi:
- Thế nào là đoạt người không đoạt cảnh?
Sư đáp:
Ngày ấm, đất bầy gấm
Con trẻ, tóc rũ trắng như tơ.
- Thế nào là đoạt cảnh không đoạt người?
Sư đáp :
Lệnh vua vừa ban khắp thiên hạ
Tướng ngoài quan ải không chiến tranh.
- Thế nào là người cảnh đều đoạt?
Tịnh Châu và Phần châu không tiến cống
Độc lập một phương
- Thế nào là người và cảnh đều không đoạt?
Vua lên điện báu
Ông lão quê ca ngợi thanh bình.
(Lâm Tế Lục)

1- Đoạt người không đoạt cảnh: Người ở trong câu này chỉ ngã chấp, phải trừ bỏ, tức là không tâm nhưng chẳng không cảnh.
Ngày ấm bầy đất gấm: cảnh còn.
Con trẻ tóc rũ trắng như tơ: đoạt người.
Vừa thấy trẻ nhỏ, chớp mắt đã thấy tóc bạc, đời người mấy chốc? chấp ngã ích gì?
2- Đoạt cảnh không đoạt người: Cảnh ở trong câu này là chỉ pháp chấp, phải trừ bỏ tức là không cảnh nhưng chẳng không tâm. Có vua có tướng là còn người. Thấy vua nhưng không thấy lệnh, thấy tướng nhưng không thấy chiến tranh là cảnh không.
3- Người cảnh đều đoạt: nói đến cùng chỉ là không, tâm cảnh đều diệt.
Tịnh châu và Phần châu không tiến cống: đoạn tuyệt tin tức.
Độc lập một phương: độc cư.
4- Người cảnh đều không đoạt: là vật ngã là một, thể dụng chẳng hai. Vua và ông lão quê là người, điện báu và ca ngợi thanh bình là cảnh.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

588 Lâm Tế phỏng vấn Minh Hóa.

Lâm Tế đến Minh Hóa, Hóa hỏi:
- Đến đến, đi đi để làm gì?
- Để mòn dép cỏ.
- Chính ra ngươi làm gì?
- Lão hán, ngay cả thoại đầu ngươi cũng chẳng hiểu.
(Lâm Tế Lục)

Câu của Lâm Tế có nghĩa là: ta đã đi tham học với các vị tôn túc đến mòn cả dép mà chỉ gập những câu hỏi vớ vẩn như của Minh Hóa.
(Paul Demiéville)

589 Tháp Đạt Ma.

Lâm Tế đến viếng tháp Đạt Ma, tháp chủ hỏi:
- Trưởng lão lễ Phật trước hay lễ tổ trước?
- Ta chẳng lễ Phật cũng chẳng lễ tổ!
- Xin hỏi Phật và tổ có oán thù gì với trưởng lão?
Lâm Tế bèn phất tay áo mà đi.
(Lâm Tế Lục)

Câu hỏi 1 của tháp chủ chứng tỏ ông còn chấp phàm thánh. Câu trả lời của Lâm Tế là để phá chấp cho ông.
Câu hỏi 2 của tháp chủ chứng tỏ ông chẳng hiểu gì cả, Lâm Tế chỉ còn cách bỏ đi.
(Lu K'uan Yu)

590 Bài kệ của Huệ Khả phó Pháp cho Tăng Xán.

Bản lai duyên hữu địa
Nhân địa chủng hoa sinh
Bản lai vô hữu chủng
Hoa diệc bất năng sinh

Xưa giờ vì có đất
Do đất, mọi hoa sanh
Xưa giờ không có giống (hạt)
Hoa cũng chẳng thể sanh.
(Tổ Đường Tập)

Câu (1) và (2) chỉ phương tiện của Tâm pháp: từ đất tâm nở hoa pháp.
Câu (3) và (4) : trong tự tánh thanh tịnh không có hạt cũng không có hoa.
(Lu K'uan Yu)



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 18 Jul 2012, 1:48 PM | Message # 124
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
591 Bài kệ của Tăng Xán phó Pháp cho Đạo Tín.

花種 雖 因 地
Hoa chủng tuy nhân địa
從地 種 花 生
Tòng địa chủng hoa sinh
若無 人 下 種
Nhược vô nhân hạ chủng
花種 盡 無 生
Hoa chủng tận vô sinh

Giống hoa tùy nhân đất
Từ đất giống hoa sanh,
Nếu không người gieo giống
Hoa đất trọn không sanh.

(Thích Thanh Từ dịch)
(Tổ Đường Tập)

Câu (1) từ đất tâm hạt bồ đề nở thành hoa trí tuệ vì ta giảng cái tâm pháp này.
Câu (2) vì tự tánh của ngươi vốn thanh tịnh làm sao có hạt và hoa?
Câu (3) giờ ta giảng cái tâm pháp này làm duyên đất cho hạt bồ đề nở thành hoa trí tuệ.
Câu (4) nếu không ai gieo hạt bồ đề thì không có đất cũng không có hoa.
(Lu K'uan Yu)

592 Bốn tiếng hét của Lâm Tế.

Lâm Tế nói:
- Có lúc tiếng hét như kim cương vương bảo kiếm, có lúc tiếng hét như sư tử ngồi xổm, có lúc tiếng hét như cần câu quơ bóng cỏ, có lúc tiếng hét không có tác dụng của tiếng hét.
(Nhất Vị Thiền: Quyển nguyệt)

1/ Kim cương vương bảo kiếm rất sắc có thể cắt đứt tất cả các giây leo. Cắt đứt mọi mê hoặc, vọng tưởng.
2/ Sư tử ngồi xổm trước sơn môn: thảo tặc khiếp đảm, chỉ cần gầm lên một tiếng trăm thú hoảng sợ, có tác dụng khiến hành giả hồi quang phản chiếu vạn hữu chư pháp.
3/ Người đánh cá dùng gậy đầu có buộc lông chim quơ trên mặt nước dụ cá thấy bóng mà vào lưới, đây là thử trình độ của hành giả.
4/ Tiếng hét này không có tác dụng gì, mặc theo vận mệnh mà hét, loại tiếng hét này không hét mà hét là tiếng hét tối cao vô thượng, là tiếng hét chỉ có khi đã khai ngộ.

593 Lâm Tế đến Phụng Lâm.

Trên đường Lâm Tế gập một bà lão, bà lão hỏi:
- Đi đâu?
- Đến Phụng Lâm.
- Phụng Lâm không có nhà!
- Đi đâu vậy?
Bà lão bước đi không trả lời. Lâm tế gọi:
- Bà lão!
Bà lão ngoảnh đầu lại, Lâm Tế bỏ đi.
( Lâm Tế lục)

Lâm Tế lập lại câu hỏi của bà lão, nêu lên vấn đề đến, đi. Tự tánh là như như bất động làm gì có đến, đi. Bà lão này không hiểu gì nhiều về thiền. Khi bà lão bước đi không trả lời Lâm Tế là đúng. Nhưng khi Lâm Tế gọi bà để trắc nghiệm, thì bà ngoảnh đầu lại chứng tỏ bà không hiểu gì cả, do đó Lâm Tế vẫn đi.
(Lu K'uan Yu)

594 Lâm Tế đối thoại với Hạnh Sơn.

Lâm Tế hỏi Hạnh Sơn:
- Thế nào là trâu trắng ngoài nhà?
Hạnh Sơn không đáp, giả làm tiếng trâu kêu: Hồng! Hồng!
- Ngươi câm sao?
- Trưởng lão định làm gì?
- Đồ súc sanh!
(Lâm Tế lục)

Câu hỏi của Lâm Tế có nghĩa là Đại Thừa có phải là đường giải thoát không? Lâm Tế đặt câu hỏi này là giăng ra một cái bẫy để dụ Hạnh Sơn vào cuộc tranh luận, nhưng Hạnh Sơn khôn ngoan không mắc bẫy, bằng lòng kêu hồng hồng như trâu.
(Paul Demiéville)

595 Định thượng tọa.

Định thượng tọa đến tham Lâm Tế, hỏi:
- Thế nào là đại ý của Phật pháp?
Lâm Tế bước xuống thiền sàng, túm lấy ông, tát cho một cái rồi buông ra. Định thượng tọa sửng sốt đứng yên. Ông tăng đứng bên bèn nhắc:
- Định thượng tọa! sao không lạy?
Định bèn lạy, hoát nhiên đại ngộ.
(Lâm Tế lục)

Định thượng tọa tưởng Lâm Tế sẽ cho mình một câu trả lời, ngờ đâu lại lãnh một cái tát, do đó đứng ngây người ra. May nhờ ông tăng nhắc nhở do đó toàn bộ suy tư đều tiêu diệt, nói cách khác ông đã triển khai tự ngã thành vô ngã.
Lâm Tế đánh ông là để nhắc nhở ông không phải là suy tư ở trong đầu “thiền là gì?”, mà là muốn ông trong hành động thực tế tìm ra thiền lý.
(Trần Hòa Chương)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 18 Jul 2012, 1:54 PM | Message # 125
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
596 Mua một cỗ quan tài.

Ngày nọ Phổ Hóa trên đường xin tăng phục, mọi người ưng cho, nhưng Phổ Hóa lại không nhận. Lâm tế phái viện chủ đi mua một cỗ áo quan. Khi Phổ Hóa về Lâm Tế bảo:
- Ta đã dành cho ngươi một bộ cà sa rồi!
Phổ Hóa lập tức vác áo quan ra đường nói lớn rằng:
- Lâm Tế đã cho ta bộ cà sa này, do đó ta định ra cửa Đông mà hóa.
Người đi đường nghe vậy bèn theo mà xem rất náo nhiệt.
Phổ Hóa lại nói:
- Hôm nay ta chưa kịp chuẩn bị, thôi để ngày mai đi ra cửa Nam mà chết.
Như vậy liên tiếp ba ngày, mọi người không còn ai tin lời nữa.
Do đó đến ngày thứ tư không ai đi theo xem. Phổ Hóa một mình ra ngoài thành, tự vào quan tài, kêu người đi đường đóng đinh nắp quan tài. Tin tức mau chóng lan truyền khắp thành. Hàng vạn người trong thành đều chạy đến xem. Tới khi mở nắp quan tài ra thì không thấy thi thể đâu cả. Lúc đó mọi người chỉ nghe thấy trên không có tiếng chuông rung. Tiếng chuông xa dần rồi mất hẳn.
(Lâm Tế lục)

Ý nghĩa chủ yếu của công án này là đừng để những sự vật bên ngoài làm động tâm. chân tướng của sự tình không phải mắt có thể nhìn thấy được.
(Trần Hòa Chương)

597 Không đi Hà Nam thì đi Hà Bắc.

Lâm Tế đến từ biệt Hoàng Bá, Hoàng Bá hỏi:
- Ngươi định đi đâu?
- Không đi Hà Nam thì đi Hà Bắc.
Hoàng Bá bèn đánh, Lâm Tế nắm lấy tay Hoàng Bá và đánh lại một chưởng.
Hoàng Bá ha hả cười lớn, kêu:
- Mang kỷ án và thiền trượng Bách trượng cho ta ra đây!
Lâm Tế nói:
- Tiểu hòa thượng mau mang lửa tới.
- Tuy ta nói vậy, nhưng ngươi đi thì cứ đi, sau này ngươi sẽ chiết phục được thiên hạ.
(Lâm Tế lục)

Câu nói của Lâm Tế "Không đi Hà Nam thì đi Hà Bắc" biểu thị thân tâm tự do tự tại, không bị bó buộc. Hoàng Bá đánh ông để xem ông có phải là do tục niệm muốn đi Hà Nam hay Hà Bắc không, Nếu phải thì đánh là đúng rồi. Nhưng câu nói của Lâm Tế là một loại "liễu ý" do đó Hoàng Bá muốn đánh thì lại là không hiểu. Do đó Lâm Tế đánh lại. Tâm của Hoàng Bá và Lâm Tế tương thông do đó lập tức cấp ấn khả.
(Minh Cảnh)

598 Vòng tròn của Mã Tổ.

Một ông tăng hỏi Mã Tổ:
- Cái gì là Phật pháp? Làm sao để tu?
Mã Tổ lấy tích trượng vẽ một vòng tròn trên đất, bảo ông tăng bước vào. Sau đó giơ tích trượng mà đánh. Ông tăng thầm nghĩ sư phụ bảo mình bước vào vòng tròn mà đánh, vậy nếu mình bước ra chắc khỏi bị đánh, ông bèn bước ra, nhưng Mã Tổ vẫn đánh.
(Sinh Hoạt Thiền)

Giả dụ trong vòng tròn là hữu thì ngoài vòng tròn là không. Ông tăng ở trong vòng
tròn là chấp hữu, ra ngoài vòng tròn là chấp không, đều là biên kiến nên đều bị đánh.

599 Hai đệ tử của Đại Mai.

Giáp Sơn và Định Sơn đều là đệ tử của Đại Mai. Một hôm tranh luận vấn đề có Phật hay không. Sư đệ Giáp Sơn chủ trương có Phật. Chỉ cần trong tâm chúng ta lúc nào cũng có Phật thì không sợ 6 đường luân hồi, không sợ những khổ sở của thế gian, thậm chí địa ngục cũng không sợ nữa. Dù gập khổ nạn, nghịch cảnh lúc nào tâm cũng niệm Phật, bồ tát thì sẽ khắc phục được. Nhưng sư huynh Định Sơn lại không đồng ý. Ông nói: "Chỉ cần tất cả đều không, cả Phật cũng không thì không có 6 đường luân hồi. Đó mới thật sự là giải thoát." Hai sư huynh, đệ tranh luận, không ai chịu ai. Sau đó, hai người đến nhờ sư phụ là Đại Mai phân sử. Sau khi nghe xong, Đại Mai nói:
- Hai người đều đúng, nhưng một gần, một xa.
Giáp Sơn hỏi:
- Sư phụ! Vậy ai gần, ai xa?
Đại Mai đáp:
- A! Hôm nay ta mệt rồi, muốn hỏi gì ngày mai hẵng hỏi.
Ngày hôm sau, mới sáng sớm sư đệ Giáp Sơn đã đến gõ cửa phòng sư phụ. Đại Mai hỏi:
- Hãy còn sớm mà ai đã gõ cửa?
- Là con, Giáp Sơn.
- Đến làm gì?
- Hôm qua chúng con chả hỏi sư phụ là gì, sư phụ nói một gần, một xa. Con có hỏi nhưng sư phụ bảo hôm nay lại.
- Kẻ gần không đến, kẻ đến không gần.
(Sinh Hoạt Thiền)

Trong tâm có Phật và tất cả đều không, đều là dẫn ở trong kinh điển Phật giáo và đều đúng. Nhưng ai gần chân lý hơn? Dĩ nhiên trong tâm có Phật thì không sợ 6 nẻo luân hồi, nhưng tất cả đều không thì mới thực sự là giải thoát. Chấp ác dĩ nhiên là sai, nhưng chấp thiện cũng là sai nốt vì chưa được hoàn toàn giải thoát.

600 Ngưỡng Sơn và Như Hội.

Một hôm Ngưỡng Sơn đến tham phỏng Như Hội. Như Hội hỏi:
- Ngươi là người ở đâu?
- Con là người Quảng Nam.
- Ta nghe nói Quảng Nam có viên trấn hải minh châu phải không?
- Thật như vậy.
- Ngươi có thể tả viên trấn hải minh châu cho ta nghe được không?
- Đêm tối ẩn đi, ngày sáng lại hiện ra.
- Vậy sao? Ngươi có đem theo viên ngọc không?
- Đương nhiên có đem theo.
- Vậy sao không đưa ra cho lão tăng coi thử?
Ngưởng Sơn chắp tay vào trước ngực, đến gần Như Hội thưa lớn:
- Hôm qua con đến Quy Sơn, Quy Sơn cũng giống như thiền sư đòi xem minh châu, lúc đó con không có lời nào nói được, cũng không có cách gì làm cho phải lẽ.
- Thật là sư tử hống, tiếng rất to!
(Sinh Hoạt Thiền)

Trấn hải minh châu là chỉ tự tánh. Như Hội hỏi Ngưỡng Sơn có mang theo không. Ngưỡng Sơn đáp dĩ nhiên có vì ai ai cũng có Phật tánh. Đêm tối ẩn đi: tự tánh bị phiền não che lấp. Ngày sáng lại hiện ra: khi khai ngộ thì tự tánh hiển hiện. Không có lời nào nói được: vì không thể dùng lời nói để diễn tả tự tánh. Sư tử hống: lời khen ngợi người nói pháp hay.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 19 Jul 2012, 2:11 PM | Message # 126
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
601 Tỉnh thức.

Ba Tiêu, một thi sĩ nổi tiếng của Nhật Bản viết một bài hài cú như sau:
Nhìn cẩn thận
Hoa Nazuna
nở
dọc hàng rào.
(The Center Within)

Nazuna là một loài hoa dại, nhỏ, mầu trắng, nếu không để ý thì nhìn không thấy. Ba Tiêu có lẽ đã đi dọc theo hàng rào nhiều lần nhưng cũng không để ý đến loài hoa dại này, cho đến buổi sáng đặc biệt đó. Dưới ánh mặt trời, hoa nở rộ. Một loài hoa dại nhỏ bé không đáng kể, không ai nhìn nó, khen ngợi nó, nhưng nó vẫn sống trọn vẹn. Ba Tiêu đã được gợi hứng và được học một bài học lớn về nó và ông đã kết tinh sự hiểu biết của ông trong bài hài cú. Bài học ở khắp nơi quanh ta, chỉ cần ta mở tâm nhãn. Dù ta học nhiều bao nhiêu đi nữa nếu không có sự tỉnh thức thì đó chỉ là sự thu thập kiến thức không phải là học. Thiền dạy chúng ta tỉnh thức.

602 Năm nào, ngày nào cũng tốt.

Ngày Nguyên Đán, Hư Đường thượng đường bảo đại chúng rằng:
Năm nào cũng tốt
Ngày nào cũng tốt.
(Xuân Canh)

Hư Đường là một thiền sư tu hành rất nghiêm, là một vị cao tăng danh vọng rất lớn. Mỗi năm, ngày Nguyên Đán ông đều nói với đệ tử câu nói trên. Câu nói này hàm ý con người ta làm việc gì cũng phải dốc toàn lực ra mà làm không kể gì đến được, mất, khen, chê, lấy thái độ quang minh, thản nhiên tiếp thọ bi, hỉ của cuộc đời. Thị phi, thành bại, quay đầu lại chỉ là không, chẳng bằng quay về tự tánh thanh tịnh, vô vi.

603 Ẩn Phong Đến Thăm Quy Sơn.

Ẩn Phong một lần đến thăm Quy Sơn (đệ tử của Bách Trượng Hoài Hải). Đến nơi, vào ngay thiền đường để y bát ở nơi thủ tọa. Quy Sơn nghe sư thúc đến vội sửa y phục chỉnh tề, đến thiền đường thăm hỏi. Ẩn Phong thấy Quy Sơn đến bèn nằm ngay xuống ra dáng đang ngủ. Quy Sơn chỉ còn cách trở về phòng phương trượng. Ẩn Phong bèn đi. Một lúc sau, Quy Sơn hỏi thị giả:
- Sư thúc còn ở đây không?
- Đã đi rồi!
- Khi đi, sư thúc có nói gì không?
- Không nói gì cả.
- Tuy rằng không nói, nhưng tiếng như sấm!
(Nhất Vị Thiền: Quyển nguyệt)

Các vị thiền sư đối đáp nhau, không nhất thiết phải dùng đến lời nói. Ẩn Phong không hổ là sư thúc.

604 Dược Sơn Xem Kinh.

Dược Sơn đang xem kinh, có ông tăng hỏi:
- Hòa thượng bình thường cấm xem kinh, sao tự mình lại xem?
- Ta chỉ độ mắt.
- Con muốn học hòa thượng có được không?
- Nếu là ngươi xem da trâu cũng thủng.
(Nhất Vị Thiền: Quyển Nguyệt)

Người chỉ học cách bơi lội trong sách, nhưng không bao giờ xuống nước thì không bao giờ biết bơi. Người giỏi bơi lội, nhất định đã từng bị uống nước. Muốn bơi trong bể Thiền, phải qua giai đoạn xem kinh.

605 Túc Tông hỏi Đạo Huệ Trung.

Túc Tông đến tham phỏng Huệ Trung, vua hỏi nhiều vấn đề, thiền sư đáp nhưng không nhìn vua. Túc Tông giận nói:
- Trẫm là thiên tử Đại Đường mà sao thầy không thèm nhìn đến?
- Bệ hạ có thấy hư không chăng?
- Có.
- Xin hỏi, hư không có để mắt đến bệ hạ không?
Túc Tông không nói gì được nữa.
(Nhất Vị Thiền: Quyển Nguyệt)

Quốc sư Huệ Trung tâm như hư không, đối đãi hoàng đế cũng như người thường. Thiền là bình đẳng, vì vậy không có vua, tôi, quý, tiện.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 19 Jul 2012, 2:14 PM | Message # 127
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
606 Chứng Ngộ.

Ngưu Đầu Pháp Dung thiền sư nói:
- Bồ đề vốn chẳng cần giữ, phiền não vốn chẳng cần bỏ, linh tri tự chiếu, vạn pháp về như.
(Nhất Vị Thiền: Quyển Nguyệt)

Người mê chẳng hiểu sắc không, người ngộ vốn không nghịch thuận. Tám vạn bốn ngàn pháp môn nói đến cùng chẳng sai biệt ly tấc. Nếu lấy kinh điển để giải thích Phật pháp chỉ là giải ngộ, phải lìa chữ nghĩa, chân chính thể nghiệm, nhân duyên chín mùi, do thiện tri thức chỉ thẳng vào tâm, thùng sơn thủng đáy không còn quái ngại, lúc đó mới chính là chứng ngộ.

607 Tượng Phật Bùi Hưu.

Một hôm Bùi Hư mang một tượng Phật đến trước mặt Hoàng Bá, quỳ xuống thưa rằng:
- Thỉnh sư phụ an danh (đặt tên cho tượng Phật).
Hoàng Bá gọi:
- Bùi Hưu!
- Dạ!
- Tốt, ta đã an danh rồi đó.
Bùi Hưu lạy tạ.
(Nhất Vị Thiền: Quyển Nguyệt)

Rõ ràng là Bùi Hưu muốn thử thách sư phụ. Nếu coi tượng Phật là Phật thì là còn chấp. Bùi Hưu cũng là giả danh, gọi tượng Phật là Bùi Hưu nào có trở ngại gì? Đối với một người đã khai ngộ thì chúng sanh đều là Phật, huống hồ Phật vốn không danh, gọi là gì mà chả được?

608 Tỳ Lô Giá Na Phật.

Có một ông tăng hỏi Huệ Trung:
- Tỳ Lô Giá Na Phật là gì?
- Ngươi bưng ang nước lại đây.
Ông tăng mang ang nước lại, Huệ Trung nói:
- Bưng trả về chỗ cũ.
Ông tăng mang ang nước trả về chỗ cũ và nhắc lại câu hỏi:
- Tỳ Lô Giá Na Phật là gì?
- Cổ Phật lâu lắm rồi.
(Nhất Vị Thiền: Quyển Nguyệt)

Huệ Trung muốn ông tăng do động tác mà cảm thọ. Cái có thể nhận lệnh của thiền sư chẳng phải là pháp thân Phật sao? Sự chỉ dậy này còn hơn là nói ngàn lời.

609 Rửa ra cái đó.

Bố Nạp đang rửa tượng Phật. Dược Sơn hỏi:
- Cái này ngươi có thể rửa, còn cái đó ngươi có rửa ra được không?
- Thầy mang cái đó ra cho con coi!
(Nhất Vị Thiền: Quyển Nguyệt)

Cái này chỉ tượng Phật, cái đó chỉ tự tánh. Người không hiểu cái đó nhất định không trả lời được. Tự tánh không cần rửa, cũng không có ra vào. Ông tăng khôn ngoan không rơi vào bẫy của câu hỏi mà hỏi ngược lại.

610 Không Thể Nói.

Có ông tăng hỏi Tuyết Phong:
- Thỉnh sư phụ giảng Phật pháp cho con nghe.
- Ngươi nói cái gì?
(Nhất Vị Thiền: Quyển Nguyệt)

Có nhiều người học Phật pháp, đi tứ xứ tham phỏng danh sư, hy vọng được nghe một lời có thể ngộ. Phật pháp trong thật tu, tự ngộ. Các vị thiền sư chỉ trỏ đường cho đi mà thôi, chứ không thể nắm tay mình mà dẫn đến đích được.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 19 Jul 2012, 2:21 PM | Message # 128
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
611 Không có gì được tức là được.

Có ông tăng hỏi Long Nha:
- Cổ nhân được gì mà thôi?
- Giống như kẻ trộm vào nhà trống.
(Nhất Vị Thiền: Quyển Nguyệt)

Thật là một tỷ dụ cực hay. Kẻ trộm có tâm "có được gì”, nhà trống là "không được.” Cả câu nghĩa là không được tức được, giống như câu trong Tâm Kinh "Vô trí diệc vô đắc.” Huệ Trung quốc sư cũng nói "Thiện ác đều không nghĩ đến thì thấy tự tánh.” Còn nói thiện, nói ác là tự buộc thân tâm, bỏ cả đi thì thân tâm mới được giải thoát, tự tại.

612 Không mượn tay người.

Vân Chi đến thăm Thúy Nham, xin phép được vào thất để cầu đạo. Thúy Nham nói:
- Phật pháp chẳng sợ hư nát, bây giờ trời lạnh lắm, ngươi mau đi đốt than đi!
(Nhất Vị Thiền: Quyển Nguyệt)

Phật pháp vốn tự hiện thành, trong thất ngoài thất đều không thiếu việc gì phải vào thất mới cầu đạo được? Trời lạnh, đốt than để trừ lạnh, sưởi ấm cũng tương tự như cầu đạo để trừ nghi, giải hoặc. Còn nữa, việc đốt than cũng phải tự mình làm lấy.

613 Ở đâu?

Pháp Dung ở nơi thâm sơn tu hành, ông rất lười, lười đến nỗi thấy người dến thăm cũng không chắp tay mà chào. Do đó, mọi người đều gọi ông là "Dung lười.” Tứ tổ sau khi truyền y bát cho Ngũ tổ rồi, thấy trên núi Ngưu Đầu có khí tượng đoán biết trên núi chắc có người phi thường ở. Một hôm lên núi tham phỏng, thấy Pháp Dung ngồi thiền không lý gì đến mình bèn hỏi:
- Ông ở đây làm gì?
- Quán tâm.
- Ai quán tâm? Và tâm là vật gì?
Pháp Dung không đáp được, bèn hướng Tứ tổ lễ và hỏi:
- Đại đức trú ở đâu?
- Bần đạo không định dừng ở đâu, hoặc Đông, hoặc Tây.
(Nhất Vị Thiền: Quyển Nguyệt)

Câu đáp thật hay, có chỗ dừng tức có chỗ trú. Người ngộ đạo không có định sở, không có chỗ nào gọi là nhà, nhưng không đâu không là nhà.

614 Lá Phong.

Lương Khoan là một thiền sư đồng thời cũng là một nhà thư họa suất sắc. trong đời ông, ông sáng tác nhiều thi phẩm trong đó có một bài nói về lá phong trong một buổi trưa mùa thu:
Lá phong
bầy mặt trước
bầy mặt sau
khi rơi.
(The Center Within)

Trong tiếng Nhật, bài này rất nên thơ. Khi dịch ra tiếng Việt, đặc điểm này không còn, nhưng ý nghĩa thì vẫn hiểu được. Khi Lương Khoan nhìn thấy chiếc lá phong rơi ông không nén được nói với nó. Này lá phong, ngươi thực là kỳ diệu. Ngươi không bầy mặt trước, dấu mặt sau. Ngươi thực là tự nhiên. Mặc dầu ta là một tu sĩ không có cuộc đời hai mặt, nhưng vẫn còn trong ta ý muốn bầy mặt trước, dấu mặt sau. Nhưng đối với ngươi, lá phong, mặt trước và mặt sau đều giống nhau. Không giả đò, không kiêu ngạo, không giả tạo. Ước gì ta sống được như ngươi trước sau không phân biệt, ta là ta, Lương Khoan được lá phong gợi hứng và cúi đầu bái phục.

615 Bách Trượng Khóc Và Cười.

Bách Trượng sau khi bị Mã Tổ bóp mũi (xem công án 1061) trở về phòng, buông tiếng khóc lớn. Mọi người kinh ngạc hỏi:
- Nhớ nhà có phải không?
Bách Trượng lắc đầu.
- Bị ai làm nhục chăng?
Bách Trượng vẫn lắc đầu.
- Vậy vì duyên cớ gì?
- Mũi ta bị sư phụ bóp đau quá.
- Vì nhân duyên không khế hợp hay sao?
- Các ngươi hãy đi hỏi sư phụ.
Mọi người đi hỏi Mã Tổ, Mã Tổ nói:
- Hắn tự biết mà, sao các ngưoi không hỏi hắn?
Mọi người lại quay về Bách Trượng hỏi:
- Chuyện này sư phụ bảo sư huynh tự biết mà, người dạy chúng tôi đến hỏi huynh.
Bách Trượng nghe rồi ha hả cười lớn, mọi người nói:
- Vừa mới khóc, bây giờ lại cười, vậy là sao?
Bách Trượng đáp:
- Vừa rồi là khóc, bây giờ là cười.
Mọi người không hiểu ra sao, bàn tán rồi lui. Hôm sau mọi người tụ tập ở pháp đường để nghe sư phụ giảng pháp. Mã Tổ vừa lên toà giảng nói pháp, thấy Bách Trượng lìa chỗ định đi, Mã Tổ không giảng pháp nữa, lập tức xuống tòa giảng. Lúc đó Bách Trượng đang đi sát sau Mã Tổ. Mã Tổ hỏi:
- Ta định giảng pháp, sao ngươi lại bỏ đi?
- Hôm qua, mũi con bị bóp đau lắm.
- Hôm qua, ngươi để tâm tới đâu vậy?
- Hôm nay, mũi con hết đau rồi!
- Ngươi đã hoàn toàn hiểu rõ chuyện hôm qua rồi!
(Phật Dữ Thiền)

Bách Trượng khóc là do đã liễu ngộ. Khi nghe mọi người nhắc lại câu nói của Mã Tổ lại cười vì biết sư phụ đã biết mình giác ngộ.



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 19 Jul 2012, 2:24 PM | Message # 129
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
616 Nghe tiếng quạ kêu.

Duy Chính một hôm nói chuyện về Thiền với Đỗ tướng quốc. Ông nói:
- Ta dạy người mới học Thiền đừng nghĩ Đông, nghĩ Tây để ý thức bình lặng. Ý thức giống như nước có sóng. Nước có sóng không thể phản chiếu hình ảnh rõ ràng, chỉ khi nước lặng thì hình ảnh mới rõ. ngay cả đến sự ngộ đạo cũng đều do vô niệm.
Ngay chính lúc đó, trên cây ngoài sân có con quạ kêu lên. Đỗ tướng quốc hỏi:
- Quạ kêu, thiền sư có nghe không.
- Có nghe thấy.
Sau một lúc, quạ bay đi mất, Đỗ tướng quốc hỏi:
- Quạ đã bay đi rồi, thiền sư có nghe không?
- Có nghe thấy.
- Lúc quạ bay đi, chỉ thấy bay không nghe thấy kêu, sao thiền sư lại bảo nghe thấy?
- Nghe có, nghe không đối với tánh nghe vô can.
(Thiền Viên)

Tiếng quạ kêu là thanh trần, có sanh, có diệt. Nhưng tánh nghe vốn không có sanh diệt, không vì thanh trần sanh diệt mà sanh diệt.

617 Ai quán?

Đại sư Quật Đa Tam Tạng là người Thiên trúc đông du đến Thiệu Dương tham vấn Huệ Năng mà ngộ. Sau vân du đến Ngũ Đài Sơn gập một ông tăng đang ngồi thiền một mình bèn hỏi:
- Ngươi làm gì mà ngồi một mình ở đây?
- Tĩnh quán.
- Ai quán và tĩnh vật là gì?
Ông tăng thấy câu hỏi không phải tầm thường bèn hành lễ và hỏi:
- Đạo lý này làm sao nói?
- Sao ngươi không tự quán, tự tĩnh.
(Thiền Viên)

Người đời thường coi tham thiền và ngồi thiền là một. Nhưng Thiền không phải vậy, nó có sinh mạng, sinh cơ hoạt bát. Ngồi thiền tĩnh tâm cũng tốt, nhưng đừng ngồi lâu thành khô tọa.

618 Ngồi lâu ích gì?

Lục tổ nói với Chí Thành:
- Trụ tâm quán tĩnh là bệnh chứ không phải là thiền, ngồi lâu chẳng nằm nào có ích gì?
(Thiền Viên)

Hãy làm một người hoạt bát, sáng suốt, thiền không ở ngồi hay nằm.

619 Ni cô thuyết pháp.

Có vị ni cô định khai đường thuyết pháp. Đàm Không nói:
- Nữ ni không nên khai đường thuyết pháp.
- Long Nữ mới 8 tuổi đã thành Phật, người nói làm sao?
- Long Nữ có 18 phép biến, ngươi thử biến một phép cho lão tăng coi?
- Biến được thì cũng chỉ là dã hồ tinh mà thôi.
(Thiền Viên)

Trong xã hội ngày nay, ni cô dĩ nhiên có thể khai đường thuyết pháp. Người thuyết pháp không cứ là nam hay nữ, mà là có ích cho thính chúng hay không. Biến là chỉ thần thông. Thần thông nếu có, chỉ là trợ duyên cho sự thuyết pháp, nếu không có cũng không cần phải cưỡng cầu. Mục Kiền Liên tôn giả là một trong 10 đại đệ tử của Phật được tôn xưng là Thần thông đệ nhất mà cũng không cứu được mẹ ngài thọ khổ.

620 Không nghi, không ngộ.

Động Sơn Lương Giới, họ Du người Hội Kê thuộc tỉnh Chiết Giang, xuất gia từ nhỏ. Một hôm thầy dạy tụng Tâm Kinh, khi tụng tới câu "vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý" lấy tay beo má tự hỏi rằng "Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý ta đều có, vì sao kinh lại bảo rằng không?" Tâm Kinh là một bài kinh quan trọng của Phật giáo, một đứa nhỏ mà đã biết nghi hoặc như vậy dĩ nhiên là ông thầy phải lấy làm ngạc nhiên và tán thưởng, thậm chí còn nói "Ta không đáng làm thầy ngươi." (Thiền Viên)

Phần lớn các tôn giáo ở thế gian, các tín đồ phải có lòng tin, không được nghi ngờ. Trái lại, đức Phật dạy chúng ta phải nghi. Nghi lớn, ngộ lớn; nghi nhỏ, ngộ nhỏ; không nghi, không ngộ.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 19 Jul 2012, 2:26 PM | Message # 130
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
621 Đại hảo sơn.

Khi Duy Khoan ở Thiếu Lâm Tự có ông tăng hỏi:
- Đạo là gì?
- Núi lớn tốt.
- Đệ tử hỏi đạo sao thiền sư lại nói núi lớn tốt?
- Ngươi chỉ biết núi lớn tốt, không biết đạo.
(Thiền Viên)

Kỳ thực, núi lớn tốt cũng là đạo.

622 Lời nguyện của bà lão.

Một bà già hỏi Triệu Châu:
- Con mang thân người nữ, làm sao trừ năm chướng?
- Nguyện mọi người đều sanh về cõi trời, nguyện lão bà này mãi chìm trong bể khổ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Đem lòng từ bi mà chịu khổ cho thế nhân.

623 Cưỡi lừa.

Thanh Viễn cho rằng: "Người học thiền thường có hai bệnh: thứ nhất là cưỡi lừa đi tìm lừa, thứ hai là cưỡi lừa rồi không chịu xuống." Lại nói thêm: "Chẳng cần cưỡi, vì chính mình là lừa, cả thế giới này là lừa, ta không thể cưỡi." Nếu nghĩ không cưỡi thì cả thế giới này là yên lừa.
(Thiền Viên)

Cưỡi lừa tìm lừa: đạo ngay trong tâm ta, còn đi đâu mà tìm?
Cưỡi rồi không chịu xuống: nếu cứ ngoan cố cưỡi lừa đi tìm lừa thì kết quả chỉ là không.
Một gốc cây, một hòn đá đều là đạo, Phật nói pháp 49 năm mà còn nói: ta chưa hề nói một chữ, cưỡi hoài không chịu xuống, còn cưỡi đi đâu chứ?

624 Cơ duyên ngươi ở nơi Đức Sơn.

Tuyết Phong khi đang tu ở Động Sơn thiền viện, phụ trách công việc thổi cơm. Một hôm, Động Sơn hỏi:
- Ngươi đang làm gì đó?
- Đang lựa gạo.
- Ngươi đãi cát bỏ gạo hay đãi gạo bỏ cát?
- Cát và gạo đều bỏ.
- Vậy chư tăng lấy gì mà ăn?
Tuyết Phong nghe nói bèn lật sàng gạo; gạo rơi tung tóe trên mặt đất. Động Sơn nói:
- Cơ duyên ngươi ở nơi Đức Sơn.
Do đó, Động Sơn chỉ thị Tuyết Phong theo Đức Sơn tu hành.
(Thiền Viên)

Về sau Tuyết Phong quả nhiên thành một vị thiền sư nổi tiếng.

625 Lúa, đậu, mạch.

Có ông tăng hỏi Tổng Ấn:
- Thế nào gọi là tam bảo?
- Lúa, đậu, mạch.
- Con không hiểu.
- Đại chúng hoan hỉ phụng trì.
Tổng Ấn lại nói:
- Nói đến tam bảo, kỳ thực chỉ trong khoảng nhướng mày, chớp mắt, thời cơ đã thành quá khứ rồi.
Ma Cốc hỏi:
- Nếu trong khoảng thời gian ngắn như vậy, chuyện đó đã trở thành quá khứ rồi, vậy chúng con có cần hỏi hay không hỏi chuyện đó thực sự ra sao không?
Quá khứ rồi!
(Phật Dữ Thiền)

Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng. Phật là giác, pháp là Phật nghĩa, tăng là nhân duyên hòa hợp. Giác của tam bảo là điều người ta phụng trì, nhưng lúa, đậu, mạch lại chẳng phải là vật thực mà chúng tăng hoan hỉ phụng trì sao? Tinh thần học hỏi của ông tăng thực đáng khen, nhưng ngộ tánh thì chưa đủ. Thời gian thì chớp mắt đã trở thành quá khứ. Thiền cơ cũng vậy nếu trong một sát na mà mất đi khế cơ thì cơ hội gập lại đã hiếm lại còn hiếm hơn nữa.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 19 Jul 2012, 2:29 PM | Message # 131
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
626 Con sẽ làm Phật.

Đơn Hà Thiên Nhiên là bạn đồng môn của Bách Trượng, lúc nhỏ theo mẹ lên chùa lễ Phật, chỉ tượng Phật hỏi mẹ:
- Đây là vật gì?
- Là Phật.
- Hình dung đâu có khác gì người ta, sau này con cũng sẽ làm Phật!
(Niêm Hoa Vi Tiếu)

Thiền Tông mượn lời đứa nhỏ để đặt nghi vấn tượng Phật là vật gì, rồi lại mượn lời mà xướng xuất Phật không phải là gỗ đẽo ra, cũng không phải là đất bùn nặn lên. Nếu mình đã là Phật thì việc gì phải lạy tượng Phật hư giả đó?

627 Thật lạ kỳ!

Có một lần, Động Sơn đến Phần Đàm thấy một hòa thượng đang lớn tiếng nói với đại chúng rằng :
- Thật lạ kỳ! Thật lạ kỳ!
Phật giới, đạo giới không thể nghĩ bàn!
Động Sơn nghe rồi bèn hỏi:
- Ta không hỏi Phật giới, Đạo giới, ta chỉ hỏi ngươi vừa nói Phật giới, Đạo giới là gì?
Người vừa nói là một vị thủ tọa, người ta gọi ông là Sơ thủ tọa. Sơ thủ tọa nghe hỏi ngồi yên không nói. Động Sơn lại hỏi:
- Sao không nói mau?
- Nói mau liền không được gì!
- Ngươi đã không nói, lại còn nói "nói mau không được gì" là thế nào?
Sơ thủ tọa lại ngồi yên không nói, Động Sơn lại hỏi:
- Phật và Đạo chỉ là danh từ sao không dẫn giáo nghĩa luận bàn thử coi?
- Làm sao nói đây?
- Được ý quên lời!
(Phật Dữ Thiền)

Động Sơn đáp rất hay, nhưng đoạn đối thoại không hợp thiền cơ. Sơ thủ tọa hai lần im lặng không nói, Động Sơn cũng không hề tiếp dẫn, có thể cơ duyên hoàn cảnh chưa được chín mùi.

628 Vốc nước và nghịch hoa.

Vốc nước, trăng trong tay
Nghịch hoa, hương vương áo.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Hai câu này trích trong Hư Đường Lục. Ở đây Người là Chủ Thể, Cảnh là Khách Thể, chỉ cảnh giới chủ khách là một. Đây chính là cảnh giới Vô tâm tam muội (thân tâm là một) của thiền giả.

629 Sắc Tức Là Không.

Có người mang một bức họa tiên nữ đến nhờ Thạch Am (1573-1645) ở Đông Hải Tự đề chữ. Ông nghĩ hòa thượng chắc sẽ lộ vẻ mặt khó coi, nào ngờ hòa thượng cười nói:
- Vẽ đẹp quá! Ngay đến ta cũng muốn có người đẹp như vậy ở bên cạnh.
Nói rồi thuận tay lấy bút đề lên tranh:
"Phật bán pháp, Tổ bán Phật. Thời mạt, tăng bán tổ sư, ngươi bán bốn thước chính trung, an tất cả phiền não của chúng sanh. Sắc tức là không, không tức là sắc. Liễu lục, hoa hồng. Trăng đêm đêm rọi trên mặt hồ, vì không lưu tâm, nên cũng không lưu hình."
(Nhất Nhất Nhất Thiền Ngữ)

Sắc là dịch từ chữ Phạn Rũpa, chỉ vật có hình thể, cũng chỉ hiện tượng vật chất, vì sắc tức là không nên không có tự tánh, là để cảnh giới người đời đừng chấp vào hình thức. Nhưng Thạch Am lại dùng sắc theo nghĩa sắc của Nam, Nữ để đùa chơi.

630 Đạo ở trong không ở ngoài.

Nham Đầu và Tuyết Phong khi sư phụ là Đức Sơn mất rồi, bèn cùng nhau vân du bốn phương. Một hôm, hai người tới Ngao Sơn trấn, Hồ Nam, gập lúc trời tuyết lớn, hai người đành phải dừng lại.
Lúc đó Nham Đầu tâm bình tĩnh, đêm đến an tâm mà ngủ. Tuyết Phong không ngủ được, mỗi ngày đều ngồi thiền đến canh tư, trời sáng rồi mà vẫn không ngủ được. Có một lần Nham Đầu bỗng thức giấc thấy Tuyết Phong còn ngồi thiền bèn nói:
- Sao ngươi không ngủ?
- Đệ tâm chẳng an, không ngủ được.
- Ngươi có gì chẳng an, hãy nói nghe thử.
Do đó Tuyết Phong nói ra tâm lý chẳng an, thỉnh sư huynh chỉ điểm. Nham Đầu hét lên một tiếng và nói:
- Cái gì từ cửa vào chẳng phải là đồ gia bảo. Chỉ những gì phát xuất từ ngực ra có thể lật ngược trời đất thì mới có chút thành tựu.
Tuyết Phong nghe rồi khai ngộ, nói rằng:
- Hôm nay, ta tại Ngao Sơn trấn, tiến, lui chẳng được mới thực là chân chính ngộ đạo.
(Thiền Viên)

Đạo không phải từ ngoài vào, mà ở trong vốn sẵn có. Tuyết Phong tâm chẳng an là do bị ngoại cảnh chi phối. Một vị thiền giả có thể nghĩ cũng có thể dừng nghĩ, có thể kháng chế nghĩ và không nghĩ là một sự thành tựu lớn.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 20 Jul 2012, 8:39 PM | Message # 132
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
631 Giỗ Vân Nham.

Khi Động Sơn đã hơn 50 tuổi (thế kỷ 9) làm phương trượng ở Động Sơn (thuộc giang Tây). Có một lần làm giỗ Vân Nham. Có một ông tăng hỏi:
- Sư phụ khi ở với Vân Nham có được chỉ dậy đặc biệt gì không, xin nói cho chúng con nghe.
- Không có, tuy ta có ở đấy nhưng cũng không được chỉ dạy gì khác với các huynh đệ.
- Nếu vậy sao còn làm giỗ cúng?
- Ta ở đó đâu dám trái ý thầy.
- Sư phụ đến bái Nam Tuyền trước cơ mà, sao lại làm giỗ cho Vân Nham?
- Ta không phải tôn trọng đạo đức của người, chỉ trọng vì người chẳng nói cho ta điều bí mật đó!
(Phật Dữ Thiền)

Có lúc không nói lại là một phương pháp chỉ dạy hữu hiệu.

632 Lỗ Mũi.

Có ông tăng hỏi Phổ Nguyện:
- Lúc cha mẹ chưa sanh, lỗ mũi ở đâu?
- Cha mẹ sanh rồi, lỗ mũi ở đâu?
(Thiền Cơ)

Lỗ mũi chỉ tự tánh.

633 Không Mồm.

Có ông tăng hỏi Bảo Vân:
- Thế nào là không nói mà nói?
- Mồm ngươi ở đâu?
- Không mồm.
- Vậy lấy gì ăn cơm.
(Thiền Cơ)

Ăn chỉ hiện tượng giới, không mồm chỉ bản thể giới.

634 Đóng Cửa.

Một ông tăng hỏi Như Bảo:
- Thế nào là ứng cơ?
Như Bảo im lặng, ông tăng lại hỏi:
- Thế nào là im lặng?
Như Bảo đáp:
- Ngươi ra đóng cửa cho ta!
(Thiền Cơ)

Im lặng không nói là lời ứng cơ, đóng cửa chỉ thiền cơ ở giữa ta và ngươi.

635 Trâu Tốt.

Thật Tánh hỏi một ông tăng:
- Ngươi từ đâu lại?
- Từ Vân Môn.
- Ở đó có bao nhiêu trâu?
- Một hai con.
- Trâu tốt!
(Thiền Cơ)

Trâu chỉ tự tánh.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 20 Jul 2012, 8:41 PM | Message # 133
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
636 Dấu Vật Ở Đây.

Có một ông tăng đến tham kiến Trần Tôn Túc, thiền sư hét lên:
- Ngươi vì sao trộm quả để ăn?
- Con vừa mới đến sao thầy lại bảo trộm quả để ăn?
- Dấu vật ở đây!
(Thiền Cơ)

Quả chỉ tự tánh, trộm quả là hướng ngoại mà tìm tự tánh.

637 Động Đất.

Một trận động đất xẩy ra, một ông tăng hỏi Đạo Khuông:
- Còn có không động chăng?
- Có.
- Chỗ nào không động?
- Động từ Đông lại, mất hút về Tây.
(Thiền Cơ)

Động chỉ hiện tượng giới, không động chỉ bản thể giới.

638 Viên Thuốc Trị Bá Bệnh.

Một ông tăng hỏi Đạt Không:
- Thế nào là viên thuốc trị bá bệnh?
- Ngươi mắc bệnh gì?
(Thiền Cơ)

Viên thuốc trị bá bệnh chỉ tự tánh.

639 Nghe Tiếng Chuông Chùa.

Có một hôm Dịch Đường hòa thượng (1805-1879) ngồi thiền lắng nghe tiếng chuông chùa ban mai. Khi xuất định, kêu thị giả lại hỏi người thỉnh chuông là ai. Thị giả cho biét đó là một chú tiểu mới tới, Dịch Đường hòa thượng bèn cho gọi chú tiểu đó đến hỏi rằng:
- Ban mai lúc thỉnh chuông tâm tình ngươi thế nào?
- Chẳng có gì đặc biệt, chỉ thỉnh chuông thôi.
- Không thể nào! Nhất định tâm ngươi có niệm gì đó, vì ta nghe tiếng chuông rất cao quý.
Lúc đó, chú tiểu chợt nhớ ra, thưa rằng:
- Ở quê con, sư phụ thường dạy rằng khi thỉnh chuông thì tưởng chuông là Phật. Do đó phải thận trọng trai giới, kính chuông như kính Phật, dùng tâm lễ bái mà thỉnh chuông.
Dịch Đường hòa thượng nghe rồi hoan hỉ nói rằng:
- Về sau xử lý mọi chuyện, đừng bao giờ quên tâm cảnh sáng nay.
Chú tiểu đó sau này là Quán Thủ Sâm Điền Do thiền sư (1834-1915) ở Vĩnh Bình Tự.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Chân đế của Thiền là lấy vô tâm mà nhìn, nghe.

640 Một Chiếc Dép Cỏ Rách.

Một ông tăng hỏi Ba Tiêu:
- Trộm đến thì đánh, khách đến thì tiếp; bỗng nhiên trộm và
khách đều đến thì phải làm sao?
- Trong nhà có một chiếc dép cỏ rách.
- Còn dùng được không?
- Nếu ngươi vứt nó đi thì xấu nhiều, tốt ít.
(Thiền Cơ)

Trộm, khách chỉ ngoại cảnh, ngoại duyên, ngoại trần, dép cỏ rách chỉ tự tánh.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 20 Jul 2012, 8:45 PM | Message # 134
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
641 Ý Tổ Sư.

Một ông tăng hỏi Dược Sơn:
- Đạt Ma tổ sư chưa qua Trung Thổ, Trung Thổ có ý tổ sư chăng?
- Có.
- Nếu có sao còn qua?
- Vì có nên mới qua.
(Thiền Cơ)

Ý tổ sư chỉ tự tánh, không đâu không có.

642 Mặc Kệ Nó.

Một ông tăng hỏi Thọ Chiểu:
- Lúc bị vạn cảnh nhiễu loạn phải làm sao?
- Mặc kệ nó.
Ông tăng bèn lạy, Thọ Chiểu nói:
- Đừng lạy mà gẫy lưng.
(Thiền Cơ)

Ông tăng lạy là còn chấp pháp.

643 Tối Nay Không Trả Lời.

Dược Sơn thượng đường nói:
- Tối nay ta không trả lời câu hỏi, ai hỏi sẽ bị đánh 30 gậy.
Một ông tăng bước ra lạy, thiền sư bèn hươi gậy đánh. Ông tăng hỏi:
- Con không hỏi sao thầy lại đánh?
- Ngươi là người ở đâu?
- Người Tân La (Đại Hàn).
- Lúc ngươi bước chân lên thuyền đã đáng đánh 30 gậy rồi!
(Thiền Cơ)

Tự tánh ai cũng có, đến Trung Quốc làm gì?

644 Vì Sao Chẳng Ngộ?

Có ông tăng hỏi Giáp Sơn:
- Đệ tử vì sao không ngộ?
- Vì ngộ làm Xà lê mê.

Sau đó lại làm bài kệ:


明明 無 悟 法
Minh minh vô ngộ pháp
悟法 卻 迷 人
Ngộ pháp khước mê nhân
長舒 兩 脚 睡
Trường thư lưỡng cước thụy
無僞 亦 無 眞
Vô ngụy diệc vô chân

Rõ, rõ không ngộ pháp
Ngộ pháp làm mê nhân
Ruỗi thẳng hai chân ngủ
Chẳng giả cũng chẳng chân.

(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Có tâm muốn ngộ là đã chấp tướng rồi, cứ để tùy duyên thì đi, đứng, nằm, ngồi đều là đạo.

645 Hai Mươi Năm Lại Từng Cay Đắng

Vì Anh Chỉ Thẳng Hang Rồng To.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Đây là hai câu trong bài tụng của Tuyết Đậu (980-1052):

日面 佛 月 面 佛
Nhật diện Phật nguyệt diện Phật
五帝 三 皇 是 何 物
Ngũ đế tam hoàng thị hà vật
二十 年 來 會 苦 辛
Nhị thập niên lai tằng khổ tân
爲君 幾 下 蒼 龍 窟
Vi quân cơ hạ thương long quật
屈堪 述 明 眼 衲 僧
Khuất kham thuật minh nhãn nạp tăng

莫輕 忽
Mạc khinh hốt

Mặt trời Phật, mặt trăng Phật
Ngũ đế, tam hoàng là vật gì?
Hai mươi năm lại từng cay đắng
Vì anh chỉ thẳng hang rồng to.
Cúi, cam nói
Thiền tăng mắt sáng chớ xem thường.

(Thích Thanh Từ dịch)

Ý tưởng là 20 năm cay đắng cầu đạo, đã có mấy lần vào được hang rồng xanh? Theo truyền thuyết ở hàm rồng có ngọc, do đó người đời ví tham thiền như vào hang rồng lấy ngọc. Trong thực tế vào hang rồng là chỉ vào phòng sư phụ độc tham.
Tu thiền điều căn bản là phải tìm được thầy, rồi sau đó nhập thất.
Còn như chỉ đọc sách vở các học giả chưa từng vào hang rồng thì chẳng ích lợi gì, điều cốt yếu là làm sao lấy được minh châu trong hàm rồng.
Đông Lĩnh hòa thượng (1721-1793) thuyết pháp ở am Đông Bắc, bà mẹ 60 tuổi của Sài Điền Nguyên Dưỡng nghe Đông Lĩnh giảng Phật mặt trời , Phật mặt trăng nhẩm đọc theo, bất giác tiến vào trạng thái vong ngã và cuối cùng đại ngộ.
Do đó, thấy rằng xuất gia hay tại gia, ở thiền đường hay ở nhà không thành vấn đề, mọi người đều có thể đắc đạo.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 20 Jul 2012, 8:49 PM | Message # 135
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
646 Bính Đinh Đồng Tử Đến Xin Lửa.

Huyền Tắc là giám viện ở Thanh Lương Tự của Pháp Nhãn. Pháp Nhãn thấy ông không hề tham thiền, nhập thất bèn hỏi:
- Này viện chủ, sao không thấy ông tham thiền?
- Khi con ở nơi Thanh Phong đã ngộ rồi.
- Ngộ thế nào, nói ta nghe coi!
- Con hỏi Thanh Phong "Phật là gì?" lão sư đáp "Bính Đinh đồng tử đến xin lửa ", con nghe câu đó mà ngộ.
- Câu nói hay nhưng ngươi chưa hiểu rõ ý, hãy thử nói ý ngươi coi.
- Bính Đình đồng tử đều là thần lửa. Bính là anh, Đinh là em đều đến xin lửa ý nói mình đã là Phật lại còn đi cầu Phật.
- Ngươi còn chưa ngộ!
Huyền Tắc tức giận, bèn rời bỏ Thanh Lương Tự. Đi được một đoạn đường lại nghĩ: "Lão sư có 500 thiền sinh, nhất định không phải là bình phàm.” Bèn quay trở lại lạy sám hối rồi bạch rằng:
- Phật là gì?
- Bính Đinh đồng tử đến xin lửa.
Huyền Tắc tức thời đại ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Hỏi cũng hay, đáp cũng hay; thuốc không đổi, nhưng cơ duyên thật kinh người. Khi Pháp Nhãn bảo “ngươi còn chưa ngộ”, Huyền Tắc tức giận bỏ đi vì còn ngã chấp. Sau khi suy nghĩ, quay trở lại sám hối và xin thỉnh giáo, là đã bỏ được ngã chấp. Pháp Nhãn lập lại câu nói của ông là ám chỉ câu nói không sai, thiền sư chỉ phá ngã chấp cho ông mà thôi.
(Bồ Đề Học Xã)

647 Bệnh Nhân.

Đức Sơn lúc sắp mất, có ông tăng hỏi:
- Có người nào không bao giờ bị bệnh không?
- Có.
- Người vĩnh viễn không bị bệnh là thế nào?
- Ái chà!
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)

Tiếng kêu là người bệnh không bệnh nữa. Câu đáp có vẻ như mâu thuẫn nhưng thực ra không mâu thuẫn chút nào vì chân ngã không bệnh. Bệnh là hình tượng của pháp sanh diệt. Nếu vượt lên hình tượng thì bệnh không ảnh hưởng gì đến chân ngã cả.

648 Pháp Nhãn.

Pháp Nhãn nói với chúng đệ tử:
- Không được dùng mắt thịt mà xem vạn pháp, mà phải dùng mắt pháp. Nếu mắt đạo không thông đó là do mắt thịt trở ngại.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Mắt thịt nghe mệnh lệnh của thức tâm, những gì nó nhìn không phải là tự tánh.

649 Ta Muốn Bán Thân.

Phổ Nguyện hỏi:
- Ta muốn bán thân, có ai muốn mua không?
Một ông tăng thưa:
- Con muốn mua.
- Chưa cho giá, làm sao ngươi mua được?
Ông tăng há mồm, rụt lưỡi.
(Thiền Cơ)

Thân chỉ tự tánh. Tự tánh ai cũng có, mỗi mỗi viên thành, làm sao có thể bán cho người khác được? Phổ Nguyện không bán, ám chỉ ông tăng tự có, việc gì phải mua của người.

650 Đánh Phèng La.

Phổ Nguyện hỏi Thần Sơn:
- Làm gì đó?
- Đánh phèng la.
- Dùng tay hay dùng chân?
- Xin thầy chỉ thị?
- Đi hỏi chuyên gia đánh phèng la.
(Thiền Cơ)

Đi hỏi người là thừa, chi bằng tự hỏi mình.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 20 Jul 2012, 8:51 PM | Message # 136
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
651 Chỉ Đông, Chỉ Tây.

Phổ Nguyện và Sam Sơn đang sao thuốc. Phổ Nguyện hỏi:
- Đừng chỉ Đông, chỉ Tây hãy chỉ thẳng bản phận sự coi.
Sam Sơn ném que cời vào lửa, khoanh tay đứng.
- Tuy là vậy, vẫn khác ta một bước.
(Thiền Cơ)

Bản phận sự chỉ tự tánh, ở khắp mọi nơi. Sam Sơn ném que cời vào lửa là chỉ Đông, chỉ Tây, còn chấp lưỡng biên.

652 Không Còn Hơi Sức.

Một hôm, Tăng Mật cùng cuốc vườn trà với Động Sơn. Động Sơn quẳng cuốc xuống nói:
- Hôm nay ta thấy trống rỗng quá, một chút hơi sức cũng không có.
- Một chút hơi sức cũng không có, làm sao còn sức mở mồm?
- Ngươi nói có hơi sức sao?
(Thiền Cơ)

Ở hiện tượng giới (vườn trà) cần có hơi sức, nhưng ở bản thể giới thì không.

653 Cắt Cỏ.

Một hôm, Thạch Đầu đang cắt cỏ, Ẩn Phong đứng khoanh tay ở
bên. Thạch Đầu cắt đến đám cỏ trước mặt Ẩn Phong. Ẩn Phong nói:
- Thầy chỉ cắt được cái này, có cắt được cái kia không?
Thạch Đầu đưa liềm cho Ẩn Phong, Ẩn Phong nhận lấy rồi làm bộ cắt cỏ, Thạch Đầu bèn nói:
- Ngươi chỉ biết cắt cái kia mà không biết cắt cái này.
(Thiền Cơ)
Cái này chỉ cỏ, cái kia chỉ tự tánh.

654 Trời Sáng Lại Mất Lửa.

Phổ Nguyện thấy một ông tăng đang bổ củi bèn bước tới gõ vào củi ba cái. Ông tăng buông búa, trở về tăng đường. Phổ Nguyện về pháp đường một lát, lại chạy tới tăng đường thấy ông tăng đang ngồi thiền, bèn nói:
- Thật là lừa giết người!
- Thầy trở lại pháp đường có chỉ thị gì?
- Tối qua mất trâu, trời sáng lại mất lửa.
(Thiền Cơ)

Phổ Nguyện gõ vào củi ba cái chỉ tự tánh ở khắp mọi nơi; trâu, lửa đều chỉ tự tánh. Mất trâu, mất lửa là chỉ tâm bị nhiễm trần.

655 Mê Thời, Ba Giới Có

Ngộ Rồi, Mười Phương Không.
(Tòng Dung Lục)

Con người nếu mê, chấp vào vọng niệm thì cũng giống như con ngựa hoang sút dây, chạy mãi chẳng ngừng. Vọng tưởng sanh vọng tưởng làm cho khốn quẫn. Thậm chí (tướng do tâm sanh) diện mạo cũng thay đổi nữa. Nếu ngay lập tức có thể cắt đứt mê chấp thì có thể đạt không. Lấy tâm bình thản không lo lắng, không bị bất cứ cái gì ràng buộc mà sống thì cuộc sống mới thực là khoái hoạt.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 20 Jul 2012, 8:58 PM | Message # 137
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
656 Đầu Hổ Đuôi Rắn.

- Cảnh Thanh hỏi Hà Ngọc:
- Ngươi từ nơi nào tới?
- Từ Thiên Thai tới.
- Ai hỏi núi Thiên Thai của ngươi?
- Sư phụ nói vậy chẳng là đầu hổ đuôi rắn sao?
- A! Hôm nay ta bất lợi.
(Phật Dữ Thiền)

Câu nói của Cảnh Thanh "Ai hỏi ngươi núi Thiên Thai" có ý bảo Hà Ngọc hãy ra khỏi hiện thực, nhưng Hà Ngọc vẫn chấp một phía nên mới nói đó chẳng phải là "đầu hổ đưôi rắn sao?" Thiền không phải là đầu hổ, cũng không phải là đuôi rắn. Thiền vượt lên cả không gian và thời gian.

657 Gia Phong Của Vân Môn.

Một ông tăng hỏi Vân Môn:
- Thế nào là gia phong của Vân Môn?
- Giống như thiền sinh muốn đến tham học, đã đứng ở ngoài cửa rồi.
(Zen Koans)

Vân Môn kế thừa Tuyết Phong và lập nên dòng thiền Vân Môn. Ông dạy nhiều thiền sinh và dòng thiền của ông có nhiều đặc điểm. Nhưng ở đây, ông tăng không hỏi về kỹ thuật và phương pháp, mà hỏi về sự sống thiền hàng ngày của Vân Môn. Câu trả lời của Vân Môn không nói gì đến Phật, Đạo, Thiền. Và nếu ông tăng cứ tiếp tục hỏi về thiền sinh đứng ở cửa, thì ông càng đi xa đích. Thiền sinh muốn học, không những chỉ đứng ở cửa mà còn luôn sẵn sàng. Mỗi người trong chúng ta đều có một thiền sinh bên trong muốn học. Vân Môn tự mình đã đứng ở cửa học, và chúng ta cùng đứng với ông.

658 Thọ Trai.

Một hôm Lâm Tế và Phổ Hóa đi thọ trai; sư hỏi:
- Sợi lông nuốt biển lớn, hạt cải đựng Tu Di, đó là thần thông diệu dụng hay là bản thể như nhiên?
Phổ Hóa đạp đổ bàn ăn, Lâm Tế nói:
- Thô bạo quá!
- Đây là đâu mà ngươi nói thô với tế?
Hôm sau sư lại cùng với Phổ Hóa đi thọ trai, sư hỏi:
- Sự cung dưỡng hôm nay so với hôm qua như thế nào?
Phổ Hóa cũng y như trước đạp đổ bàn ăn, sư nói:
- Được thì được, nhưng thô bạo quá!
- Đồ mù, Phật pháp đâu có nói thô với tế!
(Lâm Tế Lục)

Hạt cải đựng núi Tu Di là chuyện không thể nghĩ bàn, là để diễn ý không có phân biệt to nhỏ, rộng hẹp. Nếu cố giải thích thì là chưa ngộ vì vậy Phổ Hóa mới đạp đổ bàn ăn.
(Trần Hòa Chương)

659 Vô Học Tổ Nguyên.

Ở thời Liêm Thương, tổ sư khai sơn của chùa Viên Giác là quốc sư Phật Quang tức hòa thượng Vô Học Tổ Nguyên. Khi còn ở Trung Quốc, để tránh loạn ông từ chùa Chân Như ở Đài Châu di chuyển đến chùa Năng Nhân ở Ôn Châu. Không ngờ vẫn không tránh khỏi quân Nguyên. Một hôm quân Nguyên vào chùa, tăng chúng đều chạy trốn cả, chỉ một mình Tổ Nguyên là thản nhiên ngồi thiền. Thủ lãnh của quân Nguyên rút dao bén, kề cổ thiền sư, thiền sư mặt không biến sắc đọc bài kệ nổi danh:
乾坤 無 地 孤 筑 卓
Càn khôn vô địa cô trúc trác
且喜 人 空 法 亦 空
Thả hỉ nhân không pháp diệc không
珍重 大 元 三 尺 劍
Trân trọng đại nguyên tam xích kiếm
電光 影 裡 斬 春 風
Điện quang ảnh lý trảm xuân phong.

Trời đất không đâu chỗ cắm dùi.
Là không, không hết ông và tôi
Vui thay ba thước gươm Nguyên xuống
Cắt ngọn gió xuân giữa chớp lòe.
(Trúc Thiên dịch)
Nghe thiền sư đọc xong bài kệ, thủ lãnh quân Nguyên sám hối, lạy rồi kéo quân đi.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Tổ Nguyên đã vượt qua sanh tử cho nên không sự uy hiếp nào làm ông hoảng sợ.

660 Tăng Xán.

Có một cư sĩ, không biết tuổi tác là bao, nhìn bề ngoài ước độ 14, 15 tuổi , đến tham bái Huệ Khả, cũng không báo tánh danh, thưa rằng:
- Con bị bệnh cùi khổ sở, xin thầy sám tội cho con.
- Ngươi hãy đem tội ra, ta sám hối cho ngươi.
- Con tìm tội nhưng chẳng thấy.
- Ta đã sám tội cho ngươi rồi, nay ngươi nên quy y tam bảo: Phật, Pháp, Tăng.
- Con thấy thầy là biết được tăng, nhưng chưa biêt thế nào là Phật, là Pháp?
- Tâm là Phật, đồng thời cũng là Pháp. Phật và Pháp chẳng sai biệt ngươi có hiểu không?
- Giờ con đã rõ tội chẳng ở trong ngoài, giữa. Tâm cũng như vậy, Phật và Pháp chẳng hề sai biệt.
Huệ Khả nghe nói rất vui, cho xuống tóc, bảo:
- Ngươi là vật báu của ta, nên đặt tên là Tăng Xán.
(Tổ Đường Tập)

Công án này diễn một ý kiến cho rằng bệnh do nghiệp sanh. Một tội lỗi trong quá khứ đã làm cho chúng ta bị bệnh. Nhưng tội này ở hiện đời hay ở đời trước? Theo như câu trả lời của Tăng Xán "Con tìm tội nhưng chẳng thấy" cho thấy tội lỗi này không thể ở trong đời này mà ở đời trước. Chúng ta thấy công án này tương tự như công án an tâm của Huệ Khả, chỉ thay tâm chẳng an bằng tội lỗi. Tại sao Tăng Xán không tìm thấy tội lỗi? Ông là thánh hay sao? hay là ông cho rằng giữa tội và bệnh không có liên quan gì cả? Ông đã vượt lên luân lý, vượt lên đúng sai? hay ông chỉ đơn giản mô tả sự kiện? Khi Huệ Khả bảo Tăng Xán mang tội ra, có lẽ Tăng Xán đã hiểu ý đằng sau câu nói đó. Trong thiền định ông đã hiểu rằng tội lỗi chỉ là danh tướng của luân lý. Đó là hư ảo, chỉ có hành động, chẳng có đúng hoặc sai. Bị bệnh cùi không tốt cũng không xấu. Người cùi phải chấp nhận và đương đầu với bệnh của mình.
(Barragato)


Hết Quyển Thượng

Các Sách Trích Dịch


Bích Nham Lục bạch thoại chú giải Hứa Văn Cung
Bình Thường Tâm Thị Đạo Bồ Đề Học xã
Ch’an and Zen Teaching Lu K’uan Yu
Chích Thủ Chi Thanh Dư Tiến Phu
Đồ giải thiền vấn đáp Trần Hòa Chương
Entretiens de Lin-Tsi Paul Demiéville
Hảo Tuyết phiến phiến Lâm Thanh Huyền
Hương Thủy Hải Lâm Thanh Huyền
Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông Bồ Đề Học Xã
Mumonkan & Hekiganroku Katsuki Sekida
Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ Long Mãn
Nhất Vị Thiền - quyển phong Lý Anh Đệ
- quyển hoa Hoàng Tĩnh Nhã
- quyển nguyệt Lâm Tân Cương
Niêm Hoa vi Tiếu Cố Vĩ Khang
Phật dữ Thiền Minh Kính
Sinh hoạt Thiền Dương Huệ Nam
The Center Within Gyomay M. Kubose
Thiền Cơ Lâm Minh Dục
Thiền Cơ Sử Nễ Tại Chân lý Trung Giác Tình Viên Thông
Thiền Đích Cố Sự Hựu Nhất Tập Giản Huệ Căn
Thiền Lâm Tuệ Ngữ Vân Lăng
Thiền Lý Dữ Nhân Sinh Bồ Đề Học Xã
Thiền Ngộ Bình Điền Tinh Canh
Thiền Ngoại Thuyết Thiền Trương Trung Hành
Thiền Sinh Mạng Đích Vi Tiếu Trịnh Thạch Nham
Thiền Sư Khải Ngộ Pháp Thái Vinh Đình
Thiền Tông Dật sự Đạo Long
Thiền Tông Tọa Thạch Minh Bồ Đề Học Xã
Thiền Tông Trí Tuệ Ngữ Lục Bồ Đề Học Xã
Thiền Tông Công Án Bí Truyền Dư Tiến Phu
Thiền Thuyết Thái Chí Trung
Thiền Viên Vương Trần Canh
Tinh Vân Thiền Thoại Tinh Vân
Trung Quốc Thiền Khang Hoa
Vô Môn Quan bạch thoại chú giải Thánh Tham
Zen Koans Gyomay M. Kubose
Zen Light Barragato


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 20 Jul 2012, 9:05 PM | Message # 138
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
661. Lấy Đầu Làm Ghế.

Trong thiền viện do Tiên Nhai trụ trì có một học tăng thường lợi dụng đêm tối leo tường ra ngoài chơi.
Một hôm, Tiên Nhai đi tuần trong chùa, phát hiện có một cái ghế đẩu ở góc tường liền biết ngay có người đã leo tường ra ngoài chơi. Ông không kinh động ai cả, tiện tay dời ghế đẩu đi chỗ khác tự mình đứng ở chỗ ghế đó đợi học tăng trở về. Đêm đã khuya học tăng đi chơi trở về, không biết ghế đẩu đã bị dời chỗ, cứ đạp lên đầu thiền sư mà nhẩy xuống. Xuống tới đất mới biết người mình đạp lên đầu là Tiên Nhai thì kinh sợ, hoang mang không biết làm sao cho phải, nhưng Tiên Nhai không có ý giận lại còn an ủi:
- Trời khuya, sương nhiều ngươi phải cẩn thận kẻo bị lạnh, mau về phòng mặc thêm áo!
Sau đó, tự viện không ai biết chuyện này. Tiên Nhai cũng không đề cập đến, nhưng từ đó ban đêm không còn thấy ghế đẩu đặt ở góc tường nữa.
(Nhất Vị Thiền: Quyển Phong)
Ông tăng đã được thiền sư dùng tâm từ cảm hóa.

662. Hoằng Nhẫn.

Đạo Tín sau khi được Tăng Xán truyền tâm ấn, một hôm trên đường đến Hoàng Mai gập một đứa nhỏ khoảng 7 tuổi nói năng kỳ lạ, bèn hỏi:
- Ngươi tánh gì? (tiếng trung Hoa tánh là Họ)
- Tánh thì có mà chẳng phải tánh thường.
- Là tánh gì?
- Phật tánh.
- Ngươi không có tánh sao?
- Vì tánh vốn không.
Đạo Tín nói với tả, hữu:
- Đứa nhỏ này rất phi phàm, sau khi ta diệt độ hai mươi năm, sẽ đại hưng Phật pháp.
(Tổ Đường Tập)
Công án này nói về Phật tánh, siêu việt thời gian và không gian. Nó có thể biểu thị bằng một vòng tròn Thiền. Vòng tròn này hở vì không có trong, ngoài. Phật tánh có trong tất cả chúng ta: kẻ hành quyết, nạn nhân, anh hùng, thục nữ, kẻ sát nhân…ở tất cả mọi người, không có ngoại lệ.
(Barragato)

663. Gạo Trắng Chưa?

Một hôm, Hoằng Nhẫn đến nhà giã gạo hỏi Huệ Năng:
- Gạo trắng chưa?
- Trắng đã lâu, nhưng còn chưa sàng.
Hoằng Nhẫn lấy gậy gõ vào cối ba cái rồi bỏ đi.
(Pháp Bảo Đàn Kinh)
- Gạo đã trắng chưa: gạo trong câu nói này chỉ tâm Huệ Năng. Đã loại hết trấu và sạn chưa? Tâm ngươi đã thanh tịnh chưa?
- Trắng đã lâu nhưng còn chưa sàng: con đã ngộ rồi, nhưng còn chờ thầy chứng cho thôi.
Hoằng Nhẫn gõ vào cối ba cái là tỏ ý chấp nhận.
(Barragato)

664. Tâm Như Hư Không.

Thiền sư Trí Hoàng, sau khi tham phỏng Ngũ tổ Hoằng Nhẫn tự xưng đạt được tâm tưởng bặt, duyên lự mất của thiền định tam muội. Do đó ở trong am tập thiền hơn 20 năm. Đệ tử của Huệ Năng là Huyền Sách, vân du đến Hà Bắc nghe danh Trí Hoàng bèn đến thăm, hỏi rằng:
- Ông ở đây làm gì?
- Nhập định.
- Ông nói nhập định là hữu tâm hay vô tâm nhập? Nếu là vô tâm nhập định thì tất cả loài không tình thức như cây cỏ, ngói gạch đều được định. Nếu là hữu tâm nhập định thì tất cả chúng sanh hữu tình, hàm thức đều được định rồi.
- Khi tôi nhập định không thấy có hữu tâm, vô tâm.
- Không thấy hữu tâm, vô tâm thì là thường định làm gì còn có nhập định, xuất định. Nếu có xuất, nhập thì chẳng phải là Đại Định.
Dưới tay tướng giỏi, không có binh hèn. Kiến địa của Huyền Sách làm cho Trí Hoàng không lời nào đối lại. Một lúc sau mới hỏi:
- Ông kế thừa pháp của vị nào?
- Thầy tôi là Tào Khê Lục tổ.
- Lục tổ lấy gì làm thiền định?
- Thầy tôi nói diệu trạm viên tịch, thể dụng như như, năm uẩn vốn không, sáu trần chẳng có, chẳng ra chẳng vào, chẳng định chẳng loạn, thiền tánh vô trụ lià "trụ thiền tịch.” Thiền tánh vô sanh, lìa "sinh Thiền tưởng.” Tâm như hư không cũng không có số lượng hư không có thể đạt được.
Trí Hoàng nghe lời này rồi liền tự đến bái kiến Lục tổ. Lục tổ hỏi:
- Ngươi từ đâu tới?
Trí Hoàng mang chuyện gập Huyền Sách kể lại. Lục tổ nói:
- Thật đúng như vậy, nếu tâm ngươi như hư không, không chấp không kiến, ứng dụng vô ngại, tâm không động tịnh, phàm thánh đều quên, năng sở đều diệt, tánh tướng là một, chẳng có định và hết định.
Trí Hoàng nghe rồi đại ngộ, cái tâm sở đắc từ 20 năm tiêu diệt không còn dấu vết.
(Nhất Vị Thiền: Quyển Nguyệt)
Chấp có pháp để đắc, có ngộ để chứng là chưa thật ngộ. Thiền không rơi vào nhị biên có, không. Cũng không chấp ở giữa. Nhị biên đã không có thì làm gì có trung gian? Không thọ một hạt bụi, cũng không xả một pháp, thâu phóng tự như.

665. Bài Giảng Của Thiền Sư La Sơn.

Mân Vương xây một tự viện cho thiền sư La Sơn và mời ông ban cho một thời pháp vào ngày khánh thành. Ông lên giảng đàn, khoác cà sa vào rồi cởi ra và nói:
- Xin chào!
Nói rồi xuống tòa giảng.
Mân Vương lại gần ông và nói:
- Bài giảng bữa nay của thầy cũng giống như bài giảng của Thế Tôn ở núi Linh Thứu.
- Tôi tưởng ngài không biết gì về giáo lý không ngờ ngài cũng biết chút ít về thiền.
(Zen Koans)
Bài giảng được coi là hay nhất của đức Phật là bài giảng ở núi Linh Thứu (sự tích niêm hoa vi tiếu). Bài giảng yên lặng và sự truyền tâm ấn là sự khởi đầu của Thiền. Mân Vương so sánh bài giảng của La Sơn và của đức Phật. Nhưng thiền sư biết rằng người đi tìm chân lý sốt sắng nhất luôn luôn đến với tâm không. Biết chút ít về Thiền còn tệ hơn là không biết gì cả.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 20 Jul 2012, 9:11 PM | Message # 139
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
666. Thầy Tôi Không Có Lời Này!

Có người hỏi Triệu Châu:
- Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
- Cây bách trước sân.
Lúc đó vấn đáp này đã trở thành thoại đầu danh tiếng. Về sau, Pháp Nhãn hỏi đệ tử trực truyền của Triệu Châu là Giác Thiết Chủy:
- Nghe nói Triệu Châu có câu "cây bách trước sân" có phải không?
- Thầy tôi không có lời này, xin đừng hủy báng ổng.
- Ngươi thiệt là sư tử con, lời nói y hệt lão sư tử Triệu Châu.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)
Cổ nhân tán thưởng Giác Thiết Chủy rằng:"Con tốt không sài tiền cha." Câu nói "Thầy tôi không có lời này" của Giác Thiết Chủy cũng giống như câu nói của Triệu Châu "Cây bách trước sân" đều rất sinh động.

667. Hoàng Long Tam Quan.

Hoàng Long khi thấy người tới bèn duỗi tay ra hỏi:
- Tay ta sao giống tay Phật?
Nếu trả lời một câu thiền sư liền duỗi chân ra hỏi:
- Chân ta sao giống chân lừa?
Sau đó lại hỏi:
- Cái nào là sinh duyên của thượng tọa?
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Câu thứ nhất là so sánh người với Phật.
Câu thứ hai là so sánh người với súc vật.
Tổng hợp lại là Tâm, Phật, chúng sanh không có sai biệt.
Hai câu đầu đề thị học nhân: chúng sanh đều có Phật tánh, cho nên không thể coi thường mình và chúng sanh. Sau đó tham câu thứ ba, coi khuôn mặt xưa nay của mình là cái gì? Đó là cái trong Đàn Kinh, Lục tổ nói: chẳng nghĩ thiện (Phật), chẳng nghĩ ác (lừa), lúc đó cái gì là khuôn mặt xưa nay (sinh duyên).

668. Vạn Dậm Không Tấc Cỏ.

Động Sơn bảo đại chúng rằng:
- Đầu Thu, cuối Hạ các huynh đệ hoặc đi Đông hoặc đi Tây, nên hướng thẳng vào nơi vạn lý không tấc cỏ mà đi.
Lại nói:
- Nơi vạn lý không tấc cỏ làm sao đi?
Về sau có ông tăng đến Lưu Dương, kể lại cho Thạch Sương nghe. Thạch Sương bảo:
- Ra cửa liền là cỏ.
Ông tăng trở về trình lên Động Sơn. Động Sơn nói:
- Trong nước Đại Đường có được mấy người?
(Bình Thường Tâm Thị Đạo)
Vạn dậm không tấc cỏ mọc là chỉ sa mạc hay sao? Dĩ nhiên không thể căn cứ vào chữ mà giải thích được. Đây là diễn tả cảnh giới không tịch của tự tánh, rộng lớn vô biên, siêu việt hình tượng. Lại sợ đại chúng kẹt vào câu nói nên lại nói "làm sao đi?" là ý ở ngoài lời nói. Câu "Ra cửa liền là cỏ" của Thạch Sương là nói ngoài "không giới" là sắc giới, những người chưa ngộ đạo ra cửa liền gập cỏ.
"Trong nước Đại Đường có được mấy người" là lời Động Sơn khen ngợi Thạch Sương đã hiểu ý mình.

669. Ngàn Mắt, Ngàn Tay.

Nhân một ngày đến Hà Bắc, phủ chủ Vương Thường Thị mời Lâm Tế thượng đường nói pháp. Ma Cốc bước ra hỏi:
- Quán Thế Âm ngàn mắt, ngàn tay, mắt nào là chánh?
Lâm Tế đáp:
- Quán Thế Âm ngàn mắt, ngàn tay, mắt nào là chánh? Nói mau! Nói mau!
Ma Cốc kéo sư xuống ngồi vào chỗ của sư.
Sư lại gần chào:
- Ngươi mạnh chăng?
Ma Cốc định nói , sư kéo Ma Cốc ra, ngồi vào chỗ cũ. Ma Cốc đi ra, sư cũng hạ đường.
(Lâm Tế Lục)
Tượng bồ tát Quán Thế Âm tượng trưng cho lòng từ bi, có một ngàn tay, một ngàn mắt. Một ngàn mắt để nhìn thấy những người đang cần cứu và một ngàn tay giơ ra để giúp. Một vài tượng có mười một mặt để có thể nhìn khắp mọi nơi. Lâm Tế lập lại câu hỏi của Ma Cốc, chỉ thêm vào mấy chữ :"Nói mau! Nói Mau!"
Lâm Tế lấy câu hỏi của Ma cốc, do đó Ma Cốc lấy chỗ ngồi của Lâm Tế (chủ, khách đảo ngược). Sau đó Lâm Tế chiếm lại chỗ ngồi (chủ khách không khác). Ngàn mắt của Quán Thế Âm mắt nào cũng là chánh. Chúng ta có 2 mắt, mắt nào cũng thật, không ai hỏi mắt nào là giả. Một câu hỏi như vậy thật vô nghĩa.
(Kubose)

670. Lâm Tế Phỏng Vấn Tam Phong.

Lâm Tế tới Tam Phong, Bình hoà thượng hỏi:
- Từ đâu tới?
- Từ Hoàng Bá.
- Hoàng Bá nói gì? (1)
- Hôm qua cho trâu vàng vào lò nấu chẩy không còn dấu vết.
- Gió vàng thổi tiêu ngọc, ai là kẻ tri âm? (2)
- Qua vạn cửa không ngừng ở thanh không.
- Câu đối thoại của ngươi thực cao thâm! (3)
- Rồng sanh phụng hoàng vàng, xung phá sóng nước xanh.
- Mời uống trà!
Bình hòa thượng lại hỏi:
- Gần đây ngươi đi đâu?
- Long Quang.
- Long Quang thế nào rồi?
Lâm Tế không đáp, đi ra.
(Lâm Tế Lục)
Đoạn vấn đáp (1):
Hoàng Bá nói gì?
- Hoàng Bá dạy ta chân lý tột cùng, nhị nguyên đối đãi biến mất không còn dấu vết.
Đoạn vấn đáp (2):
- Dĩ nhiên giáo lý của Hoàng Bá cao siêu, nhưng ngươi có thực sự hiểu không?
- Không những ta hiểu mà còn vượt lên trên nữa kìa!
Đoạn vấn đáp (3):
- Ngươi đã rời khỏi tầm tay!
- Con rồng Hoàng Bá sanh con phượng Lâm Tế, đã đạt tới cảnh giới cao nhất.
Bình hòa thượng ngưng tranh luận.
(Akizuki, dẫn theo Watson)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 20 Jul 2012, 9:16 PM | Message # 140
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
671. Cây Gậy Lớn Của Cảnh Thanh.

Cảnh Thanh hỏi một ông tăng mới đến, từ đâu lại. Ông tăng đáp:
- Từ ba núi.
- Lần kết hạ cuối ở đâu?
- Từ năm non.
- Ta sẽ cho ngươi 30 gậy.
- Sao lại đánh con?
- Vì ngươi hết đi từ thiền viện này lại sang thiền viện khác.
(Zen Koans)
Có lẽ ông tăng này chỉ đơn giản thích đi loanh quanh các thiền viện. Mặt khác, có thể ông đang đi tìm một vị thầy tốt. Một vị thầy tốt sẽ biết ngay phẩm chất của đồ đệ. Kỷ luật thiền rất nghiêm ngặt, bất cứ chấp vào một cái gì cũng đều bị đánh.

672. Giọt Nước Tào Khê.

Một ông tăng hỏi Pháp Nhãn:
- Thế nào là giọt nước Tào Khê?
- Là giọt nước Tào Khê!
(Zen Koans)
Thiền bắt đầu ở Trung Hoa với Bồ Đề Đạt Ma (năm 520) và đạt đến sung mãn với Huệ Năng. Vì vậy, câu hỏi có nghĩa là cốt tủy của thiền là gì? Ông tăng chờ đợi được nghe những giảng dạy cao siêu, nhưng Pháp Nhãn chỉ lập lại câu hỏi. Thường thường câu trả lời đã nằm sẵn trong câu hỏi. Nước là nước dù ở đâu. Thiền ở khắp mọi nơi. Tất cả mọi sự vật đều là thiền. Dầu ta có bỏ chữ Thiền đi, Thiền vẫn ở đấy không cần phải dán nhãn Cồ Đàm, Đạt Ma, chúng ta.

673. - Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đang thuyết pháp gì vậy?

- Chíp chíp (tiếng sẻ), meo meo (tiếng mèo) gâu gâu (tiếng chó).
(Chích Thủ Chi Thanh)
Câu trả lời nhấn mạnh ở đây, bây giờ.

674. - Hãy chỉ cho ta cái cây không lay động trong cơn gió mạnh.

Ông tăng đứng dậy, thân ngả tới ngả lui, hai tay vung trong không khí, miệng kêu vi vu.
(Chích Thủ Chi Thanh)
Nếu ngươi đứng yên , ngươi đã bị động (tâm ngươi động vì có ý kháng cự lại với gió). Nếu ngươi động theo gió, ngươi không động (vì tâm ngươi không động).

675. Văn Thù cưỡi sư tử, Phổ Hiền cưỡi voi trắng, còn Thích Ca cưỡi gì?

- Con ngồi thiền trên một cái nệm rách, bất động.
(Chích Thủ Chi Thanh)
Ông tăng không thèm để ý đến lịch sử và thần thoại, ông chỉ biết Phật hiện tại (là ông và thiền sư).


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 20 Jul 2012, 9:16 PM | Message # 141
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
676. Đã nghe được tiếng vỗ của một bàn tay, hãy đưa chứng cớ ra coi!

677. Nghe được tiếng vỗ của một bàn tay, khai ngộ thành Phật, xin hỏi làm sao làm Phật?

678. Khi ngươi đã biến thành tro, còn nghe được tiếng vỗ của một bàn tay không?

(Chích Thủ Chi Thanh)
Trong cả ba công án trên, ông tăng không nói chỉ giơ một bàn tay ra phía trước.
Trong công án 676, ông tăng không bị chứng cớ trói buộc, chỉ ám thị là thế đó.
Trong công án 677, ông tăng không bị mê, ngộ trói buộc, ám thị ở đây, bây giờ.
Trong công án 678, ông tăng không bị sanh, tử trói buộc. Khái niệm sau khi chết chỉ có khi ta còn sống.

679.

Bàn tay này (tức bàn tay cho tiếng vỗ) có bị xuy mao kiếm chặt đứt không?
- Không chặt được.
(Chích Thủ Chi Thanh)
Ông tăng vừa nói không chặt được vừa giơ một bàn tay ra. Chặt không được vì chặt không ta lại được không.

680.

Thế nào là sáng tới Tây Thiên, chiều về Đông Độ?
Ông tăng đi tới đi lui trong phòng và nhắc lại sáng tới Tây Thiên, chiều về Đông Độ.
(Chích Thủ Chi Thanh)
Ông tăng không bị thời gian (sáng, chiều) và không gian (Tây Thiên, Đông Độ) trói buộc, chỉ phản ứng lại với Đi và Về.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 22 Jul 2012, 10:42 PM | Message # 142
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
681.

Thế nào là tiếng không tiếng của một bàn tay?
Ông tăng không nói, đứng dậy lạy rồi lại ngồi xuống.
(Chích Thủ Chi Thanh)
Trong nghi thức chào hỏi Nhật Bản, ngoài động tác còn kèm theo lời chào hỏi. Ở đây ông tăng chỉ dùng động tác không nói là để diễn tả tiếng không tiếng.

682. Cảnh Giới Giáp Sơn.

Có ông tăng hỏi Giáp Sơn:
- Thế nào là cảnh Giáp Sơn?
Giáp Sơn trả lời bằng một câu kệ:
猿抱 子 歸 青 嶂 後
Viên bão tử quy thanh chướng hậu
鳥啣 花 落 碧 巖 前
Điểu hàm hoa lạc bích nham tiền

Vượn ẵm con về sau núi biếc
Chim tha hoa rụng trước non xanh.
(Thích Thanh Từ dịch)
(Thiền Ngộ)
Ông tăng hỏi Cảnh giới giác ngộ của Giáp Sơn. Câu đáp của Giáp Sơn cho biết Vô Tâm là giác ngộ, muốn vậy phải từ bỏ Tâm phân biệt.

683. Vạn Dặm Không Một Cụm Mây.

(Thiền Ngộ)
Vạn dặm không một cụm mây chỉ cảnh giới giác ngộ. Mây chỉ phiền não. Mặt trời, mặt trăng dụ cho Phật tánh, bị mây che không nhìn thấy được. Muốn thấy được mặt trời, mặt trăng chỉ cần gió thổi, mây tan. Gió ở đây là Bát Chánh Đạo, trong đó Chánh Định là đại biểu.

684. Ngựa Trắng Vào Đám Hoa Lau.

(Thiền Ngộ)
Hoa lau mầu trắng, ngựa cũng mầu trắng. Khi ngựa vào khóm lau ta khó phân biệt đâu là ngựa, đâu là hoa. Câu này cũng như câu “Tuyết đầy chén bạc”, đều chỉ Thiên Địa vạn vật khách quan và tự ngã chủ quan đều cùng một thể.

685. Đè đầu trâu bắt ăn cỏ.

(Thiền Ngộ)
Đây là chỉ cưỡng bức trâu no phải ăn cỏ. Ý là cơ duyên chưa chín mùi, dù dụng công thế nào cũng không liễu ngộ được.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 22 Jul 2012, 10:44 PM | Message # 143
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
686. Thế Tôn Chẳng Nói, Ca Diếp Chẳng Nghe.

(Thiền Ngộ)
Đây là dẫn sự tích “niêm hoa vi tiếu.” Sự thực thì Thế Tôn nói rất nhiều và Ca Diếp chú ý nghe. Nói cách khác, cảnh giới chân chính giác ngộ không thể dùng lời mà thuyết minh được; chỉ dùng tâm truyền tâm.

687. Vũ Trụ Không Hai Mặt Trời, Càn Khôn Chỉ Một Người.

(Thiền Ngộ)
Vũ chỉ không gian; trụ chỉ thời gian, càn chỉ trời, khôn chỉ đất. Đây là cảnh giới sau khi lãnh ngộ rồi, câu này cũng tương tự như câu “duy ngã độc tôn.”

688. Một Tiếng Sấm Động, Gió Mát Khởi.

(Thiền Ngộ)
Sau cơn mưa gió sấm chớp, phiền não và vọng tưởng đều bị rửa sạch, tiến vào ngộ cảnh thanh tịnh.

689. Mộng.

Trạch Am thiền sư sắp mất, chúng đệ tử xin ngài cho một bài kệ phó pháp. Thiền sư bèn viết một chữ Mộng rất lớn, bên cạnh đề hàng chữ nhỏ:
Thị là mộng , phi cũng là mộng
Di Lặc là mộng , Quán Âm cũng là mộng.
Phật nói nên quán như thế!
Sau đó liền mất
(Thiền Ngộ)
Ý của Trạch Am là coi sự vật hữu hình và vô hình ở thế gian là mộng, do đó thoát ly được những nhận thức tương đối của thế gian và tiến vào cảnh giới giác ngộ.

690. Trúc Rậm Không Ngăn Nước Chẩy
Núi Cao Chẳng Cản Mây Bay.

(Thiền Ngộ)
Nước, trúc, núi, mây đều tự nhiên vô tâm; do đó không bị sự vật gì làm trở ngại. Tâm Kinh có nói: “Cố tâm vô quái ngại” là chỉ vô tâm thì không bị trở ngại. Chỉ khi nào tự giác tất cả đều không thì mới đạt được tâm cảnh “Trúc rậm không ngăn nước chẩy.”


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 22 Jul 2012, 10:47 PM | Message # 144
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
691. Vân Cư.

Vân Cư đến tham Động Sơn. Động Sơn hỏi:
- Tên ngươi là gì?
- Vân Cư.
- Nói lên trên.
- Nói lên trên thì chẳng phải là Vân Cư.
- Lời nói của ngươi cũng giống như câu trả lời của ta khi đến Vân Nham.
(Zen Light)
Có tên là có phân biệt. Chúng ta sống ở trong thế giới nhị nguyên đối đãi, ở thế giới danh tướng. Chúng ta nên biết rằng còn có thế giới không danh tướng. Danh tướng chỉ là tương đối, luôn thay đổi và không thật. Chân lý không có tên, không chỗ, không vật.
Khi chúng ta ở trong một phòng sáng chúng ta không cần mở đèn.

692. Chuông Kêu.

Một lần nghe gió thổi làm chuông kêu, Tăng Già Nan Đề hỏi Già Da Xá Đa:
- Chuông kêu hay gió kêu?
- Chẳng phải chuông hay gió kêu mà là tâm con kêu.
- Tâm như thế nào?
- Thẩy đều im lặng.
- Tốt, ngươi sẽ nối pháp ta!
(Zen Light)
Công án này có thể là nguồn gốc của công án gió động hay cờ động trong Vô Môn Quan (xem Công án số 95). Khi ta nhìn một sự vật bên ngoài chúng ta đã có sự phân biệt chủ thể và đối tượng. Có phân biệt là có đối đãi: Chúng ta đang sống trong thế giới hư vọng.
Samuel Johnson đạp mạnh ngón chân cái trên một hòn đá và kêu lên Ối! Làm thế ông đã chứng minh được sự hiện hữu của ngón chân, hòn đá và sự đau đớn. Lúc đó không phải chỉ có tiếng ối hay sao? Tiếng ối đó không phải là sự hợp nhất của ngón chân, hòn đá và sự đau đớn hay sao? Tiếng ối đó đã chứng minh sự không thể tách rời chủ thể và đối tượng, tất cả là tiếng ối đó. Ối! là toàn thể vũ trụ. Ối!

693. Vân Nham.

Vân Nham tham học với Bách Trượng hai mươi năm, sau lại đến học với Dược Sơn. Dược Sơn hỏi:
- Bách Trượng dạy pháp gì?
- Có lần, thiền sư thượng đường, đại chúng sắp thành hàng, Bách Trượng cầm gậy sua mọi người đi hết sau đó lại gọi: “Đại chúng!” Đại chúng xoay đầu lại, Bách Trượng nói: “Là cái gì.”
Dược Sơn bảo:
- Sao ngươi không nói sớm, hôm nay nghe ngươi kể lại, ta được
thấy Hải huynh.
Ngay câu nói ấy, Vân Nham tỉnh ngộ.
(Zen Light)
Mục đích của thiền là ngộ. Thiền sư dùng đủ mọi cách để thiền sinh đạt tới đích này. Đôi khi cách thức có vẻ kỳ lạ nhưng chỉ là muốn thiền sinh vượt qua những lề thói thông thường. Trong công án này, Bách Trượng không giảng cho một thời pháp, dùng gậy đuổi đại chúng đi, sau đó lại hỏi là cái gì? Ông ám chỉ phải buông bỏ tất cả những thành tựu, học vấn . . . vì tất cả chỉ là không, ngay cả cái không này cũng phải bỏ thì mới có thể ngộ, Lúc đó Vân Nham còn chưa tỉnh chỉ sau khi nghe lời nói của Dược Sơn ông mới thực sự giác ngộ.

694. Bảo Tích.

Bảo Tích một hôm ra khỏi cửa thấy một đám tang, người hát thuê rung chuông hát rằng:
Vầng hồng quyết định lặn về Tây
Chưa biết ủy hồn hướng về đâu?
Người con hiếu ở dưới màn khóc hu hu, sư bỗng nhiên thân tâm vui mừng, khai ngộ.
(Niêm Hoa Vi Tiếu)
Chữ bỗng nhiên này thật sinh động, diễn tả thiền sư trong tình huống ngẫu nhiên mà ngộ. Trải bao thời gian tìm tòi, cuối cùng trong lúc vô ý như một tia điện chớp lòe đạt tới tâm phát sáng, chiếu cả mười phương. Các thiền sư không thể nào giải thích tại sao tại lúc đó mà không tại lúc khác, ở trong tình huống đó mà không ở trong tình huống khác, mà bỗng nhiên khai ngộ, chỉ tự mình thể hội.

695. Đại Đường Đánh Trống Tân La Múa.

(Thiền Ngộ)
Biểu thị sự lãnh ngộ.Thiên địa nhất thể, siêu việt không gian và thời gian. Cũng để chỉ 2 người bạn tuy xa cách nhau trong không gian nhưng tâm ý tương thông.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 22 Jul 2012, 10:48 PM | Message # 145
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
696. Suối Sâu Dùng Gáo Cán Dài.

(Thiền Ngộ)
Dùng gáo để múc nước suối. Suối cạn dùng gáo cán ngắn, suối sâu dùng gáo cán dài. Trong Phật giáo có câu: “Ứng cơ thuyết pháp,” nghĩa là tùy theo căn cơ của người nghe mà thuyết pháp. Đối với người ngu thì dùng lời lẽ thông thường, còn người thông minh thì dùng lý lẽ cao siêu của Phật lý mà giảng. Cũng tỷ như dùng dao mổ trâu mà làm gà hoặc ngược lại dùng dao giết gà mà mổ trâu thì không thuận lợi.

697. Bên Ngọn Lửa Hồng Không Chủ Khách.

(Thiền Ngộ)
Ý là khi ngồi sưởi ấm bên ngọn lửa thì không phân biệt ai là chủ, ai là khách. Chủ là chủ thể, khách là khách thể, tuy có sai biệt nhưng vẫn tương đồng, cũng như con người ai cũng có Phật tánh.

698. Trăng Mọc Trên Biển , Bao Người Lên Lầu.

Nếu muốn ngắm trăng mọc trên biển thì phải lên lầu cao, ý nói nếu có một người đức cao vọng trọng xuất hiện, mọi người đều tôn kính và ngưỡng vọng.

699. Dép Cỏ Rách.

(Thiền Ngộ)
Dép cỏ dùng để đi đường cho khỏi đau chân, rách rồi thì phải vứt bỏ nếu cứ khư khư giữ bên mình thì chỉ làm trở ngại. Cũng vậy, văn tự, công án dùng để thức tỉnh, ngộ rồi thì phải bỏ.

700. Mây Bay, Nước Chẩy.

(Thiền Ngộ)
Mây tự do bay lượn, gió cuốn tới đâu thì tới, không bị bó buộc. Nước chẩy không ngừng. Câu này ý nói người tu hành tự do, tự tại đi khắp nơi tìm thầy hay, bạn giỏi để học hỏi. Do đó, người ta thường gọi các ông du tăng là hành vân lưu thủy tăng hay vân thủy tăng.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 22 Jul 2012, 10:50 PM | Message # 146
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
701. Bài Kệ Phó Pháp Của Ma Noa La Tôn Giả:

心隨 萬 境 轉
Tâm tùy vạn cảnh chuyển
轉處 實 能 幽
Chuyển xứ thật năng u
隨流 性 認 得
Tùy lưu tánh nhận đắc
無喜 亦 無 憂
Vô hỷ diệc vô ưu

Tâm theo muôn cảnh chuyển
Chỗ chuyển thật kín sâu
Theo dòng nhận được tánh
Không mừng cũng không lo.
(Thích Thanh Từ dịch)
(Thiền Ngộ)
Thông thường con người bị ngoại giới mê hoặc, có lúc cảm thấy vui, có lúc cảm thấy buồn, đó đều là do nhân duyên cả. Nếu như sống trong thế giới vô thường này mà có thể vô tâm và vô ngã thì sẽ được tự do vô ngại.

702. Trực Tâm là Đạo trường.

Một hôm Quang Nghiêm đồng tử lìa bỏ nơi náo nhiệt, tìm một chỗ thanh tịnh để tu hành, ngẫu nhiên gập Duy Ma Cật, bèn hỏi:
- Cư sĩ từ đâu lại?
- Ta từ đạo tràng lại.
- Đạo trường ở đâu vậy?
- Trực tâm là đạo trường.
(Thiền Ngộ)
Người thường khi đề cập đến tu hành phần lớn đều nghĩ đến tìm một chỗ thanh tịnh, xa rời nhân quần để tu tập. Nhưng nếu tâm còn phân biệt, vọng tưởng thì bất cứ đi đến đâu cũng không thể nào tới được đạo trường. Đạo trường ở đây không phải là chỉ cơ sở mà là chỉ tâm cảnh.

703. Bõm.

Phật Đính hòa thượng đến thăm thi sĩ Ba Tiêu. Hòa thượng biết Ba Tiêu đã khai ngộ, tới nơi bèn hỏi:
- Gần đây có chuyện gì tốt chăng?
- Mưa xuống rêu xanh tươi.
- Khi rêu chưa mọc, Phật pháp thế nào?
Ba Tiêu trả lời bằng một bài hài cú:
Mặt ao cũ yên lặng
Một con ếch nhẩy vào
Bõm!
(Đồ Giải Thiền vấn đáp)
Trong thế giới Thiền - thế giới của tự tánh- không có sự phân biệt có hay không có giá trị; không quan trọng hay quan trọng. Bất cứ sự việc gì dù tầm thường hay có vẻ vô ý nghĩa cũng có thể làm thức dậy sự tỉnh thức đang ngủ. Con ếch trong tâm Ba Tiêu, khi nhẩy xuống ao đã tạo nên những vòng tròn lan ra mặt nước, vượt qua ao, qua mặt trăng, mặt trời, qua những vì sao xa nhất, vượt lên không gian. Và nó cũng chìm sâu hơn Ba Tiêu, Bồ Đề Đạt Ma, Thích Già Mâu Ni trong cảnh giới không thời.
(Marian Mountain)

704. Một bài thơ Xuân.

Một vị tỳ khưu ni đời đường sau khi đi khắp nơi tham học, khai ngộ rồi viết bài thơ sau:
盡日 尋 春 不 見 春
Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân
芒鞋 踏 破 嶺 頭 雲
Mang hài đạp phá lãnh đầu vân
歸來 偶 把 梅 花 嗅
Quy lai ngẫu bả mai hoa khứu
春在 枝 頭 已 十 分
Xuân tại Chi đầu dĩ thập phần
某 尼
Mỗ Ni

Trọn buổi tìm Xuân chẳng thấy Xuân
Giầy cỏ dẫm khắp mây đầu non
Trở về bỗng qua dưới hoa mai
Xuân ở đầu cành đà mười phần.
(Đồ Nam dịch)
(Thanh Tịnh lưu ly)
Chúng ta cầu đạo cũng như đi tìm xuân. Cả ngày đi khắp sơn cùng, thủy tận, mòn cả dép mà cũng chẳng thấy xuân ở đâu. Đến khi trở về, ngửi thấy mùi thơm của hoa mai trong vườn mới biết xuân đã tới rồi. Bài thơ này thuyết minh chúng ta đi tìm chân lý, trí tuệ, tìm hoài mà vẫn không thấy vì không biết hướng nội.

705. Chị dâu Mã Tổ.

Đời Đường, thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất chứng đạo rồi trở về quê cũ. Bà chị dâu ông rất kính trọng ông, coi như bậc thầy và cầu đạo với ông. Mã Tổ bảo:
- Tẩu tẩu hãy lấy một quả trứng gà, dùng dây treo giữa khoảng không, hàng ngày chú ý lắng nghe, chỉ cần nghe thấy quả trứng phát ra tiếng là ngộ đạo.
Bà chị dâu tin đó là thực, hàng ngày chú ý lắng nghe không hề trễ nải. Đã nhiều năm trôi qua rồi mà vẫn không nghe được âm thanh nào của quả trứng phát ra cả. Dần dần, sợi dây treo quả trứng bị mục nát; một hôm đứt ra, quả trứng rớt bạch xuống đất. Bà chị dâu nghe rồi liền ngộ: nguyên lai vật ngã là một.
(Thanh Tịnh Lưu Ly)
Tiếng “bạch” đó giúp bà chị dâu Mã Tổ đả phá trong ngoài, nhân ngã, đạt tới cảnh giới như như.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 22 Jul 2012, 10:53 PM | Message # 147
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
706. Kim Bích Phong.

Kim Bích Phong tuy đã ngộ đạo, có thể buông bỏ tất cả tham ái,
tuy nhiên ông rất thích cái bát ngọc để ăn cơm.
Trước khi nhập định, đều cất cái bát ngọc cẩn thận rồi mới an tâm ngồi thiền.
Một hôm, Diêm Vương thấy thọ mạng của ông đã dứt, bèn sai vài tên tiểu quỷ đến bắt. Kim Bích Phong biết trước thời đã tới, bèn nhập vào cảnh giới thiền định rất sâu. Các tên tiểu quỷ đợi một hôm, hai hôm rồi đợi mãi mà vẫn không thấy ông xuất định, không biết làm sao về tâu với Diêm Vương bèn đi hỏi thổ địa lập kế nào để Kim Bích Phong xuất định. Thổ Địa nói:
- Kim Bích Phong rất thích cái bát ngọc, nếu các ngươi lấy được bát ngọc, nhất định ông ta sẽ xuất định.
Lũ tiểu quỷ vội đi lấy bát ngọc, dùng hết sức lay động làm bát kêu keng keng.
Kim Bích Phong nghe tiếng vội xuất định. Lũ tiểu quỷ vỗ tay cười:
- Được rồi! Bây giờ mời ông đi gặp Diêm Vương.
Kim Bích Phong trong sát na đó đại ngộ, hiểu rằng chỉ vì một chút tham ái mà hủy diệt thiên cổ tuệ mạng. Ông bèn ném bát ngọc vỡ tan và lập tức nhập định vào cảnh giới niết bàn.
(Thanh Tịnh Lưu Ly)
Nếu còn một chút tham ái dù rất nhỏ cũng không thể vào niết bàn thanh tịnh được.

707. Linh Quyển.

Linh Quyển đến tham phỏng Quy Tông hỏi:
- Phật là gì?
- Không thể nói cho ngươi biết vì ngươi không tin. Nếu ngươi tin thì lại gần đây ta bảo cho.
Linh Quyển bước lại gần, quy Tông ghé tai thì thầm:
- Chính là ngươi!
(Thanh Tịnh Lưu Ly)
Học thiền cần có ngộ tánh linh xảo , lại cần phải có tính khôi hài nữa.

708. Phật là ai?

Có ông tăng hỏi Bách Trượng:
- Phật là ai?
Bách Trượng hỏi ngược lại:
- Ngươi là ai?
(Thanh Tịnh Lưu Ly)
Câu trả lời của Bách Trượng rõ ràng chỉ rằng mình là Phật lại còn đi hỏi ai nữa?

709. Bài kệ của Bố Đại.

Bố Đại hòa thượng có bài kệ:
手把 青 苖 插 滿 田
Thủ bả thanh miêu tráp mãn điền
低頭 便 見 水 中 天
Đê đầu tiện kiến thủy trung thiên
六根 清 淨 方 為 道
Lục căn thanh tịnh phương vi đạo
退步 原 來 是 向 前
Thối bộ nguyên lai thị hướng tiền

Tay cấy mạ non đầy cả đồng
Cúi đầu thấy trời trong vũng nước
Sáu căn thanh tịnh Đạo mới thông
Lùi về sau là tiến tới trước.
(Ngộ Không dịch)
(Thanh Tịnh Lưu Ly)
Người thường hay có khuynh hướng nhìn cao chẳng nhìn thấp, cầu xa chẳng cầu gần. Bài kệ này nói cho chúng ta biết từ gần có thể thấy xa, thối lui chính là tiến bước.

710. An Lạc.

Có ông tăng đang ngồi thiền, một vị ngoại đạo đến hỏi:
- Có phải ông tu để kiếp sau an lạc không?
- Không, tôi tu để kiếp này an lạc!
(Thanh Tịnh Lưu Ly)
Sự an lạc ở Niết Bàn không phải chết rồi mới được, mà là dập tắt mọi phiền não.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 22 Jul 2012, 10:56 PM | Message # 148
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
711. Duy Khoan.

Có ông tăng hỏi Duy Khoan:
- Đạo ở đâu?
- Chỉ ngay trước mắt.
- Sao con không thấy?
- Vì ngươi có “ngã” nên không thấy.
- Con có “ngã” nên không thấy, còn hòa thượng có thấy không?
- Có ta có ngươi thao thức nên không thấy.
- Không con, không hòa thượng lại thấy chăng?
- Không ta, không ngươi thì ai cầu thấy!
(Thanh Tịnh Lưu Ly)
Khi ta có thể an trú ở vô nhân ngã, vô đối đãi thì ta và hư không là một. Tâm, Phật, chúng sinh vốn không sai biệt. Phật, chúng sinh, vạn vật đều ở trong tâm ta. Ngoài tâm nào có chúng sinh. Nói là độ chúng sinh nhưng không có một chúng sinh nào để độ.

712. Tiết Giản.

Tiết Giản hỏi lục tổ:
- Hiện ở kinh thành các đại đức tham thiền đều nói nếu muốn giác ngộ phải tọa thiền, tập định. Xin hỏi đại sư có cao kiến gì?
- Đạo do tâm ngộ, há phải tại ngồi sao?
(Thanh Tịnh Lưu Ly)
Đi, đứng, nằm, ngồi, gánh nước , bửa củi, chau mày, chớp mắt, nhất cử nhất động đều có thể làm đốn ngộ. Mài gạch không thể thành gương, tọa thiền chẳng thể thành Phật. Tham thiền cầu đạo điều quan trọng là giác ngộ chân tâm, bản tánh.

713. Đốn, tiệm.

Đường Tuyên Tông hỏi Hoàng Biện:
- Thế nào là đốn, là tiệm?
- Đốn là thấy rõ tự tánh, đồng thọ với Phật, nhưng từ vô thủy tâm đã bị tập nhiễm nên phải dùng tiệm để trị, thuận theo tánh mà khởi dụng như người ăn cơm chẳng thể vừa và một miếng mà đã no bụng được.
(Thiền Ngoại Thuyết Thiền)
Nhà Phật lấy nghịch làm thuận. Trải qua khổ tu bỗng nhiên linh cơ nhất động thấy rằng nghịch chính thực là thuận. Nhưng ở thế tục lực lượng thuận rất mạnh muốn tránh khỏi bị lôi cuốn vào vòng nguy hiểm thì không một giây phút nào được buông lơi. Nghĩa là linh cơ nhất động (đốn) vẫn phải liên tục tu hành (tiệm).

714. Thần Hội và Lục Tổ.

Thần Hội lúc 13 tuổi từ chùa Ngọc Tuyền ở kinh Nam đến tham kiến lục tổ. Tổ nói:
- Thiện trí thức từ xa đến khó nhọc, có mang bản lai theo không, nếu có thì nhận biết được chủ nhân ông, vậy hãy nói thử coi?
- Lấy vô trụ làm gốc, “thấy” là chủ nhân ông.
- Gã tiểu sa di này sao dám khinh xuất nói vậy?
- Hòa thượng ngồi thiền thấy hay chẳng thấy?
Lục tổ hươi gậy đánh cho 3 cái rồi hỏi:
- Khi ta đánh thì ngươi đau hay không đau?
- Cũng đau, cũng chẳng đau.
- Ta cũng thấy, cũng chẳng thấy.
- Thế nào là cũng thấy, cũng chẳng thấy?
- Ta thấy là thường thấy những sai lầm của nội tâm ta, nhưng không thấy phải trái, tốt xấu của người khác. Vì vậy mới nói cũng thấy, cũng chẳng thấy. Còn người nói cũng đau, cũng chẳng đau là sao? Nếu ngươi chẳng đau thì khác chi cỏ cây, sỏi đá? Nếu ngươi đau thì giống kẻ phàm phu có lòng sân hận. Như ngươi hỏi thấy chẳng thấy là chấp nhị biên; đau chẳng đau là chấp sinh diệt. Ngươi còn chưa kiến tánh sao dám dỡn người?
Thần Hội nghe rồi đảnh lễ sám hối.
(Nhất Vị Thiền Quyển Nguyệt)
Lời nói của lục tổ hợp “lý” hợp “cơ” khiến Thần Hội á khẩu, tự biết mình vô tri do đó lạy tổ 100 lạy và theo hầu một bên.

715. Trăng soi đáy hồ không lưu dấu
Bóng trúc quét thềm bụi chẳng động.

(Thiền Ngộ)
Vô Học Tổ Nguyên (người đời Tống, được Nhật Bản mời sang truyền dạy Phật pháp, là tổ khai sơn của Viên Giác tự). Lúc nhỏ nghe một ông tăng ngâm câu này, bèn quyết tâm xuất gia. Bóng trăng, bóng trúc đều biểu thị tâm đã thoát ly mọi phiền não, vọng tưởng, đạt tới cảnh giới đại ngộ.
Muốn bụi trúc chẳng động thì tâm phải trừ mê hoặc và vọng tưởng. Thực ra nhất tâm vốn chẳng động. Ánh trăng chiếu xuống bụi trúc tạo ra bóng trên thềm. Khi gió thổi, bụi trúc lung lay, bóng trúc trên thềm cũng chuyển động qua lại như quét thềm. Ánh trăng tuy soi suốt tới đáy hồ nhưng bóng trăng không để lại một dấu vết nào trong nước. Cả hai câu trên đều nhấn mạnh đến chẳng động. Chúng ta đều bị 8 vạn bốn ngàn phiền não quấy nhiễu, vì vậy chúng ta phải làm chủ lấy mình. Mê hoặc và vọng tưởng chỉ là hình bóng là ảo tưởng chẳng có thực thể.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 22 Jul 2012, 10:58 PM | Message # 149
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
716. Để gió thành gió.

Thiền sư Bảo Triệt ở núi Ma Cốc dùng quạt quạt gió. Lúc đó có một ông tăng qua đó bèn hỏi:
- Tánh gió thường trú, chẳng chỗ nào là không có, vì sao thầy phải dùng quạt?
- Ngươi tuy biết đạo lý tánh gió thường trú, nhưng chưa biết chẳng chỗ nào là không có.
- Vậy sao, thế nào là chẳng chỗ nào là không có?
Đại sư chỉ phe phẩy quạt, ông tăng bỗng ngộ, vội lạy tạ.
(Thiền Lý Dữ Nhân Sinh)
Do áp lực không khí sai biệt mà gió được tạo thành, vì vậy chỉ cần có không khí là lúc nào cũng có thể có gió. Nhưng có gió ở một nơi nào cũng cần có điều kiện sai biệt về áp xuất (duyên khởi). Bảo Triệt phẩy quạt là chỉ cho ông tăng phải để ý đến cái điều kiện đó.

717. Vàng ròng không đổi sắc.

(Thiền Ngộ)
Muốn thử vàng, cho vào lò lửa nó lại càng sáng. Một người đã tu đạt đến một trình độ nào đó thì sẽ không dễ dàng bị biến tiết.

718. Sư tử lông vàng biến thành chó.

(Thiền Ngộ)
Sư tử là vua trong loài thú chỉ Phật, chó là loài thú nuôi trong nhà chỉ chúng sinh. Phật vì lòng từ bi muốn cứu độ chúng sinh nên hạ sanh ở cõi người.

719. Trong điện Hàm Nguyên hỏi đường đến Trường An.

(Thiền Ngộ)
Điện Hàm Nguyên là tên một cung điện ở thành Trường An, đời Đường. Tâm mình là Phật, đã không hướng vào trong lại còn hướng ra ngoài mà tìm kiếm.

720. Hoa rụng, nước chẩy bát ngát.

(Thiền Ngộ)
Hoa và nước đều vô tâm, bát ngát chỉ sự rộng lớn vô cùng. Khi làm một việc gì ta đem hết tâm sức mà làm, không loạn tưởng, không khởi tạp niệm, trạng thái ấy gọi là tam muội hay vô tâm.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 22 Jul 2012, 11:02 PM | Message # 150
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
721. Xuân đến, trăm hoa nở vì ai?

(Thiền Ngộ)
Hoa nở không phải để cho ngưởi nào thưởng thức, cũng không phải vì hoa, mà là theo luật tự nhiên. Nếu con người có thể bỏ được những mưu mô tính toán, cứ thuận theo tự nhiên mà sống thì sẽ đạt được cảnh giới vô tâm.

722. Quang minh tịnh chiếu biến hà sa.

Có ông tăng hỏi Vân Môn:
- Quang Minh tịch chiếu biến hà sa.
Ông tăng chưa dứt lời Vân Môn hỏi lại:
- Có phải đó là câu của tú tài Trương Chuyết chăng?
(Đó chính là một câu trong bài kệ của Trương Chuyết học thiền với Thạch Sương giác ngộ, làm ra).
Ông Tăng đáp:
- Dạ! Đúng vậy!
- Ngươi nói sai rồi!
Về sau Từ Tâm hòa thượng (1043- 1114) đem câu nói này ra hỏi :
- Ông tăng ấy sai ở chỗ nào?
(Vô Môn Quan)
Câu thơ ấy chẳng phải là của Trương Chuyết sao? Nếu đúng thì khi ông tăng đáp “Dạ, Đúng vậy” Sao lại nói là ông ta sai? Nếu lúc đó ông đáp “Không phải! Đó là câu của con thì có đúng không? Nếu ông tăng quả thực đạt được cảnh giới giác ngộ, những gì ông ta nói ra đều coi là của ông vì xuất phát từ tâm ra. Khi đối diện với chân lý thì đâu còn kể câu nói là của mình hay của người nữa.

723. Một cọng cỏ.

(Long Mãn)
Triệu Châu thiền sư lên pháp đường nói:
- Tỷ như minh châu trong bàn tay, Hồ đến Hồ hiện, Hán đến Hán hiện. Lão tăng lấy một cọng cỏ làm gậy kim cương sáu trượng, lấy gậy kim cương sáu trượng làm một cọng cỏ. Phật là phiền não, phiền não là Phật.
Có ông tăng hỏi:
- Phật là phiền não của nhà nào?
- Là phiền não của tất cả mọi người.
- Làm sao tránh phiền não?
- Cần gì phải tránh!
(Thiền Cơ)
Minh châu chỉ tự tánh, vốn không một vật do đó không đi tìm ở bên ngoài, cũng chẳng lưu hình bên trong; tùy thời, tùy chỗ dung nhiếp vạn tượng, phản chiếu vạn vật; phàm thánh biến thành một phiến. Cọng cỏ, phiền não là phàm, gậy kim cương, Phật là thánh. Lấy phàm làm thánh, lấy thánh làm phàm, phàm thánh vô ngại. Ông tăng hỏi làm sao tránh được phiền não là còn phàm thánh sai biệt.

724. Thổi vào tai.

Một hôm, Duy Kiện ngồi thiền ở pháp đường. Mã Tổ trông thấy bèn lại bên thổi vào tai hai lượt. Duy Kiện mở mắt ra thấy Mã Tổ lại nhắm mắt lại nhập định. Mã Tổ về phương trượng sai thị giả mang một tách trà đến đưa cho Duy Kiện. Duy Kiện không thăm hỏi, trở về tăng đường.
(Thiền Cơ)
Đây là Mã Tổ phá chấp ngồi thiền cho Duy Kiện.

725. Con chó ghẻ.

Thanh Lương Sơn tương truyền là đạo trường của Văn Thù bồ tát. Ngài thường thị hiện ở nơi này cưỡi trên sư tử lông vàng. Có một ông tăng lập chí đến chiêm bái. Từ xa xôi ngàn dậm, trải qua bao cay đắng khốn khổ cuối cùng đã tới Ngũ Đài Sơn. Ở dưới chân núi ông gặp một con chó ghẻ, quanh quẩn đi cùng với ông ba ngày đêm. Mới đầu ông tăng không để ý, sau đó cảm thấy bị phiền nhiễu bèn đá cho một đá đuổi đi. Ông cứ đi lên lên, xuống xuống suốt ba ngày mà chẳng thấy bóng dáng Văn Thù đâu cả. Thất vọng, ông xuống núi gặp một vị cao tăng và kể lể tâm sự. Vị cao tăng đề tỉnh ông:
- Ngươi đã gặp Văn Thù rồi, ngài chính là con chó ghẻ đó!
(Nhất Vị Thiền, quyển Hoa)
Câu chuyện này cảnh tỉnh chúng ta, một con chó ghẻ cũng có thể là Văn Thù bồ tát; vậy đối với vạn sự vạn vật chúng ta lại không nên có tâm cung kính hay sao?


Đại Bi Chú
 
FORUM » TRANG PHẬT GIÁO » TRUYỆN PHẬT GIÁO » Những đoá hoa Thiền (Dịch gỉa: Dương Đình Hỷ)
Search:


TỰ-ĐIỂN TRỰC-TUYẾN :

Từ Điển Online
Bấm vào dấu V để chọn loại Tự-Điển
Gõ Chữ muốn tìm vào khung trắng dưới đây:
Xong bấm GO