Thứ Sáu
19 Apr 2024
10:00 PM
ĐĂNG NHẬP


Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

File Catalog

TRANG CHÍNH » HỒ SƠ » TRUYỆN PHẬT GIÁO

MI-TIÊN VẤN ĐÁP 26
23 Apr 2015, 2:43 PM
132. Rơi đi bằng phi pháp? Rơi đi bằng pháp? Cắt đứt sự rơi?

-Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có thuyết rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Các thầy đừng nên để cho thân các thầy rơi đi bằng phi pháp, nếu có rơi thì cũng nên để cho rơi bằng pháp". Lời tuyên bố ấy có đúng chăng? Và nghĩa của nó là thế nào?

- Tâu đại vương! Lời tuyên bố ấy chính là của Đức Tôn Sư. Và nghĩa của nó là như sau: rơi đi, té xuống, rơi xuống (pàtana) là câu nói thuộc về pháp ngữ; hàm chỉ cái thân của chúng sanh phải sanh lại, phải tái sanh! Nghĩa là nếu có sanh trở lại thì nên sanh bởi pháp chứ không nên sanh trở lại bằng phi pháp!

- Thế nào là không nên sanh lại bằng phi pháp, và nên sanh lại bằng pháp?

- Tâu, có pháp, bằng pháp nghĩa là có giới; phi pháp, không có pháp nghĩa là không có giới. Nói cách khác, Đức Thế Tôn muốn giáo giới chư tỳ khưu hãy tinh tấn hộ trì giới bổn, thu thúc lục căn, làm cho thân, khẩu, ý được thanh tịnh - thì các đời sống trong tương lai sẽ được an vui, hạnh phúc; ấy là cách nói: "nên rơi đi bằng pháp". Nếu trái lại, sống mà không hộ trì giới bổn, không thu thúc lục căn; thân, khẩu, ý buông lung, phóng dật thì các kiếp hậu lai sẽ gặt lấy kết quả đau khổ, phiền não. Ấy là cách nói: "đừng rơi đi bằng phi pháp"!

- Giới quan trọng như vậy sao?

- Tâu, quả đúng như vậy! Giới có công năng diệt trừ tất cả mọi đau khổ phiền não của chúng sanh. Rải rác trong kinh, chỗ này chỗ kia, Đức Phật thường ví giới như một loại thuốc có thể diệt trừ tất cả mọi loại độc, nhất là độc phiền não. Giới như một loại thuốc trị bệnh, có công năng đối chứng trị liệu tất cả tâm bệnh phiền não của chúng sanh. Giới ví như một loại nước trong mát, có thể rửa sạch mồ hôi, bụi đất, đồ dơ bẩn dính ở nơi thân, tức là bụi bặm dơ uế của phiền não. Giới ví như ngọc ma-ni có tên gọi là ngọc như ý, có thể làm cho thành tựu tất cả mọi nguyện vọng, mong mỏi của chúng sanh. Giới ví như chiếc thuyền lớn, có thể vượt qua khỏi bốn dòng nước cuồng lũ - tức là sanh, già, đau, chết.

Giới ví như chiếc xe lớn có khả năng đi qua được bốn con đường hiểm trở cam go - tức là sanh, già, đau, chết. Giới ví như một trận gió lớn có thể thổi tắt tức khắc ba loại lửa là lửa tham, lửa sân và lửa si. Giới ví như một đám mưa lớn có thể thỏa mãn được cho dân chúng trong mùa hạn hán. Giới ví như một bậc thầy sáng suốt, hiền đức luôn dạy học trò những việc thiện, những điều lành, tốt. Giới ví như một người chỉ đường có đầy đủ lương năng và tâm từ ái, luôn luôn vui vẻ đối với kẻ lạc đường; chỉ cho họ bỏ đường mê về với nẻo sáng, đường tà trở lại với đường chánh.

Tâu đại vương! Công năng của giới là vô lượng, vô hạn, bất khả tư nghì. Không những giới sẽ thành tựu những đức tính cao quý tốt đẹp cho con người, tạo nên y báo, chánh báo mỹ toàn và sang cả; mà còn giúp cho chúng sanh vượt thoát bốn nỗi sợ hãi to lớn của đời người tức là sanh, già, bệnh, chết nữa!

Đấy là những lợi ích của giới, tức là lợi ích của những người "hãy nên rơi đi bằng pháp" đấy, tâu đại vương!

- Thưa đại đức! Đức Đại Bi cấm chế giới luật vì những lợi ích thiết thực và thù thắng như thế, trẫm đã hiểu rồi. Có rơi đi, có chết đi, có sanh lại cũng bằng pháp chứ không phải bằng phi pháp. Cũng có nghĩa là các thầy tỳ khưu hãy hộ trì giới, nâng đỡ giới, đừng để cho giới hư hỏng, tiêu hoại; đúng như lời của Đức Ca-diếp đồng tử (Kumàra Kassapa) đã thuyết: "Các bậc sa-môn, bà-la-môn thực hành giới, có pháp, có hạnh kiểm tốt đẹp hằng sống trong thế gian vì lợi ích cho mình và cho người khác".

- Đại vương đã hiểu rất đúng đắn.

- Nếu như có giới, có pháp, có hạnh kiểm tốt đẹp, lợi ích cho mình và tha nhân như thế; tại sao Đức Thế Tôn lại còn thuyết về "cắt đứt sự rơi đi", nghĩa là cắt đứt sự sanh, già, đau, chết; nghĩa là chấm dứt sự tái sanh, sự trở lại thế gian dù sự trở lại ấy là tốt đẹp, là lợi ích cho mình và người?

- Đức Thế Tôn đã thuyết với pháp tuần tự, thứ lớp. Đầu tiên, ngài dạy chư tỳ khưu đừng cho rơi đi bằng phi pháp, sau đó là nên rơi đi bằng pháp. Rơi đi bằng pháp có lợi ích cho mình và tha nhân như đại vương đã hiểu. Tuy nhiên, cứu cánh của sa môn hạnh không phải dừng lại ở đó, vì "rơi đi bằng pháp" vẫn còn đau khổ, phiền não. Muốn được an vui tuyệt đối thì cần phải "cắt đứt luôn sự rơi đi"; nghĩa là không còn cả sự sanh kia nữa, tâu đại vương!

- Xin đại đức hãy giảng rộng điều ấy.

- Vâng. Còn rơi đi, còn sanh lại, là còn biết bao nhiêu cái khổ mà chúng sanh phải gánh chịu như là một cái gì tất yếu, lắm nghiệt ngả. Đại vương hãy nghe một số khổ kéo theo "Khổ sanh" (Jàtipi dukkhà):

Sự khổ do thân thể suy nhược, già yếu.
Sự khổ do bệnh hoạn, ốm đau.
Sự khổ do thân thể tan rã, hủy diệt, tử vong.
Sự khổ do sầu khổ, thương nhớ.
Sự khổ do khóc than, uất ức, yêu thương, chia lìa v.v...
Sự khổ do trái ý, nghịch lòng v.v...

Ở một chỗ khác, Đức Thế Tôn lại nói đến những cái khổ khác, theo cách khác:

Sự khổ do phải gần gũi, thân cận người mà mình không thích, tức là kẻ mà mình oán thù, kẻ nghịch hoặc người mình ghét (oán tăng hội khổ).

Sự khổ do xa cách, biệt ly người mình yêu thương ví như cha mẹ, vợ chồng, con cái, quyến thuộc (ái biệt ly khổ). Hoặc có sự não hại, hư hại, tai ương, hoạn nạn đến cho những người mình yêu thương cũng phát sanh sự khổ.

Vật sở hữu, của cải, tài sản, vật thực bị hư hao, mất mát... cũng phát sanh khổ.

Ngoài ra, còn rất nhiều sự khổ phát sanh do sợ hãi:

Sợ hãi do giới đã thọ trì bị hư hoại, sợ sẽ tái sanh trong khổ cảnh.
Sợ hãi vi phạm luật vua, phép nước mà bị trọng tội, tù ngục, tử hình.
Sợ hãi kẻ trộm cắp, cướp của, giết người.
Sợ hãi nạn lửa.
Sợ hãi nạn nước lũ phá nát ghe thuyền, nhà cửa ngập lụt, ruộng vườn tiêu hoại hoa màu ...
Sợ hãi sóng to, thuyền đắm chìm mất của cải, hàng hóa.
Sợ hãi cá sấu dữ.
Sợ hãi chỗ nước xoáy.
Sợ hãi cá đao, cá mập có răng dài.
Sợ hãi vì lỡ nói lời sái quấy, xằng bậy, không chính đáng, phi pháp.
Sợ hãi chấm dứt mạng sống.
Sợ hãi bốn đường dữ.

Rồi còn những sợ hãi do bị cắt tay chân, bị nhục hình, tật nguyền... thật là vô số kể ở các kiếp sống trả vay, nhân quả trong sáu đường.

Tâu đại vương! Nói tóm lại, không biết bao nhiêu là thống khổ khi còn phải tái sanh trong thế gian này. Ví như dòng chảy từ Hy-mã-lạp sơn của con sông đại Hằng đã cuốn theo mình nó không biết bao nhiêu đất đá, cát sỏi, cành cây, rễ cây, gốc cây, rác rều, gỗ mục, xác chết sinh vật ... Cũng vậy, dòng sinh tử ái hà cuồng lưu chảy xiết ấy nó cũng đầy rẫy những nỗi thống khổ không thể đếm được. Chính những thứ sợ hãi lớn và vô lượng quả báo nghiệp mà chúng sanh phải gánh chịu khi còn phải quẩn quanh trong vòng luân hồi, nó tạo ra các sự thống khổ kia!

Tâu đại vương! Còn sanh, già, đau, chết là còn đau khổ, phiền não. Muốn chấm dứt đau khổ, phiền não, để đạt được hạnh phúc siêu thế là đạo quả Niết bàn thì phải cắt đứt sự sanh, diệt tắt sự tái sanh. Đức Thế Tôn dạy cho chư tỳ khưu Tăng, các hàng Thinh Văn vượt qua sanh, già, đau, chết là vì lẽ ấy.

Đại vương đã hiểu rõ tại sao lại "cắt đứt sự rơi" chưa?

- Thưa, rất rõ ạ! Như thế, Đức Thế Tôn đã thuyết về lý "vô sanh" theo cách khác, phải chăng?

- Tâu, vâng!

- Cảm ơn đại đức!

* * *


133. Tâm từ vô lượng không tiêu trừ được các sự họa hại?

- Thưa đại đức! Có phải từ vô lượng tâm có một oai lực rất to lớn?

- Tâu, vâng!

- Có phải Đức Thế Tôn có thuyết rằng: Thầy tỳ khưu thực hành tâm từ, làm cho sung mãn tâm từ ... sẽ có được mười một quả báo sau đây:

Thứ nhất, ngủ được an vui.
Thứ hai, thức được an vui.
Thứ ba, không nằm thấy ác mộng.
Thứ tư, được mọi người thương yêu.
Thứ năm, phi nhân quí mến.

Thứ sáu, thường được chư thiên hộ trì.
Thứ bảy, lửa, thuốc độc, khí giới không làm hại được.
Thứ tám, tâm nhập thiền một cách mau lẹ.
Thứ chín, sắc mặt trong sáng, tươi tỉnh.
Thứ mười, được bình tĩnh lúc lâm chung.

Và thứ mười một, nếu chưa đắc đạo quả, lúc chết được sanh về cõi trời Phạm thiên.

Điều ấy có chắc thật không, thưa đại đức?

- Tâu, đúng thật là vậy.

- Thế sao có một lần, bồ-tát Suvanna Sàma ở trong Hy-mã-lạp sơn, tu tập từ vô lượng rất tinh tấn. Một hôm, đức bồ-tát đi múc nước dưới suối về nuôi cha mẹ, bị mũi tên độc của đức vua Kapila bắn trúng, đau đớn gần như chết rồi ngã ra bất tỉnh.

Thưa đại đức! Người niệm tâm từ vô lượng, lý ra có thể ngăn ngừa được mọi điều họa hại, nhưng ở đây, rõ ràng là tâm từ không có tác dụng, vô hiệu quả, không thể bảo vệ được sự an toàn sanh mạng. Vậy tu tập từ vô lượng xem ra không lợi ích gì cả.

- Xin đại vương hãy kham nhẫn, bần tăng sẽ giải thích. Trước đây đại vương là một vị danh tướng đã nhiều lần xông pha trận mạc, chắc đại vương thường hay mặc áo giáp chứ?

- Vâng, trước mũi tên hòn đạn, không có áo giáp làm sao bảo vệ mình được?

- Thế đại vương có thường xuyên măc áo giáp không?

- Chỉ khi ra trước trận mà thôi, còn khi ngủ nghỉ, ăn cơm... nghĩa là trong doanh trại của mình thì không cần thiết.

- Khi ấy nếu có kẻ địch bắn lén đại vương, chắc đại vương sẽ gặp nguy hiểm tánh mạng chứ?

- Vâng, chắc chắn là sẽ nguy.

Đại đức Na-tiên chậm rãi nói tiếp:

- Tâm từ cũng như mặc áo giáp vậy, tâu đại vương. Khi mặc áo giáp thì có thể bảo vệ được sự an toàn, nhưng khi không mặc áo giáp thì có thể bị hiểm nguy.

Bồ-tát Suvanna Sàma tu tập từ vô lượng, có thể tâm từ ấy rất sung mãn; nhưng khi ngài xuống suối múc nước, lối đi cheo leo hiểm trở, hũ nước lại nặng nên thân thể sẽ bị mệt mỏi, đau nhức. Và khi mà mệt mỏi, đau nhức khởi sanh thì tránh sao khỏi sự lơ là, thất niệm không còn an trú ở tâm từ vô lượng nữa? Như vậy, mũi tên độc của đại vương Kapila bắn ra khi bồ-tát Suvanna Sàma đã cởi "áo giáp tâm từ" nên bị họa hại là điều dĩ nhiên, tâu đại vương!

- Có thể là vậy lắm!

- Lại nữa, ví như tương truyền rằng ở cõi trời có một loại rễ cây kỳ lạ. Ai có rễ cây ấy thì biết tàng hình, đi giữa đám đông người không ai phát giác. Nó có công năng che mắt mọi người. Nếu khi không có rễ cây thì không thể tàng hình được.

Lại nữa, ví như một cái hang, một cái động có thể che mưa, đỡ nắng cho các hàng tu sĩ, đạo sĩ; nhưng nếu lìa khỏi hang động, ngồi giữa trời thì làm sao lại có thể tránh nắng, tránh mưa?

Tâm từ phải thường xuyên được tu tập, làm cho sung mãn, thường được an trú bất luận ngày hay đêm thì chắc chắn mười một quả báo thù thắng như đại vương nêu trên, nhất định sẽ trổ quả cho hành giả. Và những họa hại do lửa, thuốc độc, khí giới ... sẽ được bảo vệ, ngăn chặn. Công năng của tâm từ vô lượng ví như áo giáp ngăn tên, như rễ cây tàng hình, hang động che nắng mưa, chắc đại vương không còn hoài nghi nữa?

- Thưa vâng!

* * *


134. Quả của Thiện và Ác Nghiệp rất lạ lùng

- Thưa đại đức! Một nhóm người tạo thiện nghiệp, một nhóm người tạo ác nghiệp, khi lâm chung, quả báo của họ như thế nào? Bằng nhau, khác nhau, nhiều ít ra sao, đi chung đường hay khác đường? Xin đại đức bi mẫn chỉ giáo cho trẫm!

- Tâu! Người tạo thiện nghiệp, khi lâm chung thì hướng mặt đi đến cõi trời. Người tạo ác nghiệp, khi lâm chung thì rớt xuống bốn con đường đau khổ, nhất là địa ngục. Quả báo khác nhau rất rõ ràng, kẻ đi lên, người đi xuống, làm sao lại có thể chung đường được hở đại vương?

- Có thật vậy không, đại đức? Đọc kinh truyện, trẫm thấy quả của thiện, ác nghiệp ấy rất lạ lùng, không giản đơn như đại đức nghĩ đâu!

- Xin đại vương hãy dẫn chứng.

- Vâng! Chỉ nói riêng về Đức Phật và Đề-bà-đạt-đa thôi, cũng đã không thể hiểu rồi. Đức Phật và Đề-bà-đạt-đa là đại biểu cho hai thái cực: một bên đại thiện, một bên đại ác; một bên trong sáng cao đẹp, thanh khiết, một bên bụi bặm, xấu xa, dơ uế ... Theo lý nhân quả thì ai xuống, ai đi lên đã rõ ràng; ai được an vui, ai bị khổ thật không cần thiết phải đem ra minh chứng nữa. Nhưng ...

- Xin đại vương cứ tiếp tục!

- Vâng! Trong rất nhiều kiếp, Đề-bà-đạt-đa lại có chức phận lớn hơn Đức Phật; y báo, chánh báo đều tốt đẹp và sang cả hơn Đức Phật, có quyền hành, địa vị, sanh thú cao hơn Đức Phật ... là nghĩa làm sao? Có lạ lùng không chứ? Chẳng lẽ nhân quả thiện ác có chỗ bất minh?

- Xin đại vương cho ví dụ!

- Ví dụ như có kiếp Đề-bà-đạt-đa làm quân sư cho đức vua xứ Bàrànasì, bồ-tát của chúng ta sanh ở trong giai cấp hạ tiện Candàla, làm nghề trồng cây, có tài làm cho xoài có trái sái mùa. Vậy thì thiện nghiệp của bồ-tát ở đâu mà sanh thú lại thấp thỏi hơn Đề-bà-đạt-đa tạo ác nghiệp?

- Vâng, quả thật là có kiếp ấy.

- Vậy mà kiếp sau, Đề-bà-đạt-đa làm vua xứ Bàràn-asì, bồ-tát của chúng ta sanh làm con voi trắng có tên là "Hạnh phúc" để cho Đề-bà-đạt-đa cỡi trên lưng! Như thế đó!

- Tâu, quả có như vậy.

- Lại nữa, kiếp sau nữa, Đề-bà-đạt-đa sanh làm người, bồ-tát sanh làm con khỉ chúa!

- Vâng!

- Kiếp khác nữa, Đề-bà-đạt-đa vẫn làm người, còn bồ-tát sanh làm con voi chúa, có sáu ngà, tên là Chaddanta. Đề-bà-đạt-đa lại săn đuổi, bắn giết con voi chúa ấy để lấy ngà!

- Quả đúng vậy.

- Chưa hết đâu! Kiếp sau đó nữa, Đề-bà-đạt-đa vẫn làm người, bồ-tát sanh làm con chim đa-đa, bị Đề-bà-đạt-đa giết chết!

- Tâu, vâng!

- Kiếp nữa, Đề-bà-đạt-đa làm vua xứ Kàsì tên là Kalàbu, bồ-tát là một đạo sĩ tu hạnh nhẫn nhục, sau bị đức vua ấy giết!

- Đại vương nhớ túc sanh truyện vậy thay!

- Vâng, còn nữa. Đề-bà-đạt-đa tuy giết bồ-tát mãi như thế, nhưng sanh lại vẫn làm người, tu đạo lõa thể có tên là Korambhira. Còn bồ-tát thiện nghiệp tốt đẹp đâu không thấy, lại sanh làm long vương có tên là Candaraka!

- Xin đại vương cứ cho nghe tiếp.

- Vâng! Sau đó, Đề-bà-đạt-đa vẫn làm đạo sĩ, có tên là Jalita, bồ-tát làm con heo lớn có tên là Dacchaka!

- Tâu, vâng!

- Một kiếp nữa, Đề-bà-đạt-đa làm vua, có tên là Uparipa, bồ-tát của chúng ta may mắn được làm người, dòng dõi bà-la-môn, có tên là Kapila.

- Tâu, vâng.

- Đề-bà-đạt-đa vẫn được làm người, có tên là Sàma, bồ-tát làm chúa loài thú có tên là Uru!

- Quả đúng vậy.

- Đề-bà-đạt-đa vẫn làm người, là thợ săn tên là Surà-ma. Bồ-tát sanh làm tượng vương? Tên thợ săn kia đã theo cưa sừng bồ-tát tới bảy lần!

- Thật là độc ác!

- Độc ác vậy nhưng kiếp sau Đề-bà-đạt-đa vẫn được làm vua, có tên là Lingàla. Bồ-tát may mắn được làm người trí thức trong quốc độ ấy, có tên là Vidhura!

- Bần tăng biết!

- Còn nữa. Sau đó, không biết tại sao Đề-bà-đạt-đa sanh làm voi, dẫm chết bồ-tát là con chim cút (đẻ trứng dưới đất).

- Tâu, vâng!

- Kiếp nọ, Đề-bà-đạt-đa lại làm vua xứ Brahmadatta, bồ-tát là hoàng tử, con của đức vua ấy, có tên là Paduma. Đức vua Brahmadatta đã quăng hoàng tử Paduma xuống hố sâu cho chết.

- Vâng!

- Đề-bà-đạt-đa ác độc thế nhưng tiếp tục làm vua có tên là Mahàpatàpa. Đức vua ấy lại tìm cách giết con mình, là đông cung thái tử, có tên là Dhammapàla, tức là bồ-tát của chúng ta.

- Vâng!

Đến đây, đức vua Mi-lan-đà chậm rãi nói:

- Người làm thiện được vui, người làm ác bị khổ - là hoàn toàn sai lầm. Qua mười sáu ví dụ trên, rõ là bồ-tát luôn luôn bị quả báo đau khổ hơn dù ngài làm việc đại thiện; còn Đề-bà-đạt-đa tuy làm ác nhưng vẫn nhởn nhơ sung sướng, vẫn ở trên bồ-tát, nắm quyền sinh sát bồ-tát! Đại đức nghĩ thế nào?

- Chắc vẫn có kiếp hai người sanh thú bằng nhau, địa vị ngang nhau chứ?

- Vâng. Một kiếp Đề-bà-đạt-đa làm dạ xoa có tên là Adhamma. Bồ-tát cũng làm dạ xoa, có tên là Sudhamma! Cái tên dẫu khác nhau, một bên là phi pháp (Adhamma), một bên là thiện pháp (Sudhamma) nhưng cũng chỉ là thân dạ xoa thôi!

- Tâu, vâng!

- Có kiếp Đề-bà-đạt-đa làm người chủ thuyền có năm trăm tùy tùng, bồ-tát của chúng ta cũng y như thế.

- Tâu, vâng.

- Kiếp kia Đề-bà-đạt-đa làm chúa đàn nai có tên là Sàkha, bồ-tát của chúng ta cũng là chúa đàn nai có tên là Nigrodha!

- Tâu, vâng!

- Kiếp nọ, Đề-bà-đạt-đa là chủ buôn xe bò có năm trăm tùy tùng; Bồ-tát cũng y như thế.

- Tâu, vâng!

- Thưa đại đức! Trẫm nghiên cứu tiền thân Phật không nhiều, nhưng chỉ đếm được bốn kiếp ấy là quả báo bằng nhau mà thôi. Quả báo bằng nhau trong lúc thiện và ác nghiệp khác nhau, không là điều đáng nghi vấn sao?

- Vâng, thế có kiếp nào đức Bồ-tát hơn Đề-bà-đạt-đa chăng?

- Không kể kiếp chót thành Phật - thì chỉ có hai kiếp.

- Cho xin nghe, tâu đại vương!

- Đó là một kiếp Đề-bà-đạt-đa làm tay thủ lãnh tên là Alàta, còn đức Bồ-tát làm vị Phạm thiên tên là Nàrada!

- Tâu, vâng!

- Và kiếp áp cuối khi Bồ-tát đại thí bổ túc ba-la-mật làm thái tử Vessantara thì Đề-bà-đạt-đa làm lão bà-la-môn ăn xin đến xin hai trẻ!

- Tâu, vâng!

- Còn kiếp cuối thì tương tự nhau thôi. Bồ-tát làm thái tử Siddhattha con vua Suddhodana, Đề-bà-đạt-đa làm hoàng tử con vua Suppabuddha. Đề-bà-đạt-đa xuất gia trong giáo hội của Đức Tôn Sư, đắc thế gian thiền, được ngũ thông, lại còn tìm cách giết Đức Phật, chia rẽ tăng già nữa.

Như vậy, rõ ràng Bồ-tát sinh ở đâu, Đề-bà-đạt-đa cũng sinh ra ở đó. Và chức phận, địa vị, sanh thú, tiền bạc, của cải, quyền lực của Đề-bà-đạt-đa luôn luôn là ở trên Bồ-tát, luôn tìm cách giết hại Bồ-tát, làm khổ Bồ-tát! Còn các kiếp Đề-bà-đạt-đa phước báu ít hơn hoặc ngang bằng thật không đáng kể. Nhưng các kiếp ấy bồ-tát cũng có ở yên với Đề-bà-đạt-đa đâu, vẫn bị Đề-bà-đạt-đa làm hại, làm khổ, bằng cách này hay cách khác!

Xin thưa, đại đức hãy giải nghi cho trẫm?

- Tâu, vâng! Đại vương, nếu đại vương có ở trên tay vài chục hạt cát, thì vài chục hạt cát ấy so với cát ở sông Hằng thì thế nào?

- Không thể so sánh được, vì cát của sông Hằng là vô lượng, vô biên không thể đếm được.

- Cũng thế là vài chục kiếp sống mà đại vương đưa ra so với vô lượng vô biên kiếp sống mà bồ-tát và Đề-bà-đạt-đa trải qua. Đề-bà-đạt-đa không phải chỉ có làm ác ở trong các kiếp mà đại vương nêu ra, ông cũng làm thiện rất nhiều. Có nhiều kiếp ông làm kẻ thiện tâm, hằng giúp đỡ đến cho những người đói khổ. Vài kiếp, ông làm chức xã trưởng đạo đức, hiền thiện... đã giúp cho địa phương ấy phồn thịnh và hạnh phúc an vui. Đôi kiếp, ông cũng làm cầu, làm đường, làm nhà nghỉ tạm cho thập phương, lập bệnh xá từ thiện, đào hồ nước và làm giếng nước ở nơi công cộng. Lại còn biết cúng dường đến sa môn, bà-la-môn và bố thí cơm nước, vật thực đến người hoạn nạn, cơ bần ... nữa.

Như vậy, các kiếp mà đại vương nêu ra, không phải là những kiếp nối liền, nhân của kiếp này làm quả cho kiếp kia; ấy chỉ là một số kiếp hy hữu mà bồ-tát và Đề-bà-đạt-đa gặp nhau, tạo oan trái với nhau. Như một con rùa mù ở giữa biển khơi, lâu lâu, trăm năm, ngàn năm mới gặp được một phiến gỗ nổi, một bọng cây nổi... Sự gặp gỡ giữa bồ-tát và Đề-bà-đạt-đa cũng hy hữu như thế. Bồ-tát gặp Đề-bà-đạt-đa chỉ có vài chục kiếp, trong lúc bồ-tát gặp đức Xá-lợi-phất đến hằng ngàn hằng vạn kiếp; khi thì làm cha con, anh em, ông cháu, bạn bè, thân quyến ... thật không thể đếm hết được.

Như thế, bồ-tát trong các kiếp sinh tử quẩn quanh, không những chỉ gặp Đề-bà-đạt-đa mà còn gặp Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, các vị trưởng lão ... nói chung, là cả hội chúng của ngài nữa. Ở đây gồm người tốt, người xấu, kẻ thương yêu vừa lòng, người ngỗ nghịch ghét bỏ, hạng độc ác khó dung, bậc thiện hiền đáng kính. Đủ cả. Ví như dòng nước từ non cao chảy xuống biển khơi, đâu phải dòng nước ấy chỉ gặp những xác chết sinh vật hôi thối, mà còn gặp đá sạn, củi rều, trầm hương, gỗ mục, cành lá, trái cây, chùm hoa, rong rêu ... đủ thứ, đủ loại.

Làm thiện được quả báo tốt lành, làm ác bị quả báo hung dữ, ấy là định luật nhân quả tất yếu không sai trật. Vì ta không thấy hết, không biết hết nên sinh ra hoài nghi. Ví như kiếp Đề-bà-đạt-đa làm dạ-xoa tên là Adhamma mà đại vương đã nêu ở trên. Dạ-xoa Adhamma là kẻ không trú trong pháp, là phi pháp (Adhamma), hành trược hạnh và ác đức; tuyên truyền, hướng dẫn kẻ khác thực hành trược hạnh và ác đức sái quấy như mình; hết kiếp ấy, dạ-xoa đọa địa ngục a-tỳ đến năm bảy koti và sáu vạn năm.

Cùng kiếp ấy, bồ-tát làm dạ-xoa có tên là Sudhamma, là người trú trong pháp, khéo thực hành pháp (Sudhamma), làm việc thanh hạnh và thiện đức; rồi khuyên răn, hướng dẫn kẻ khác thực hành thanh hạnh và thiện đức như mình; hết kiếp ấy, dạ-xoa Sudhamma hưởng quả thiện báo ở cõi trời lâu chừng năm bảy koti và sáu vạn năm.

Đại vương! Đơn cử một ví dụ như thế để đại vương thấy rằng: đã vô lượng kiếp sau khi làm ác, Đề-bà-đạt-đa phải bị trả quả hung dữ, đau khổ như thường, nhưng Đức Phật không thể kể hết đó thôi. Đừng vì không thấy hết, không biết hết mà đại vương nghi ngờ định luật nhân quả rất công bằng và rất phân minh kia vậy!

Đức vua Mi-lan-đà im lặng giây lâu:

- Thế đức bồ-tát chuyên hành thiện mà sao vẫn bị quả dữ, thưa đại đức?

- Không, không phải vậy đâu. Bồ-tát tất là còn vô minh, phiền não. Còn vô minh, phiền não thì tránh sao được những hành động sai lầm? Do vậy, ngài phải bị trả quả đau khổ tương ứng với hành động sai lầm của mình. Đấy cũng là điều tất yếu.

- Đã rõ, thưa đại đức!

* * *


135. Sự tà hạnh của người nữ?

- Thưa đại đức! Đức Thế Tôn có thuyết với đại ý rằng: "Những người nữ trên thế gian này dễ làm điều đê hèn, thấp thỏi, tà hạnh nếu như họ có đủ điều kiện là thời gian, nơi kín đáo, có người đàn ông dụ dỗ, chọc ghẹo họ. Đừng nói là người trai có sắc đẹp, khỏe mạnh mà người trai xấu xí, tầm thường, người nữ vẫn bị quyến dụ như thường!". Có phải có điều ấy không ạ?

- Tâu, vâng!

- Nhưng khi thuyết về bổn sanh, nói về người vợ của bồ-tát Mahosatha là bà Amaràdevi, lại không phải thế. Bà Amaràdevi dầu không có mặt chồng ở trong phòng kín với người đàn ông dụ dỗ mình - theo kế thử lòng của bồ-tát Mahosatha - bà vẫn không tà hạnh. Xem thế, lời tuyên bố ở trên của Đức Thế Tôn có quá đáng chăng? Có hạ giá phẩm hạnh của người nữ chăng? Có đưa tay ra mà nắm cả bó đũa hay chăng? Có nghiêng lệch về một phía bởi định kiến của mình hay chăng? Mong đại đức giải nghi cho trẫm điều này?

- Tâu đại vương! Quả là Đức Thế Tôn có dạy rằng người nữ hành động xấu xa, thấp thỏi khi hội đủ ba điều kiện: thời gian, nơi kín đáo và có người đàn ông dụ dỗ, chọc ghẹo. Nhưng các điều kiện đưa đến phạm tội ấy cũng phải được hiểu cho chính xác, nếu không đại vương sẽ hiểu lầm lời tuyên bố của Đức Đạo Sư!

- Xin đại đức giảng cho nghe?

- Tâu, vâng! Ví như điều kiện thứ nhất là "thời gian"! Đại vương hiểu như thế nào về chữ "thời gian"?

- Có thể hiểu ngay! ví dụ như lúc rảnh việc, lúc không có ai thấy, lúc người khác không nghi ngờ, lúc người chồng đi vắng, lúc ban đêm hoặc lúc có thể dễ dàng nêu lý do vắng mặt v.v... nghĩa là vào lúc mà thời gian thuận tiện nhất. Có phải "thời gian" là vậy không đại vương?

- Rất chính xác. Nhưng nếu có người nữ không cung kính chồng, không tốt với chồng, không hề sợ chê bai, không sợ địa ngục, không biết thế nào là đúng pháp, thế nào là phi pháp, không có tàm quý thì họ có cần điều kiện "thời gian" như đại vương nêu ở trên không?

- Đối với hạng nữ nhân ấy thì lúc nào, thời gian nào họ cũng có thể tà hạnh!

- Vâng! vậy thì đối với hạng nữ nhân đầu, thời gian nghĩa là có lúc, có khi thuận tiện; đối với hạng nữ nhân sau, thì thời gian dường như lúc nào cũng được. Tất cả đều là nghĩa về "thời gian", tâu đại vương!

- Nó rộng nghĩa như vậy sao đại đức! Nếu thế thì có yếu tố "tâm" xen dự vào đấy rồi!

- "Thời gian" đầu, ám chỉ cho hạng nữ nhân có tâm xấu ít. "Thời gian" sau, ám chỉ cho hạng nữ nhân có tâm xấu nhiều, tâu đại vương!

- Thế còn "nơi kín đáo" là chỗ khuất mắt, khuất tai, không ai thấy biết, phải thế không đại đức?

- Cũng không đơn giản như đại vương hiểu đâu. Chỗ mọi người không thấy, không biết thì đúng rồi; nhưng nếu phi nhơn, chư thiên, quỷ thần hay biết thì sao?

- A! Té ra còn điều này nữa!

- Rồi lại còn các bậc đắc thắng trí thần thông, họ có tha tâm thông nên thấy, biết thì sao?

- Vâng, vâng!

- Trở lại vấn đề. Bà Amàradevi, vợ của bồ-tát Mahosatha dẫu bị người đàn ông dụ dỗ, có thời gian, trong phòng kín - kín với mọi người, nhưng không kín đối với bà - nên bà không thể tà hạnh được, tâu đại vương!

- Bà còn là người tốt chứ không phải là người xấu như hai hạng nữ nhân ở trên, thưa đại đức.

- Lại nữa, bà Amàradevi lại còn có người chồng tốt, trên thế gian không ai bằng được, cũng là lý do chính đáng để bà không tà hạnh, tâu đại vương!

- Xin đại đức kể rõ cho nghe?

- Vâng, đức bồ-tát Mahosatha có đầy đủ hai mươi tám pháp ưu thắng sau đây:

Một là, dũng cảm, nhiệt thành.
Thứ hai, có sự hổ thẹn tội lỗi.
Thứ ba, có sự ghê sợ tội lỗi.
Thứ tư, có nhóm thiện hữu của mình.
Thứ năm, có sự thương yêu của bạn bè.

Thứ sáu, đức nhẫn nhục.
Thứ bảy, có giới hạnh.
Thứ tám, nói lời chân thật.
Thứ chín, có năng lực tâm lành bảo hộ.
Thứ mười là, không sân hận.

Mười một, không biết khinh bỉ người khác.
Mười hai, không ganh gỗ với người.
Mười ba là tinh tấn.
Mười bốn, vun bồi ba-la-mật.
Mười lăm, là người tế độ đại chúng.

Mười sáu, biết chia phần của cải cho mọi người.
Mười bảy, nói lời tử tế, hòa hợp.
Mười tám, thân hành dịu dàng.
Mười chín, nói lời nhỏ nhẹ, dịu ngọt.
Hai mươi, không kiêu căng, không khoe khoang.

Hai mươi mốt, không lường gạt, giả dối, không làm bộ làm tịch.
Hai mươi hai, hiểu biết các định luật tiến hóa.
Hai mươi ba, thông hiểu nhiều lĩnh vực (nghề nghiệp, làm ra của cải, biết ngăn ngừa tai họa v.v...)
Hai mươi bốn, có thanh danh.
Hai mươi lăm, biết ban phúc cho người - nhất là biết săn sóc, chăm lo cho những người đang nương tựa mình.

Hai mươi sáu, là người mà đại chúng mong mỏi, tin cậy.
Hai mươi bảy, có nhiều tài sản.
Hai mươi tám, nhiều chức phận cao quý trong xã hội.

Tâu đại vương! Với hai mươi tám phẩm chất cao quý ấy, bậc trí thức, hiền đức là bồ tát Mahosatha là người tuyệt hảo của một ông chồng trong gia đình; là người tuyệt hảo trong thôn lân, xã hội, quốc độ, không một người nữ nào không coi là bậc lang quân lý tưởng; lại nữa, yếu tố "thời gian" và yếu tố "chỗ kín đáo" không hội đủ, thì làm sao bà Amàradevi có thể bị dụ dỗ tà hạnh đươc, hở đại vương?

- Đúng vậy, dẫu đàn bà xấu tâm, xấu nết cũng không thể phạm tội, huống hồ bà Amàradevi là người đàn bà tốt, lại có được một người chồng như thế!

- Tâu, vâng!

-ooOoo-

Mời xem tiếp: 136-143

Duới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn Bài xem
xong bấm vào "CHỌN XONG, BẤM VÀO ĐÂY ĐỂ XEM":





TRUYỆN PHẬT GIÁO

TRỞ VỀ DIỄN ĐÀN

THỂ LOẠI: TRUYỆN PHẬT GIÁO | CẬP NHẬT bởi: atoanmt
Xem: 883 | TẢI XUỐNG: 0 | ĐÁNH GIÁ: 0.0/0
Tổng-số Ý-kiến: 0
CHỈ CHO THÀNH VIÊN GÓP Ý
[ ĐĂNG-KÝ | ĐĂNG NHẬP ]