Thứ Năm
18 Apr 2024
4:00 AM
ĐĂNG NHẬP


Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

[ BÀI VIẾT MỚI · Forum rules · TÌM KIẾM · RSS ]
  • Page 1 of 1
  • 1
FORUM » TRANG VĂN THƠ » TRUYỆN ĐÔNG-PHƯƠNG » Tập tục sinh hoạt làng xã, thi cử, quan trường.
Tập tục sinh hoạt làng xã, thi cử, quan trường.
phiy Date: Thứ Năm, 25 Aug 2011, 11:33 AM | Message # 1
Colonel
Group: Users
Messages: 167
Status: Tạm vắng
Tập tục sinh hoạt làng xã, thi cử, quan trường.
Trích : NHO LÂM NGOẠI SỬ của tác giả Ngô Kính Tử

Cụ Vương nhận bạn đồng khoa, ở trường thôn học
Thầy Chu đỗ lên thượng đế vừa lúc tuổi già (#1)

Ở tỉnh Sơn Đông, phủ Duyên Châu, huyện Vấn Thượng có một làng gọi là làng Tiết. Làng này có độ một trăm gia đình đều sống về nghề nông. Ở cổng làng có am Quan Âm. Ngoài ba gian điện thờ, am còn hơn mười gian phòng trống, cửa sau nhìn ra sông. Hương lửa mười phương đều dồn cả về đây. Am chỉ có một vị hòa thượng. Có công việc, người trong làng đều đến đây bàn bạc.

Bấy giờ vào cuối thời Thành Hoá(#2) chính là lúc nước nhà giàu có sung túc. Ngày mồng tám tháng giêng, dân làng tề tập đến am để bàn về việc múa đèn rồng. Vào buổi ăn sáng, Thân Tường Phủ đi đầu, có bảy, tám người đi theo đến chùa lễ phật. Hòa thượng chạy ra chào. Tất cả đều đáp lễ.

Thân Tường Phủ trách hòa thượng:

- Đầu năm mới, hòa thượng cũng phải chăm hương đèn, lễ Đức Phật hơn nữa mới được. A di đà phật: Biết lấy tiền của thập phương thì cũng phải biết mua hương đèn chứ!

Lại nói:

- Các vị xem kìa, cái đèn lưu ly này chỉ có một nửa dầu thôi!

Và chỉ tay vào một cụ già, quần áo tề chỉnh, Thân nói:

- Chẳng nói ai xa lạ, chỉ xem cụ Tuân này thôi. Chiều ba mươi vừa rồi cụ Tuân mới đem lại cho cụ năm mươi cân dầu: Rõ ràng là cụ đem dầu đi xào rau chứ không lo gì đến việc kính phật hết!

Hòa thượng vẫn kính cẩn tiếp đãi. Đợi ông ta trách xong, hòa thượng mới lấy một bình thiếc, bỏ một nắm chè vào trong, đổ đầy nước, nấu sôi rồi đem lên mời các vị.

Cụ Tuân hỏi trước:

- Về lễ múa đèn rồng năm nay ở trong am, chúng ta phải bỏ ra bao nhiêu tiền?

Thân Tường Phủ nói:

- Đợi chút nữa đã! Chờ ông thông gia tôi đến ta hẵng bàn!

Ngay lúc ấy, một người ở ngoài bước vào, hai quầng mắt đỏ, má đen sạm, râu thưa và hói, đầu đội mũ miếng ngói, mình mặc áo xanh láng như một cái thùng dầu, tay cầm cái roi vái mọi người một vái và ngồi ngay lên cái ghế cao nhất. Y họ Hạ, chính là thôn trưởng làng Tiết. Thôn trưởng Hạ ngồi ở chiếu cao, bảo ngay hòa thượng:

- Hòa thượng, đem con lừa của tôi buộc vào chuồng sau vườn! Tháo yên cho nó, lấy cỏ cho nó ăn no. Tôi bàn xong công việc, rồi còn phải lên uống rượu mừng năm mới với cụ Hoàng ở trước cửa hiệu đấy!

Dặn hòa thượng xong, y vắt một chân lên, lấy nắm tay đấm vào sống lưng, vừa đấm vừa nói:

- Các ông làm ruộng còn sướng hơn tôi nhiều! Tết năm nay, nhận được thiếp mời của tất cả mọi người trong nha môn, tôi không đến mừng sao được? Hàng ngày cưỡi con lừa này hết lên huyện lại về làng, thật là đầu quáng mắt hoa. Rủi sao lại bị một thằng đui nào va phải làm tôi ngã xuống đường, sống lưng đau ê ẩm hết!

Thân Tường Phủ nói:

- Mồng ba tết, tôi đã soạn một bữa cơm đậu phụ mời ông, chắc là ông bận nên không đến được.

- Lại còn phải nói! Bảy tám hôm nay tôi có lúc nào rảnh đâu? Nếu có hai miệng thì cũng không ăn xuể! Đấy, cụ Hoàng hôm nay mời tôi đấy. Cụ là người đứng đầu cả ban, trước mặt quan trên. Cụ là người cất nhắc mình nếu mình không đến sợ cụ giận!

Thân Tường Phủ nói:

- Tôi nghe nói cụ Hoàng là người quan trên phái đi đâu từ đầu năm. Cụ lại không có anh em, con cái gì. Vậy ai làm chủ mà mời?

Thôn trưởng Hạ nói:

- Ông không hiểu gì cả! Bữa tiệc hôm nay là do cụ Lý mời. Vì cụ Lý nhà cửa chật hẹp, cho nên cụ lấy nhà cụ Hoàng để thết khách.

Nói chuyện hồi lâu, mới bàn đến việc múa đèn rồng. Thôn trưởng Hạ nói:

- Năm nay tôi cũng chán cái việc này rồi. Mọi năm, năm nào tôi cũng đứng ra lo liệu, mọi người đều ghi số tiền cúng mà chẳng chịu nộp, làm tôi phải bồi thường không biết bao nhiêu. Hơn nữa, năm nay các ban trên huyện ban nào cũng chơi đèn rồng, tôi xem không xuể còn thì giờ đâu mà về xem đèn rồng ở làng? Nhưng vì các ông đã nói, nên tôi cũng phải góp phần của tôi. Các ông phải tìm một người khác đứng ra lo liệu. Như cụ Tuân đây, ruộng đất nhiều, thóc tiền thừa thãi, bảo cụ góp nhiều hơn. Mọi người đều góp phần mình thì làm gì chả xong.

Mọi người không dám trái ý, bèn định cụ Tuân xuất nửa tiền, còn các nhà khác góp một nửa, tất cả được hai, ba lạng bạc và ghi vào sổ. Hòa thượng mang trà ra. Hòa thượng bầy táo, dưa, đậu phụ khô, kẹo, hạt dẻ trên hai cái bàn, mời Hạ ngồi ở ghế đầu và rót nước trà mời mọi người.

Thân Tường Phủ lại nói:

- Bọn trẻ con lớn cả rồi, năm nay phải mời một ông thầy. Am Quan Âm này có thể làm trường học được đây.

Mọi người đều nói:

- Nhiều nhà chúng ta có con phải đi học. Ngay con trai cụ Thân đây là rể cụ Hạ. Cụ Hạ thường nhận được giấy tờ trên huyện nên cũng cần người biết chữ. Tốt nhất là tìm một ông thầy ở huyện về đây.

Thôn trưởng Hạ nói:

- Thầy thì có rồi! Các ông thử đoán xem! Ông này dạy ở nhà cụ Cố làm Đề khống(#3) ở nha môn. Ông ta tên là Chu Tiến, đã ngoài sáu mươi. Quan huyện trước lấy ông ta đầu huyện, nhưng lên thi ở phủ không đỗ. Cụ Cố mời ông ta dạy học ở nhà đã ba năm nay. Con cụ năm ngoái thi đỗ tú tài, cùng đỗ một lần với ông Mai trong làng ta. Hôm ấy, ông ta thi đỗ về, mọi người ra đón tiếp. Ông ta đội trên đầu một cái mũ vuông, mang một cái áo rộng bằng trừu đỏ, cưỡi con ngựa lấy ở trong chuồng quan lớn ra. Thanh la đánh vang. Khi ông đến cửa nhà, tôi và những người trong nha môn đều ra rót rượu mời ở ngoài đường. Sau đó mời ông Chu đến. Cụ Cố thân hành rót ba chén rượu mời ngồi lên chiếu nhất. Kế đến diễn vở tuồng lấy tích Lương Hạo tám mươi tuổi đỗ trạng nguyên. Cụ Cố xem trong lòng không vui. Đến khi thấy học trò của Lương Hạo mười bảy, mười tám tuổi đỗ trạng, cụ Cố mới hiểu rằng vở tuồng này là để làm điềm tốt cho con mình, cho nên vui lòng. Các ông muốn mời ông thầy ấy thì tôi sẽ mời giúp.

Mọi người đều nói: - vâng

Uống trà xong, hòa thượng bưng canh miến thịt bò lên. Ăn xong mọi người ra về. Hôm sau, thôn trưởng Hạ nói với Chu Tiến. Tiền lương mỗi năm là mười hai lạng bạc. Ăn cơm tại nhà hòa thượng trả mỗi ngày hai phân. Định sau lễ múa đèn rồng là sẽ đến làng. Khai giảng hôm hai mươi tháng giêng.

Hôm mười sáu, mọi người góp tiền cho Thân Tường Phủ để dọn một bữa rượu, mời Mai Cửu là tú tài trong làng để tiếp khách. Mai Cửu đội mũ vuông đến từ sáng sớm. Mãi gần trưa, Chu mới tới. Nghe chó sủa bên ngoài, Thân Tường Phủ chạy ra mời vào. Mọi người thấy Chu Tiến đầu đội mũ lông chiên cũ, mình mặc áo rộng màu xám đã rách, ống tay phải và phía sau đều tả tơi, chân đi một đôi giầy đỏ cũ, da mặt đen và gầy, râu lốm đốm bạc. Thân Tường Phủ mời lên nhà. Bây giờ Mai Cửu mới dần dần đứng lên và ra gặp Chu. Chu Tiến hỏi:

- Vị này là ai?

Mọi người nói:

- Đó là ông Mai, tú tài làng chúng tôi.

Chu Tiến nghe vậy, không dám để Mai Cửu vái chào mình. Mai Cửu nói:

- Hôm nay là khác...

Chu Tiến hai ba lần không nhận. Mọi người nói:

- Về tuổi tác thì Chu tiên sinh cao hơn, vậy mời tiên sinh cứ tự nhiên.

Mai Cửu quay lại nói với mọi người:

- Các ông không biết quy củ nhà trường thế nào cả! Những người “bạn lớn” xưa nay bao giờ cũng hơn người “bạn nhỏ”, không kể gì tuổi tác cả. Nhưng hôm nay là đặc biệt, xin mời ông Chu ngồi trên cho.

Số là thời Minh gọi học sinh thi đỗ tú tài là “bạn”, đồng sinh gọi là “bạn nhỏ”. Đồng sinh thi đỗ thì bất kì bao nhiêu tuổi cũng gọi là “bạn lớn”, nếu không đỗ thì có tám mươi tuổi cũng gọi là “bạn nhỏ”. Cũng như con gái đi lấy chồng, lúc mới lấy thì gọi là “cô” (tân nương), sau gọi là “mợ” hoặc “bà” chứ không gọi là “cô” nữa. Nhưng nếu làm vợ lẽ cho người ta đến khi bạc đầu cũng còn gọi là “cô”.

Chu Tiến nghe Mai Cửu nói thế mới thôi, không nhường Mai Cửu nữa và để cho Mai Cửu vái chào mình. Mọi người vái chào xong, ngồi xuống. Chỉ có Chu và Mai có hai quả táo hồng trong chén trà, còn mỗi người thì chỉ uống trà suông. Uống trà xong, người ta bày ra hai cái bàn. Mọi người theo thứ tự tuổi ngồi xong, rượu rót ra. Chu Tiến tay cầm chén rượu cảm ơn mọi người rồi uống một hơi cạn chén. Mỗi bàn có bảy tám đĩa: có thịt thủ lợn, gà, cá chép, lòng, phổi, gan. Nghe một tiếng “mời”, mọi người cầm đũa.

Như mây bay gió cuốn, phút chốc đã hết ngay một nửa. Bấy giờ Chu vẫn chưa gắp gì cả. Thân Tường Phủ hỏi: Tại sao hôm nay tiên sinh không dùng đồ nhắm? Hay là chúng tôi có gì làm phật ý chăng? Và chọn mấy miếng ngon đặt vào đĩa của Chu. Chu Tiến giữ tay lại, nói:

- Không phải tôi có ý gì đâu! Chỉ vì tôi ăn chay.

Mọi người nói:

- Quả thực chúng tôi sơ ý, không ngờ tiên sinh lại ăn chay.

- Chỉ vì ngày mẹ tôi bị bệnh, tôi có hứa trước phật Quan Âm. Đến nay tôi ăn chay đã mười mấy năm.

Mai Cửu nói:

- Nhân việc tiên sinh ăn chay, tôi nhớ đến một chuyện đùa. Chuyện này hôm trước tôi nghe ở nhà cụ Cố. Có người có một bài thơ từ nhất ngôn đến thất ngôn. Mọi người dừng đũa nghe thơ.

Mai Cửu liền đọc:

Ngây!

Tú tài,

Ân trường trai(#4)

Râu ria má đầy,

Sách vở không hề coi.

Giấy bút xếp bỏ một xó,

Sang năm sẽ đến không cần mời!

Ngâm xong lại nói:

- Chu tiên sinh là người tài giỏi không “ngây” như thế được.

Lại che miệng nói:

- Tú tài thì thế nào ông cũng đỗ, còn “ăn trường trai” và “râu ria đầy má” thì quả đúng hệt.

Nói xong cười khanh khách. Mọi người cười theo. Chu Tiến bực mình lắm. Thân Tường Phủ vội rót một chén rượu, nói:

- Xin ông Mai uống một chén rượu. Chu tiên sinh trước kia ngồi ở nhà cụ Cố đấy.

Mai Cửu nói:

- Thế mà tôi không biết! Xin lỗi, xin lỗi! Nhưng lời nói kia không phải là nhằm Chu huynh. Nó là nói các ông nhà nho. Dầu sao ăn chay cũng tốt. Trước đây tôi có một ông cậu chỉ ăn chay. Sau khi thi đỗ, nhà chủ đưa thịt tế thánh đến. Bà ngoại tôi nói: “Nếu không ăn thịt tế thì thánh nhân giận đấy! To thì sinh tai vạ, nhỏ thì mắc bệnh”. Từ đó, ông cậu tôi thôi không ăn chay nữa. Chu huynh vào dịp tế thánh mùa thu năm nay, thế nào cũng có thịt tế đưa đến, chắc Chu huynh sẽ hết kiêng.

Mọi người cho đó là điềm tốt cùng rót một chén mừng Chu Tiến, làm cho mặt Chu Tiến lúc đỏ bừng, lúc tái nhợt chỉ còn cách vừa cầm rượu vừa cảm ơn mọi người. Ở dưới bếp bưng canh lên. Trong mâm có một đĩa bánh bao và một đĩa bánh nướng, mọi người nói:

- Món này điểm tâm tốt. Ông xơi vài cái!

Nhưng Chu Tiến sợ bánh không được tinh khiết, nên chỉ xin uống trà.

Lúc ấy có người hỏi Thân Tường Phủ:

- Ông thôn trưởng hôm nay ở đâu? Tại sao không đến tiếp ông Chu?

Thân Tường Phủ nói:

- Ông ta lại nhà ông Lý uống rượu rồi!

Có người nói:

- Ông Lý mấy năm nay gặp quan mới làm việc rất chạy. Một năm kiếm được đến trên ngàn lạng bạc. Nhưng phải cái ông ta hay đánh bạc, không như ông Hoàng. Ông Hoàng lúc đầu cũng ham đánh bạc, nhưng mấy năm nay đã tu rồi, nên nhà cửa đẹp chẳng kém gì cung vua.

Cụ Tuân nói với Thân Tường Phủ:

- Ông Hạ từ khi làm thôn trưởng là thời vận phát. Chừng hai năm nữa cũng được như ông Hoàng.

Thân Tường Phủ nói:

- Ông ta cũng là người biết tính toán đấy. Nhưng mơ ước được như ông Hoàng, thì còn lâu.

Mai Cửu đang nhai bánh rán cũng nói xen vào:

- Mơ cũng có khi đúng chứ!

Và quay về phía Chu Tiến, Mai Cửu nói: - Mấy năm nay, khi thi cử, ông có nằm mộng bao giờ không?

- Tôi không nằm mộng bao giờ. - Đấy, năm ngoái tôi gặp may, chính hôm mồng một tháng giêng, tôi mộng thấy tôi đứng ở trên một cái núi rất cao, mặt trời chính ở trên đỉnh và rơi thẳng vào giữa đầu tôi không chệch một ly. Tôi sợ toát mồ hôi. Tỉnh dậy, sờ lên đầu thấy còn nóng. Lúc ấy tôi không hiểu cớ gì. Nay nghĩ lại quả là đúng.

Bấy giờ bánh đã hết. Lại rót thêm một tuần rượu. Câu chuyện kéo dài cho đến khi thắp đèn lên, Mai Cửu và mọi người mới ra về. Thân Tường Phủ lấy ra một cái nệm bằng vải lam, dẫn Chu Tiến đến am Quan Âm nằm nghỉ. Ông ta bàn với hòa thượng dành hai gian phòng phía sau am làm nơi dạy học.

Đến ngày khai trường, Thân Tường Phủ và mọi người dẫn học sinh đến. Đứa lớn đứa bé, đến vái chào thầy. Sau khi mọi người ra về, Chu Tiến bắt đầu dạy. Buổi chiều, học sinh về nhà cả rồi, Chu mở phong bao xem tiền học, thì chỉ thấy cụ Tuân gửi một đồng cân bạc, còn thêm tám phân tiền trà, còn thì có người ba phân, người bốn phân bạc, lại có người chỉ có hơn mười đồng tiền. Tổng cộng lại chưa đủ tiền ăn một tháng. Chu Tiến giao tất cả số tiền phong bao cho hòa thượng, còn thiếu bao nhiêu thì tính sau.

Bọn học trò đều là bọn tinh quái, hễ Chu Tiến không nhìn đến là chúng chạy ra ngoài đá cầu và trêu chọc nhau. Chu Tiến chỉ có một cách là kiên tâm ngồi dạy.

* * *

Hơn hai tháng qua. Trời bắt đầu ấm. Chu Tiến ăn cơm trưa xong, mở cửa sau đi ra ven sông. Tuy đây là nơi hương thôn, nhưng bên sông cũng có mấy cây đào, cây liễu, màu hồng xen màu lục xem rất đẹp. Mưa phùn rơi xuống. Chu Tiến quay vào nhà, nhìn ra, mưa rơi ngoài sông, bao trùm những đám cây xa tít, trông càng đẹp mắt. Mưa càng nặng hạt. Chợt thấy ở mạn ngược dòng sông một con thuyền lướt qua mưa gió tiến đến. Thuyền không to, lại chỉ có cái bồng bằng lau nên không chống nổi mưa. Thuyền đến gần bờ, khoang giữa có một người ngồi, đằng đuôi có hai người, đằng đầu có một gánh đồ ăn. Thuyền ghé bến. Người kia liền bảo lái đò cắm thuyền lại, rồi lên bờ, hai người đầy tớ đi theo. Chu Tiến thấy y đầu đội mũ vuông, mặc áo màu lam quý, chân đi giày đen đế trắng, râu ba chòm, tuổi trạc ba mươi. Đến cửa, y chào Chu Tiến và bước thẳng vào, nói một mình:

- Đây hình như là trường học.

Chu Tiến đi theo vái chào. Y chỉ đáp lễ qua loa và hỏi: - Ông là thầy đồ ở đây?

- Vâng.

Y nói với người đi theo:

- Tại sao không thấy hòa thượng?

Hòa thượng vội vàng chạy ra nói:

- Ngỡ là ai, té ra ông Vương, xin mời ông ngồi chơi, để tôi đi pha trà.

Và quay về phía Chu Tiến, hòa thượng nói:

- Đây là ông cử Vương vừa thi đỗ, mời ông ngồi tiếp để tôi đi pha trà.

Cử Vương không khiêm nhượng gì. Thấy đầy tớ kéo ra một cái ghế dài, y liền ngồi ngay vào ghế đầu. Chu Tiến ngồi tiếp. Vương cử nhân nói:

- Xin hỏi quý tính?

Chu Tiến biết y đã đỗ cử nhân, bèn nói:

- Vãn sinh họ Chu.

- Trước đây ông dạy ở đâu?

- Tôi dạy ở nhà cụ Cố trước cửa huyện.

- Thế có phải ông đã đỗ đầu trong kì thi do cụ Bạch là thầy tôi chấm không? Cụ Bạch nói mấy năm nay ông dạy ở nhà cụ Cố.

- Thế ngài có biết cụ chủ nhà tôi sao?

- Cụ Cố làm việc ở nhà tôi, lại là người anh em thân thiết với tôi.

Lát sau hòa thượng bưng trà lên, Chu Tiến nói:

- Quyển thi của ngài tôi đã đọc. Hai vế cuối cùng thật là tuyệt.

- Hai vế ấy không phải là của tôi.

- Ngài quá nhún mình, không ngài thì còn ai viết vào đấy nữa!

- Tuy không phải là của tôi, nhưng cũng không phải của người làm ra. Hôm thi đầu tiên là ngày mồng chín. Trời sắp tối tôi vẫn chưa làm xong bài văn thứ nhất. Trong lòng đang phân vân, nghĩ mình ngày thường đặt bút là viết được, tại sao hôm nay lại như thế này? Chính trong lúc suy nghĩ như vậy, không ngờ buồn ngủ, tôi nằm gục trên án viết mà ngủ. Tôi thấy năm người má xanh nhảy vào lều, trong đó có một người tay cầm một cái bút lớn, chấm một chấm trên đầu tôi rồi bỏ đi. Sau đó một người mang mũ sa, áo đỏ, thắt một cái đai vàng và nắm lấy tôi lay và nói: “Ông Vương tỉnh dậy”. Tôi giật mình tỉnh dậy, cả người toát mồ hôi. Lúc tỉnh, tay cầm bút viết mà không biết viết gì. Cho hay người ta nói có ma quỷ ở trường thi, là có sự thực. Tôi đã đem việc này thưa với quan chánh phủ chủ khảo. Ngài nói tôi có số đỗ đầu khi thi điện thí.

Hai người đang nói chuyện, thì một học sinh đem vở viết tập vào để chấm. Chu Tiến bảo y để vở đấy. Cử Vương nói:

- Không can gì? Ông cứ chấm đi, tôi còn có việc khác.

Chu Tiến đến bàn chấm, cử Vương gọi người nhà bảo:

- Trời đã tối rồi, mưa mãi không dứt, các anh lấy quả đồ ăn ở dưới thuyền lên, rồi bảo hòa thượng nấu cơm giúp. Bảo ông lái hãy đợi đấy, ngày mai ta đi sớm.

Và quay về phía Chu Tiến, y nói:

- Tôi đi thăm mộ về, không ngờ gặp mưa, nên ngủ lại đây một đêm.

Vương đang nói bỗng quay mặt lại. Thấy một quyển vở tập có viết tên “Tuân Mai”. Vương giật mình, mím môi, vẻ mặt suy nghĩ, như có điều gì lạ lùng. Thấy vậy, Chu Tiến không hỏi, cứ cúi xuống chấm bài xong rồi quay lại tiếp khách. Vương hỏi:

- Đứa học sinh vừa rồi mấy tuổi?

- Nó mới bảy tuổi.

- Năm nay nó mới vào học sao? Có phải ông đặt cho nó cái tên ấy không?

- Tên ấy không phải do tôi đặt ra. Lúc mới vào học, ông cụ của nó nhờ ông bạn Mai Cửu tú tài trong làng đặt tên cho. Ông Mai nói: “tên tôi là ”Cửu", thôi cho chữ vương đứng bên cạnh tên để lấy điềm tốt, mong sau này nó cũng thành đạt như tôi"(#5).

Cử Vương cười và nói:

- Chuyện này thực là buồn cười. Mồng một năm nay, tôi mộng thấy bảng thi hội. Tôi thi đỗ, cái đó không bàn nữa. Nhưng cái tên thứ ba lại là Tuân Mai ở huyện Vấn Thượng. Tôi nghi ngờ không biết ở huyện ta có ai họ Tuân mà thi đỗ cử nhân không. Không ngờ Tuân Mai lại là tên của đứa học sinh nhỏ này. Thế nào! Nó sẽ ở cùng bảng với tôi sao!

Vương nói xong, cười khanh khách mà rằng:

- Cho hay mộng cũng không đúng! Vả chăng cái việc công danh là cốt ăn nhờ vào văn chương chứ nào có ma quỷ gì ở đấy đâu?

- Mộng cũng có cái đúng chứ! Hôm mới đến đây tôi gặp ông bạn họ Mai ở trong làng. Ông nói hôm mồng một tháng giêng ông nằm mơ thấy mặt trời rơi đúng trên đầu. Quả nhiên năm ấy ông thi đỗ.

Cử Vương nói:

- Nói như thế càng không được. Chẳng hạn ông ta đỗ tú tài thì có mặt trời rơi trên đầu, như tôi thi đã đỗ cử nhân, không có lẽ đến cả trời cũng rơi trên đầu tôi ư?

Hai người đang nói chuyện suông, thì có người mang lên cơm rượu, gà, cá, thịt lợn, thịt vịt đầy bàn. Cử Vương cũng không mời Chu Tiến, cứ ngồi ăn. Ăn xong, hòa thượng bưng cơm lên cho Chu Tiến ăn, chỉ có một đĩa rau và một bát nước nóng. Chu Tiến ăn cơm xong, cả hai người đi nghỉ.

Hôm sau, trời mới sáng, cử Vương dậy rửa mặt xong, mặc áo quần, chào rồi xuống thuyền, để lại phòng học đầy cả xương đầu gà, đầu cánh vịt, xương cá, vỏ hạt dưa. Chu Tiến quét suốt một buổi, đầu quáng mắt hoa(#6).

* * *

Sau hôm ấy người làng Tiết nghe nói con trai cụ Tuân sẽ đỗ tiến sĩ đồng khoa với Vương cử nhân, đều cho là chuyện bông đùa. Có những đứa bạn học không gọi tên Tuân Mai nữa mà gọi là “Tiến sĩ Tuân”. Phụ huynh các nhà nghe thế đều không bằng lòng. Họ đến mừng cụ Tuân là “cụ phong”(#7), làm cho ông ta không biết nói gì và bực mình.

Thân Tường Phủ nói riêng với dân làng:

- Chắc gì ông cử Vương đã nói thế. Ông Chu thấy trong làng ta chỉ có cụ Tuân là có tiền, nên bịa ra việc đó nịnh nọt để khi nào có lễ tết thì cụ ta cho thêm. Hôm trước tôi nghe nói nhà cụ Tuân đem miến khô, đậu phụ đến chùa, lại còn đưa bánh bao, bánh nướng, chính là vì thế.

Mọi người đều không bằng lòng. Từ đó Chu Tiến sống không yên. Nhưng vì nể mặt thôn trưởng mời đến, nên họ không nỡ đuổi đi. Y nương náu qua một năm. Sau đó thôn trưởng Hạ cho y là người ngốc không biết đến nhà thôn trưởng mà cảm ơn. Vì vậy người ta không nuôi Chu Tiến nữa.

Mất chỗ dạy học, Chu Tiến trở về nhà. Ở nhà đời sống thực là chật vật. Một hôm người anh rể là Kim Hữu Dư đến khuyên:

- Này, cậu, tôi nói cậu chớ giận. Việc đọc sách để tìm công danh xem ra rất khó. Người ta sinh ra ở đời, khó lòng mà kiếm đủ cơm ăn. Nay tôi và mấy người bạn có lắm tiền sắp lên tỉnh mua hàng thiếu một người giữ sổ sách. Chi bằng cậu cứ đi với chúng tôi. Cậu có một thân một mình, chẳng lo gì thiếu ăn thiếu mặc.

Chu Tiến nghe vậy, tự nghĩ: “Thằng què rơi xuống giếng, có kéo lên thì cũng chỉ què là cùng, ta đi cũng chẳng thiệt thòi gì”. Bèn bằng lòng.

Kim Hữu Dư chọn ngày lành tháng tốt cùng một bọn buôn lên tỉnh thành để mua hàng. Chu Tiến rảnh rang không có việc gì làm, đi chơi ngoài phố. Thấy một nhóm thợ kéo nhau đi qua, họ nói họ đi chữa cửa trường thi. Chu Tiến đến cửa trường thi xem, không được vào vì có người coi cửa cầm cái roi to tướng đập đuổi ra. Buổi chiều y nói với anh rể muốn vào xem, Kim Hữu Dư cho mấy đồng tiền, cả bọn con buôn cùng vào. Họ nhờ người chủ ngôi hàng dẫn đầu. Ông này chỉ việc cho anh coi cổng ít tiền là xong cả. Đi đến cửa Long Môn, người chủ ngôi hàng chỉ cái cửa và nói:

- Ông Chu! Đây là cái cửa những ông tiến sĩ đi vào! Bọn họ đi vào con đường hai bên là phòng thi, người chủ ngôi hàng nói:

- Đây là bàn đầu đây, ông vào mà xem.

Chu Tiến bước vào, nhìn thấy bàn đặt chỉnh tề. Nước mắt bỗng nhiên chảy giàn giụa. Y thở dài một cái, đầu đập vào bàn, nằm duỗi thẳng cẳng, bất tỉnh nhân sự. Chỉ nhân cái chết ấy, khéo hay cho: mấy năm lận đận, bỗng dưng thẳng bước công danh; nhiều lúc hẩm hiu, lại được treo cao phẩm giá.

Muốn biết Chu Tiến tính mạng thế nào, hãy xem hồi sau phân giải.

Added (25 Aug 2011, 12:05 PM)
---------------------------------------------
[tiếp theo]

Cụ học đạo cầm cân thi cử, lựa kẻ nhân tài
Lão bán thịt giở ngón hung hăng, ổn khi báo tiệp


Nói về Chu Tiến ở tỉnh muốn đi xem trường thi, Kim Hữu Dư thấy Chu háo hức, nên bỏ ra ít tiền để cùng Chu đi xem. Không ngờ mở cửa nhìn thấy bàn số một, Chu đã ngã lăn ra chết ngất, mọi người hoảng hốt, cho là Chu mắc bệnh gì. Người chủ ngôi hàng nói:

- Chắc nơi này đã lâu không có ai đến, âm khí nặng nề, cho nên ông Chu ngộ cảm.

Kim Hữu Dư nói:

- Tôi dựng ông ta dậy, còn ông thì lại nói với mấy người thợ xin ít nước nóng mà đổ cho ông ta.

Người này đi lấy nước lại. Ba bốn người cùng dựng Chu dậy, đổ nước vào miệng, nước chảy vào cổ ồng ộc. Chu oẹ ra nước miếng. Mọi người nói:

- Tốt lắm!

Nhưng khi dựng Chu dậy, Chu Tiến thấy cái bàn thì lại đập đầu vào bàn. Lần này thì không chết, chỉ khóc rống lên thôi. Không ai khuyên giải được.

Kim Hữu Dư nói:

- Cậu điên sao? Chúng ta đi đến đây mà xem cho tiêu khiển, ở nhà cậu không ai chết cả, làm gì mà khóc lóc thảm thiết thế?

Chu Tiến vẫn không chịu nghe, cứ đập đầu vào bàn mà khóc mãi. Hết khóc ở phòng thứ nhất, lại khóc ở phòng thứ hai, thứ ba, nằm lăn ra đất, khóc lăn khóc lóc, làm cho tất cả mọi người cũng phải ngậm ngùi.

Kim Hữu Dư thấy sự việc không hay, cùng người chủ ngôi hàng, mỗi người mỗi bên, kéo Chu dậy. Nhưng Chu không chịu dậy, cứ khóc đày khóc đọa, lần này lượt khác, đến nỗi khạc ra máu. Mọi người vội vàng mang Chu ra một tiệm trà ở trước trường thi và rót trà cho Chu uống. Chu vẫn còn đầy nước mắt, nước mũi, xem rất thương tâm.

Trong bọn có một người hỏi:

- Không hiểu ông Chu trong làng uất ức việc gì mà đến nỗi khóc lóc thảm thương như vậy?

Kim Hữu Dư nói:

- Các vị không biết, cậu tôi đây vốn không phải là dân buôn, ông ta học hành khó nhọc mấy mươi năm nay, mà tú tài cũng không đỗ. Hôm nay nhìn cảnh trường thi, mới đâm ra thương cảm như thế.

Nghe lời nói đúng nỗi lòng mình, Chu Tiến khóc oà. Một người khách nói:

- Xét ra lỗi ở ông Kim cả! Ông chu đã là văn nhân, thì đưa ông ta vào đây làm gì, để đến nông nỗi này.

Kim Hữu Dư nói:

- Chỉ vì ông ta nghèo xác nghèo xơ, không nơi dạy học. Thật không còn cách gì sống nữa.

Một người khách khác nói:

- Xem vậy thì ông Chu là người học rộng tài cao. Chỉ vì không có ai biết đến, cho nên mới đến nông nỗi này.

Kim Hữu Dư nói:

- Ông ta có tài nhưng ông ta không gặp vận.

Người khách kia nói:

- Hễ là sinh viên quốc tử giám, thì có thể vào trường. Ông Chu đã là người tài như thế, tại sao không mua cho ông chức sinh viên quốc tử giám? Nếu thi đỗ thì thật là thỏa mãn cái tâm sự hôm nay.

Kim Hữu Dư nói:

- Tôi cũng nghĩ thế, nhưng tiền đào đâu ra?

Bây giờ Chu Tiến thôi khóc. Người khách kia nói:

- Khó gì việc đó! Bây giờ chúng mình mỗi người cứ bỏ ra vài chục lạng giúp ông Chu nộp tiền vào trường. Nếu ông ta thi đỗ làm quan thì mấy lạng bạc của chúng mình có nghĩa lí gì. Còn nếu ông Chu không trả được thì bọn mình cũng xem như là món tiền tiêu hoang chứ gì? Hơn nữa, đây lại là việc tốt. Không biết các ông nghĩ thế nào?

Mọi người đều nói: - “Quân tử thành nhân chi mỹ” thấy nghĩa mà không làm là không có gan. Chúng ta có ngại gì! Chỉ sợ ông Chu không chịu nhận thôi.

Chu Tiến nói: - Nếu quả thật vậy thì thật là ơn trùng sinh như cha mẹ, Chu Tiến này xin đền ơn trâu ngựa.

Nói rồi quỳ xuống, cúi gục đầu lạy. Mọi người đáp lễ. Kim Hữu Dư cũng cảm ơn mọi người, uống xong mấy chén trà, Chu Tiến bây giờ không khóc nữa. Mọi người vừa nói vừa cười cùng nhau trở về.

Hôm sau quả nhiên bốn người khách mang đến hai trăm lạng bạc giao cho Kim Hữu Dư. Còn tiền phí tổn ngoài thì do Kim Hữu Dư lo liệu tất cả. Chu Tiến cảm tạ mọi người và Kim Hữu Dư. Người chủ ngôi hàng thay mặt Chu Tiến dọn một bữa rượu, mời mọi người. Kim Hữu Dư đem tiền đến nộp kho ở tỉnh. May mắn thay lại là lúc thi bổ sung ở tỉnh. Chu Tiến thi, và quyển của Chu đứng đầu. Ngày mồng tám tháng tám, Chu lên trường thi thấy đúng nơi mình khóc trước đây, trong người vui sướng vô cùng.

Người xưa có câu: “Gặp việc vui thì trong lòng đâm sáng suốt”. Chu viết cả bảy bài như hoa như gấm. Ra khỏi trường, Chu lại thăm các bạn hàng. Kim Hữu Dư và mấy người khác còn mua bán chưa xong. Khi treo bảng, Chu đỗ cao. Mọi người đều vui mừng cùng nhau đến huyện Vấn Thương vái chào quan huyện và quan huấn. Các nha lại đều cầm tờ thiếp đến mừng. Người huyện Vấn Thương dù không bà con gì cũng đến nhận là bà con, không quen biết cũng nhận là quen biết, bận rộn hết một tháng. Thân Tường Phủ nghe tin ấy cùng người làng Tiết mua bốn con gà, năm mươi quả trứng gà và ít gạo bánh tự mình đem lên huyện để mừng. Chu Tiến giữ lại ăn cơm uống rượu. Cố nhiên, cụ Tuân cũng đến mừng. Còn việc thi hội, tiền đi đường, tiền ăn mặc, tất cả đều có Kim Hữu Dư lo liệu. Lên kinh thi hội, lại đỗ tiến sĩ, đệ tam giáp làm thuộc quan ở bộ. Được ba năm thì thăng lên chức Ngự sử, và khâm mạng ra làm học đạo ở tỉnh Quảng Đông.

Chu ra làm học đạo, mặc dầu cũng có mời những người chấm bài hộ, Chu vẫn nghĩ bụng: “Ta đã khổ cực nhiều về cái việc này rồi. Nay ta có quyền, ta phải xem các quyển thi thật kĩ để không cho bọn nó bỏ mất những chân tài”. Đã có chú ý như vậy, y đến Quảng Châu nhậm chức. Hôm sau, thi hai trường. Trường đệ tam là để cho học sinh Nam Hải, Phiên Ngung. Chu học đạo ngồi trên công đường nhìn thí sinh tấp nập đi vào. Có người nhỏ, có người già, có người bộ dạng đoan chính, có người xấu xí, có người áo mũ đẹp, có người rách rưới. Người đi sau cùng, mặt vàng, mình võ, râu lốm đốm bạc, đầu đội một cái mũ lông chiên đã rách. Tuy Quảng Đông là nơi khí trời ấm áp, nhưng bấy giờ là thượng tuần tháng chạp mà người thí sinh này còn mang áo vải to, cho nên rét run cầm cập. Sau khi nhận quyển thi, y trở về lều.

Chu học đạo ghi nhớ việc đó, rồi niêm phong cửa các phòng thi lại. Khi thí sinh ra nộp bài, Chu thấy người thí sinh mặc áo gai kia đến nộp quyển, vì áo quần cũ quá, nên thấy áo rách mấy chỗ. Chu nhìn lại thấy mình áo gấm đai vàng thật là rực rỡ. Chu bèn lật sổ danh sách hỏi thí sinh:

- Anh là Phạm Tiến phải không? - Thưa đúng con ạ.

- Năm nay anh bao nhiêu tuổi?

- Tuổi trong sổ thi ba mươi, nhưng thực thì năm mươi tư tuổi.

- Anh thi mấy lần? - Con thi từ năm hai mươi, đến nay là hai mươi lần. - Tại sao mãi không đỗ?

- Vì con văn chương kém cỏi, cho nên không vị giám khảo nào để ý.

- Cái đó chưa chắc! Ta sẽ xem kĩ quyển anh.

Phạm Tiến cúi đầu đi ra.

Lúc bấy giờ còn sớm, chưa có thí sinh nào nộp quyển. Chu học đạo để ý xem quyển của Phạm Tiến một lượt. Lòng không vui, nói:

- Văn chương thế này thảo nào thi không đỗ!

Rồi để ra một bên không xem nữa. Lại ngồi một lúc không có ai đến nộp quyển. Trong lòng lại nghĩ: “Tại sao ta không xem lại quyển của Phạm Tiến xem sao? Nếu có cái gì khá thì ta cũng cho đỗ để thưởng cái chí của anh ta”. Lại xem một lượt nữa từ đầu chí cuối. Lần này thấy có vài ý hay. Toan xem lại thì có một thí sinh đến nộp quyển.

Thí sinh này quỳ mà nói:

- Xin cụ cho con thi khẩu vấn.

Chu học đạo nói:

- Văn chương của anh đây cả rồi, thi khẩu vấn làm gì?

- Con thi, từ, ca, phủ đều biết, xin cụ ra đề thi.

Chu học đạo biến sắc mặt nói:

- Ngày nay thiên tử trọng văn chương, người học Hán, Đường làm gì? Là thí sinh như anh chỉ nên ra sức học văn chương. Còn các việc nhảm thì học làm gì! Ta đến đây để chấm văn, không để nói chuyện “tạp học” với các anh. Xem anh chỉ hám danh mà không vụ thực, như thế thì việc chính của anh nhất định bỏ. Bài anh toàn là nói nhảm không thể xem được. Tả hữu đâu? Đưa anh ta ra!

Y vừa nạt xong, hai bên hai người thầy tớ chạy ra như lang như sói nắm lấy thí sinh kia lôi thẳng ra ngoài cổng trường.

Tuy đã đuổi y ra rồi, Chu Tiến cũng xem qua quyển thi thì thấy y tên là Ngụy Hiếu Cổ, văn chương cũng thông thông. Chu nghĩ: “Cho nó đỗ thấp nhất cũng được đây”. Bèn cầm bút chấm một cái ở quyển thi để nhớ. Lại cầm quyển của Phạm Tiến ra xem, xem xong ngậm ngùi mà rằng:

- Văn chương này xem một lần thì không hiểu nổi, xem đến hai ba lần thì mới hiểu. Quả thật là văn chương đại tài trong thiên hạ. Quả là mỗi chữ là một hòn ngọc! Mới hay các quan chấm thi hồ đồ đã bỏ mất nhiều bậc anh tài!

Bèn cầm lấy bút khuyên lấy khuyên để, ở đầu quyển lại khuyên thêm ba khuyên nữa và cho đỗ đầu. Rồi cầm quyển của Ngụy Hiếu Cổ ra cho đứng thứ hai mươi. Xong đó xếp các quyển lại để mang đi. Đến khi treo bảng, Phạm Tiến đỗ đầu. Phạm yết kiến quan giám khảo, lại được tán dương một trận. Gọi đến tên thứ hai mươi thì Ngụy Hiếu Cổ vào. Chu lại khuyến khích mấy câu: “Đã để tâm vào cử nghiệp thì phải thôi không đọc sách nhảm”.

Hôm sau Chu Tiến lên kinh, Phạm Tiến một mình đi tiễn hơn ba mươi dặm. Chu học đạo gọi đến mà nói:

- Đầu bảng rồng sẽ về tay người lão thành. Ta xem văn chương anh vững vàng, nhất định là đỗ khoa này, khi phục mệnh xong ta đợi anh ở kinh.

Phạm Tiến lại cúi đầu bái tạ. Lúc đứng dậy thì thấy kiệu của Chu học đạo đã đi rồi. Phạm Tiến nhìn cho đến khi cờ xí đi qua núi khuất mắt không trông thấy nữa, mới trở về tính toán với chủ trọ. Nhà Phạm cách đây bốn mươi lăm dặm. Ngay đêm ấy Phạm trở về vái chào mẹ. Nhà Phạm là một cái nhà tranh có cái dại chống lên, ngoài cửa là một cái lều. Mẹ Phạm ở nhà giữa, vợ con ở ngoài mái hiên. Vợ Phạm là con gái ông lão hàng thịt họ Hồ ở trong làng.

Phạm Tiến thi đỗ về nhà, mẹ và vợ đều mừng rỡ. Đang nấu cơm thì ông già họ Hồ hàng thịt đến, tay cầm một mớ lòng và một bình rượu.

Phạm Tiến vái chào. Ngồi xong, lão hàng thịt nói:

- Ta không may gả con gái của ta cho cái thứ đói rạc như anh mấy năm nay không biết tốn bao nhiêu tiền bạc của ta. Lần này nhờ phúc đức ta anh mới thi đỗ. Vì thế ta mang rượu đến mừng đây.

Phạm Tiến vâng vâng, dạ dạ, gọi vợ đem lòng đi luộc và hâm rượu. Hai người ngồi trong lều cỏ. Bà mẹ và con dâu xuống bếp làm cơm. Lão hàng thịt lại dặn rể:

- Nay anh thi đỗ rồi, việc gì cũng phải cho ra thể ra thống đấy! Gặp người như hạng ta là hạng danh giá lại là bực cha chú, thì không làm bộ với ta làm gì. Chứ gặp cái thứ cày ruộng gánh phân, cái thứ bách tính ngu dốt kia mà anh cứ khúm khúm núm núm như thế, cứ xem bằng vai bằng vế với mình thì hỏng mất hết cả quy củ nhà trường, làm cho ta cũng mất luôn thể diện. Tính anh dễ dãi, thế nào cũng xong, nên ta phải dặn dò anh để người ta khỏi chê cười:

- Thầy nói thế là phải lắm.

Lão hàng thịt lại nói:

- Để bà cụ cùng ăn cho vui. Tội nghiệp! Bà cụ ngày nào cũng ăn có độc rau, kể cũng đáng buồn. Để con gái ta cùng ăn nữa! Từ khi nó về nhà anh, mười mấy năm nay, không biết nó đã được ăn mỡ lợn vài ba lần chưa? Thật tội nghiệp! Thật tội nghiệp!

Nói xong hai mẹ con đều lên ngồi ăn. Ăn đến khi trời xế bóng, lão hàng thịt ta ngà ngà say. Bây giờ hai mẹ con cảm tạ rối rít. Lão hàng thịt phủi áo, bê cái bụng phệ đi ra.

Hôm sau, Phạm Tiến thăm bà con. Ngụy Hiếu Cổ lại hẹn với các bạn cùng đi lại thăm lẫn nhau. Năm ấy lại là năm thi ở tỉnh nên có nhiều hội bình văn. Chẳng bao lâu tháng Sáu đã hết, các bạn đồng khoa rủ Phạm Tiến cùng đi thi hương. Phạm Tiến không có tiền đi đường chạy đến bàn với ông gia. Lão hàng thịt nhổ vào mặt Phạm, mắng cho một trận:

- Thôi! Không nên mất thì giờ nữa. Vừa mới thi đỗ tú tài anh đã như “con cóc muốn ăn thịt ngỗng trời”. Tôi nghe người ta nói anh đỗ không phải nhờ văn hay. Ông giám khảo thấy anh già thương tình cho anh đỗ thôi. Thế mà anh còn muốn thi đỗ cử nhân nữa kia! Anh có biết những người đỗ cử nhân đều là “Sao văn khúc” trên trời cả không? Không thấy gia đình họ Trương trên tỉnh sao? Họ đều nhà giàu ức vạn, mặt vuông tai lớn. Chứ cái thứ môi trề và cằm khỉ như anh sao không đái vào bùn mà soi thử xem sao? Như thế mà lại còn đòi “ăn cứt ngỗng trời” à? Thôi đi! Sang năm tôi tìm cho anh một chỗ dạy trẻ, mỗi năm vài lạng bạc đủ nuôi mụ vợ với bà mẹ đang chết dở là được rồi! Anh còn muốn tiền tôi à! Tôi mỗi ngày giết một con lợn chẳng được mấy đồng tiền, bây giờ vứt tiền cho anh ném xuống nước thì cả nhà tôi trẻ già lấy gì mà sống!

Y cứ chửi luôn miệng, làm Phạm Tiến hoảng sợ. Phạm Tiến ra về nghĩ bụng:

- Thầy ta nói văn chương đã chín. Xưa nay có ai không thi lại đỗ bao giờ. Ta không thi thì chịu sao được!

Phạm bàn bạc với mấy người bạn nhờ giúp mình tiền và đi thẳng lên tỉnh thi, không cho ông gia biết. Thi xong, Phạm trở về thì cả nhà hai ba ngày đói lăn đói lóc. Lão hàng thịt lại mắng cho một trận.

Ngày treo bảng, trong nhà không có gạo bữa sáng. Bà mẹ nói với Phạm Tiến:

- Còn có một con gà mái mẹ đấy! Mày ra chợ bán đi mua ít gạo nấu cháo mà ăn. Tao đói mờ mắt rồi.

Phạm Tiến vội ôm gà ra cổng. Vừa mới đi được vài giờ đã nghe thanh la vang rầm, ba con ngựa chạy đến, ba người nhảy xuống ngựa, buộc ngựa ở cái lều cỏ, kêu to lên:

- Mời ông Phạm ra, ông đỗ cao, chúng tôi đến mừng đây.

Bà mẹ không biết chuyện gì, nép mình trong nhà. Khi nghe rõ rằng con mình đã đỗ rồi, mới thò đầu ra nói:

- Mời các vị ngồi, con tôi vừa mới đi ra ngoài vắng.

Mấy người báo tin nói:

- À thế ra bà cụ cố.

Mọi người chạy đến xin tiền mừng. Vừa lúc đang nói chuyện ồn ào, lại thấy mấy con ngựa nữa đến. Người báo tin lần thứ hai, lần thứ ba đến, cùng nhau vào nhà. Trong nhà đầy cả người. Xóm giềng đến chen nhau xem. Bà mẹ không biết làm sao liền nhờ một người chạy đi tìm con.

Người hàng xóm kia chạy như bay ra chợ nhưng không thấy Phạm đâu cả. Chạy thẳng đến phía đông chợ, thấy Phạm Tiến đang ôm gà, nhìn ngang nhìn ngửa xem có ai mua không:

- Ông Phạm! Về ngay đi! May quá ông đỗ cử nhân rồi! Người báo hỉ đến đầy cả nhà rồi!

Phạm Tiến nghe gọi đến mình cho là đùa, giả vờ không biết, cúi đầu đi thẳng. Người hàng xóm thấy y không để ý gì, chạy lại toan giật con gà ở trong tay.

Phạm Tiến nói:

- Ông không mua lại giật gà tôi làm gì?

Người hàng xóm nói:

- Ông đỗ rồi. Tôi gọi ông về nhà để tiếp người báo hỉ.

Phạm Tiến nói:

- Ông ơi, ông biết cho rằng hôm nay tôi không có gạo, bây giờ phải bán con gà này để mà sống! Ông đừng quấy rầy nữa! Tôi không đùa với ông đâu! Ông về thôi! Đừng làm tôi không bán được gà!

Người hàng xóm thấy y không tin bèn giành lấy gà ném xuống đất, lôi y về nhà.

Người báo tin thấy Phạm Tiến bèn nói:

- May quá! Ông tân khoa đây rồi.

Họ chen đến báo với Phạm. Phạm đi thẳng vào nhà, thấy tờ báo thiếp đã treo lên trên viết: “Mừng ông Phạm huý là Tiến đã thi đỗ thứ bảy trường thi tỉnh Quảng Đông. Chúc ông lên kinh thi đỗ hoàng giáp”.

Phạm Tiến không thấy thì thôi, chứ đã nhìn thì đọc đi đọc lại rồi vỗ tay reo:

- Hay, hay quá! Ta đỗ rồi.

Nói xong y ngã lăn ra đằng sau bất tỉnh, hai răng nghiến chặt. Bà cụ hoảng hốt vội đem nước đến đổ. Y bò dậy vỗ tay reo:

- Hay! Hay thật! Ta đỗ rồi!

Rồi chạy ra ngoài làm cho mọi người đến báo hỉ hoảng hồn. Y chạy ra khỏi nhà một quãng thì trượt chân, lăn tòm xuống một cái ao. Y lại bò lên đầu tóc rối bù, hai tay bùn be bét, cả mình ướt át. Không ai giữ y được nữa, y vừa vỗ tay vừa cười, chạy thẳng ra đầu xóm. Mọi người nhìn ngơ ngác đều nói:

- Ông tân khoa mừng quá hóa điên!

Bà cụ nói:

- Làm sao lại ra thế này, hỡi trời! Đỗ được cử nhân lại mắc phải bệnh điên thế này, thì bao giờ mới khỏi!

Vợ là Hồ thị nói:

- Sáng vừa mới đi, sao giờ lại mắc bệnh như thế này! Mọi người khuyên giải:

- Bà cụ không nên hoảng sợ, nay chúng tôi sẽ cho hai người đi theo ông Phạm. Còn gà, trứng, rượu, gạo, người ta mang đến đây, thì đem ra đãi những người báo tin đi, rồi ta bàn tính sau.

Lúc bấy giờ, hàng xóm người đem trứng gà, người đem rượu, người thì mang vài đấu gạo đến. Có người mang hai con gà.

Vợ Phạm Tiến vừa khóc vừa than, đem tất cả vào bếp.

Láng giềng kéo bàn ghế đến, mời những người báo tin uống rượu. Họ bàn bạc:

- Ông ta điên rồi! Bây giờ làm thế nào?

Một người nói;

- Tôi có cách này không biết có làm được không? Mọi người hỏi:

- Cách gì?

Người báo tin nói:

- Phải có một người mà ông Phạm thường sợ nhất mới làm được. Chỉ vì ông ta vui mừng quá, đờm nó rước lên, làm cho ngất đi. Cần có người mà ông ta sợ đến tát một cái mà nói với ông ta: “Lời báo tin ấy là lừa mày đó, mày không đỗ đâu”. Ông ta nghe thế thì sợ hãi, sẽ nôn oẹ đờm ra, và như thế là sẽ tỉnh.

Mọi người đều vỗ tay nói:

- Cách đó hay! Rất hay! Người ông Phạm sợ nhất thì không ai bằng ông Hồ hàng thịt. Tốt lắm! Gọi ngay ông ta! Có lẽ ông ta chưa biết đâu, vì đang bận bán thịt ở chợ.

Lại có người nói:

- Nếu ông ta bán thịt ngoài chợ thì ông ta đã biết rồi. Từ canh năm ông ta đi xóm đông mua lợn, đến giờ chưa về. Mau mau chạy đi tìm.

Một người chạy biến đi tìm. Chạy được nửa đường thì lão hàng thịt về. Đằng sau có một người giúp việc mang bảy tám cân thịt, bốn năm ngàn đồng đến mừng. Đến cửa gặp bà cụ. Bà cụ vừa khóc vừa kể lại câu chuyện. Lão hàng thịt nói:

- Không có lẽ vô phúc thế.

Bên ngoài có người mời y ra. Y giao tiền và thịt cho con gái và chạy ra. Mọi người đem việc ấy ra bàn. Y cho là khó và nói:

- Mặc dầu ông ta là rể của tôi. Nhưng giờ ông ta đỗ cử nhân, thì đã là “sao trên trời” rồi. Tát ngôi “sao trên trời” làm sao được? Tôi nghe nói tát ngôi sao trên trời thì bị Diêm Vương đánh một trăm gậy sắt rồi giam ở dưới địa ngục tầng thứ mười tám, không bao giờ được hóa kiếp thành người nữa. Tôi không dám làm việc ấy đâu!

Một người hàng xóm mỉa mai nói khoé:

- Thôi đi ông! Ngày nào ông cũng vác dao giết lợn. Dao đâm vào thì trắng, rút ra thì đỏ. Diêm Vương đã bảo phán quan ghi không biết mấy nghìn gậy sắt rồi. Bây giờ có thêm một trăm gậy nữa cũng chẳng vào đâu? Chỉ sợ đánh gẫy hết gậy của Diêm Vương cũng chưa hết tội. Nhưng bây giờ ông cứu được ông rể quý thì có lẽ Diêm Vương sẽ tính công cho ông và kéo lên địa ngục tầng thứ mười bảy cũng chưa biết chừng?

Những người báo hỉ nói:

- Thôi đừng đùa dai nữa. Này ông! Việc phải làm như vậy đấy! Gặp lúc biến thì phải tòng quyền chứ!

Bị mọi người thúc quá lão hàng thịt đành phải nghe.

Y uống liền hai chén tống rượu để cho có gan. Bao nhiêu lo lắng mất hết, cái bộ mặt hung ác hàng ngày lộ ra, y xắn ống tay áo đầy cả mỡ và chạy ra đầu xóm. Năm sáu người chạy theo. Bà cụ chạy ra cửa nói:

- Ông ơi! Dọa thôi nhé! Chớ đánh nó đau đấy.

Hàng xóm nói:

- Đã đánh! Dặn làm quái gì!

Nói xong cũng chạy theo.

Lão hàng thịt ta ra đầu xóm thấy Phạm Tiến đang ngồi trước cửa miếu, đầu bù tóc rối, mặt be bét những bùn, giày mất đâu một chiếc, đang vỗ tay reo:

- Đỗ rồi! Đỗ rồi!

Lão hàng thịt ta chạy xổ đến như vị hung thần nói:

- Thằng súc sinh này! Mày đỗ cái gì?

Và tát vào mặt một cái. Hàng xóm nhìn nhịn cười không được.

Không ngờ lão hàng thịt tuy làm liều tát một cái nhưng đã đâm sợ rồi, bàn tay run lật bật, không dám tát cái nữa. Phạm Tiến thì bị một cái tát hết hồn, ngất đi, lăn quay ra đất. Hàng xóm chạy đến xoa lưng, bóp bụng hồi lâu mới thở và tỉnh lại. Mắt y dần dần sáng ra và y không điên nữa. Mọi người vực dậy, mượn cái ghế của ông thầy thuốc “gù lưng” làm thuốc ngoại khoa cho y ngồi. Lão hàng thịt ngồi một bên. Không ngờ bàn tay đau nhức không sao nắm lại được. Y sợ hãi nghĩ thầm: “Quả không thể tát sao ”văn khúc" trên trời thực. Nay đức phật trị mình đây."

Nghĩ thế lại càng đau thêm, bèn chạy vào nhà thầy lang lấy cao để dán.

Phạm Tiến thấy mọi người, hỏi:

- Tại sao tôi lại ở đây? Suốt nửa ngày nay tôi mê mê mẩn mẩn như người trong mộng.

Hàng xóm nói:

- Ông nghe tin đỗ cao, mừng quá, đờm nó mới bốc lên. Hồi nãy vừa oẹ đờm ra mới khỏi đấy. Thôi mời ông về nhà để cho những người báo hỉ họ đi.

Phạm Tiến nói:

- Phải. Tôi cũng nhớ rằng tôi đỗ thứ bảy.

Phạm Tiến một mặt vấn lại tóc, một mặt mượn ông lang một thau nước để rửa mặt. Một người hàng xóm đã tìm ra chiếc giày và xỏ vào chân y. Phạm Tiến thấy ông gia đến, sợ lại đến để mắng mình. Nhưng lão hàng thịt nói:

- Hiền tế ơi, không phải tôi cả gan làm thế đâu. Đó là bà cụ bảo tôi làm để giúp đấy thôi.

Một người hàng xóm nói:

- Ông ta mới “tát yêu” một cái thôi. Chốc nữa ông Phạm rửa mặt chắc phải rửa ra đến nửa chậu mỡ đấy!

Một người nói:

- Này ông! Cái tay kia thì mai không giết lợn được nữa đâu!

- Tao còn giết lợn làm quái gì nữa. Rể tao không nuôi được nửa đời tao sướng sao? Tao thường nói, ông rể của tao tài cao học rộng, lại đẹp trai hơn cả ông Trương, ông Chu. Trên thị trấn chẳng có anh nào mặt mày sánh kịp! Các anh không biết đấy, nói vô phép với các anh, chứ ta có cặp mắt tinh đời, biết người hay kẻ dở. Nhớ năm trước đây, con gái ta đã hơn ba mươi tuổi, có nhiều người nhà giàu muốn kết bạn. Nhưng ta thấy con gái ta mặt mày có phúc khí, thế nào cũng làm bà quan, hôm nay hóa ra đúng!

Nói xong cười khanh khách. Mọi người cũng cười theo. Phạm Tiến rửa mặt xong, ông lang lại bưng trà ra uống, rồi mọi người về nhà. Phạm Tiến đi trước, lão hàng thịt và hàng xóm đi sau. Ông ta thấy áo quần rể đằng sau lấm be bét, nhăn nhúm, bèn cúi xuống vuốt đi vuốt lại cho rể hàng mấy chục lượt.

Về đến nhà, lão hàng thịt nói to:

- Quan đã về rồi!

Bà cụ chạy ra đón, thấy con không điên nữa, vui mừng vô cùng. Hỏi đến mấy người báo hỉ thì bà cụ nói bà đã biếu họ mấy ngàn đồng tiền của lão hàng thịt đem đến và họ đã đi rồi. Phạm Tiến vái chào mẹ, lại vái chào ông gia. Lão hàng thịt hai ba lần từ chối nói:

- Số tiền có là bao! Không đủ cho ông thưởng người ta!

Phạm Tiến lại cảm ơn hàng xóm. Đang ngồi nói chuyện thì thấy một người quản gia sang trọng tay cầm một cái thiếp đỏ lớn chạy vào báo:

- Ông Trương đến chào ông tân khoa họ Phạm.

Nói xong, kiệu đã đến cổng. Lão hàng thịt vội vàng chạy xuống phòng con gái không dám ra. Hàng xóm cũng đều về hết.

Phạm Tiến ra cửa đón khách. Trương xuống kiệu, đầu đội mũ sa, mặc áo cổ tròn màu hoa quỳ, mang đai vàng, giày đen. Hắn xuất thân là cử nhân, đã làm tri huyện, biệt hiệu là Tĩnh Trai. Phạm Tiến mời vào trong nhà, hai người cúi đầu chào nhau rồi cùng ngồi ngang hàng theo địa vị chủ khách. Trương nói:

- Tiên sinh là người cùng huyện, nhưng xưa nay chưa có dịp quen.

Phạm Tiến nói:

- Vãn sinh mấy lâu hâm mộ tiên sinh, chỉ vì không có dịp gặp gỡ.

- Tôi xem danh sách những người thi đỗ. Phòng sư của ông là ông Thang, Tri huyện Cao Yếu, tức là học trò của tổ phụ tôi. Vì vậy ông là anh em thân thiết với tôi.

- Vãn sinh may mắn mà đỗ được, thực lấy làm hổ thẹn. Nhưng rất hân hạnh được làm môn sinh lão tiên sinh.

Trương nhìn bốn phía nói:

- Tiên sinh quả thực “gia thế thanh bần”.

Bèn lấy ở người tùy tòng ra một gói bạc mà nói:

- Đệ không có gì để tỏ lòng kính trọng, nay có năm mươi lạng bạc, xin tiên sinh tạm nhận. Cái nhà này thực ra không đủ ở, sau này còn khách khứa, coi rất không tiện. Đệ có một cái nhà ở đường lớn cửa Đông, nhà làm kiểu chữ “tam”, tuy không được cao rộng nhưng cũng sạch sẽ, mời tiên sinh đến đấy để tiện sớm hôm thỉnh giáo.

Phạm Tiến hai ba lần từ chối. Trương lại cứ nài ép, nói:

- Chúng ta thân với nhau như anh em ruột thịt. Tiên sinh làm thế cho như tôi là người xa lạ.

Phạm Tiến mới nhận bạc bái tạ. Nói chuyện một lát, khách ra về. Lão hàng thịt đợi Trương đã lên kiệu xong mới ra nhà khách.

Phạm Tiến giao bạc cho vợ mở xem, toàn là bạc trắng xóa có dấu ấn rõ ràng, bèn gói hai đĩnh và mời ông hàng thịt họ Hồ ra:

- Khi nãy thầy có lòng đem năm ngàn đồng tiền đến. Đây có sáu lạng bạc, xin thầy cầm cho con.

Lão hàng thịt cầm bạc nắm chặt trong tay, nhưng lại đưa ra nói:

- Cái này thì anh cầm lấy. Tôi đem tiền đến mừng, lại lấy tiền anh về thì sao nên?

- Con hiện nay còn mấy lạng bạc nữa. Khi tiêu hết lại sẽ đến xin thầy.

Lão hàng thịt liền co tay về giắt bạc vào lưng, miệng nói:

- Thôi được. Anh bạn bè với cụ Trương, thiếu gì tiền? Nhà ông ta tiền bạc còn nhiều hơn nhà vua kia! Nhà ông ta là nhà chủ mua thịt của tôi đấy. Một năm vô sự ra cũng dùng hết bốn năm nghìn cân. Bạc đối với họ thì nghĩa lý gì!

Lại quay lại nói với con gái:

- Sáng nay tao đem tiền đến, thì cái thằng anh chết tiệt của mày không cho. Tao nói: “Nhà ông ta giờ khác xưa. Chẳng thiếu gì người mang tiền đến cho ông ta dùng. Chỉ sợ ông ta không nhận tiền của ta mà thôi”. Nay quả thế thật! Ta đem số tiền này về mắng cho cái thằng chết tiệt kia một trận.

Nói xong, từ tạ rối rít, cúi cổ, cười, về nhà.

[còn nữa]

Added (25 Aug 2011, 12:33 PM)
---------------------------------------------
* * *

Từ đấy về sau, quả nhiên có nhiều người đến cung phụng Phạm Tiến. Người thì biếu ruộng vườn, kẻ thì biếu nhà cửa. Lại có người nghèo đến xin làm tôi tớ mong nhờ che chở. Hai ba tháng sau, trong nhà Phạm Tiến đầy tớ trai, đầy tớ gái, tiền bạc, gạo thóc đều không thiếu thứ gì.

Trương lại đến giục dọn nhà. Sau khi tới ở nhà mới, suốt ba ngày liền tiệc tùng hát xướng, mời khách. Đến ngày thứ tư bà mẹ Phạm Tiến điểm tâm xong, đi vào phòng thứ ba thấy Hồ thị vợ Phạm Tiến trên đầu cài cái trâm bằng bạc. Mặc dầu vào giữa tháng mười trời còn ấm, nhưng đã mang áo đoạn xanh, quần đoạn lục, đốc thúc gia nhân, tôi tớ, a hoàn lau chùi bát đũa. Bà cụ nói:

- Này phải cẩn thận đấy. Đó là đồ đạc của người ta, chớ có làm hỏng!

Gia nhân trả lời:

- Thưa cụ, đây không phải của ai đâu, chính là của cụ đấy!

Bà cụ cười:

- Nhà ta làm sao có được tất cả những cái này?

- Sao lại không? Không phải chỉ những cái này thôi đâu. Cả những người này và cả cái nhà này cũng đều là của cụ cả.

Bà cụ nghe xong, cầm những bát sứ, những mâm, chén khảm bạc xem kĩ càng một lượt, rồi cười vang:

- Của ta cả rồi!

Cười xong, ngã lăn ra, đờm lên cổ, bất tỉnh. Lúc bấy giờ làm cho:

Cử nhân thi hội, biến thành người khách xoay tiền.

Cống sinh nhiều tiền, lại khiến lắm người gây kiện.

Muốn biết bà cụ tính mạng thế nào hãy xem hồi sau phân giải.

[còn nữa]

 
atoanmt Date: Thứ Sáu, 26 Aug 2011, 10:05 AM | Message # 2
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 5081
Status: Tạm vắng


AToanMT
 
FORUM » TRANG VĂN THƠ » TRUYỆN ĐÔNG-PHƯƠNG » Tập tục sinh hoạt làng xã, thi cử, quan trường.
  • Page 1 of 1
  • 1
Search:


TỰ-ĐIỂN TRỰC-TUYẾN :

Từ Điển Online
Bấm vào dấu V để chọn loại Tự-Điển
Gõ Chữ muốn tìm vào khung trắng dưới đây:
Xong bấm GO