Thứ Năm
28 Mar 2024
1:59 PM
ĐĂNG NHẬP


Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

[ BÀI VIẾT MỚI · Forum rules · TÌM KIẾM · RSS ]
  • Page 1 of 1
  • 1
FORUM » TRUYỆN HUYỀN HỌC » TRUYỆN TÔN GIÁO » Hồi - Dương Nhơn Quả và Ngọc Lịch Minh Kinh (Của Giang-Triều - Viễn)
Hồi - Dương Nhơn Quả và Ngọc Lịch Minh Kinh
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 06 Apr 2012, 5:55 PM | Message # 1
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Hồi - Dương Nhơn Quả và Ngọc Lịch Minh Kinh
Ấn Tống - Phật Lịch 2540 - 1996

Tựa

Của Giang-Triều - Viễn khắc bản lần thứ nhì


Xưa nay, làm lành thì đặng phước, dữ ác thì mắc họa, nhơn-quả báo-ứng rõ ràng, và đủ bằng chứng . Còn có lời nguyện là vái-van thì phải huờn nguyện là trả lễ . Còn lời nguyện tôi lấy làm tệ quá ! là nguyên năm Kỉ - Vì , trào Thanh vua Gia-Khánh, tôi dạy học tại đất Tam-tấn, hai lần phát nguyện in sáu ngàn bộ Như-ý-lục là sách khuyến -thiện, mà cho người; vái nội mười năm in cho đủ số . Ba năm khắc mới rồi bản Như-ý -lục tại kính -kỳ, hụt tiền nên in mới năm trăm bộ ! Thảng - mảng đã đến mười năm, té ra trả tiền lễ chưa đủ, mà cha tôi qua đời ! Tôi ăn năn buồn rầu, vì cầu thọ cho cha không hết lòng, nên sống không đặng lâu dài, mà còn mắc nợ lời vái.

Qua tháng mười một năm Giáp-Thìn, tôi đến kinh-đô nữa, vào chùa Dao-nhiên, lại cầu đức Văn-Xương-Đế -quân cho nán năm năm nữa, sẽ in đủ số sách mà chuộc tội (Cái sự nguyện in thiên-thơ mà cầu việc chi, đã có nói trong tựa sách Như-ý -lục, ấy là nguyện vái cầu thọ cho cha sống lâu).

Qua năm sau là năm Kỉ-Vì, in thêm một ngàn bộ . Song sợ lòng xao lãng theo luật Công-quá -cách, và hay xem lời khuyên đời các tính trung hiếu, đều rút biên thêm sau cuốn Như-ý-lục , mùa thu khắc thêm rồi . Nay là năm Bính thân, in thêm một ngàn bộ nữa . Lúc nầy tôi dạy tại sông Thiên giang; tiền tuy ít, mà không dám bê trễ . Khi ấy xảy gặp thầy Cố - tình -Nhai là ngươi in kinh, nói chuyện cuốn Hồi -dương Nhơn quả, đưa cho tôi xem, coi kỹ lời nói việc lành việc dữ rành rẽ, bắt rùng mình, rởn óc, sợ run! Thầm xét sách của bậc thánh hiền, luật của tiên, kinh của Phật, là lời dạy của tam giáo (ba đạo) đều khuyên người chừa dữ làm lành. Nhưng mà cuốn Hồi dương nhơn-quả nầy người xem nghe càng dễ hiểu, đủ tin: nên các kinh khuyến thiện cho kinh nầy là đường tắt hơn hết . Nghĩ như vậy, tôi chia số tiền ấy, phân nửa in Như ý lục có phụ thêm, còn phân nửa khắc bản Hồi dương nhơn quả in cho đời, mới rồi lời vái trước .

(Như vậy lời tựa nầy, là lần khắc bản nhì).

TỰA

Khắc bản Hồi Dương Nhơn Quả lần thứ ba

Dương-gian âm-phủ thưởng phạt cùng một lý không khác . Người trí thì hiểu, kẻ dốt không thông . Nay hỏi thử kẻ không thông học như vầy : "Lời xưa nói : Việc Âm-phủ chẳng nên tin tron, song cũng phải tin. Như vậy, tin tại lỗ tai hay tin tại con mắt ?" Chắc trả lời rằng : "Tai nghe có lý cũng tin, mà sao bằng mắt thấy ".

Huyện Kim Khê, có chàng họ Lý tên Hạo-Chiêm, tự Chung-Tú, thuật chuyện chàng họ Giang tên Triều -Viễn, tự Giác Phi ở huyện Bạch - Hà, khắc thêm bản kinh Hồi-dương nhơn-quả, là khắc lần thứ nhì, do theo bản của Lâm-Tự-Kỳ . Nguyên tích Lâm-Tự-Kỳ ở huyện Hiếu -cảm, tỉnh Hồ-Bắc, bị quỉ Vô-thường lầm bắt hồn xuống âm-phủ, thấy vua Nhứt-Điện với các phán-quan xử nhiều án . Sau sống lại nhớ chừng, chép làm một tập, có vẽ hình vua Minh vương với Phán -quan xử các tội hồn và quỉ sứ hành hình, thích nghĩa minh bạch âm-luận rõ ràng . Rồi rủ đông người chung đậu, mướn khắc bản in cho thiên hạ phỏng vài ngàn cuốn (Như vây, Lậm-Tự-Kỳ khắc bản là lần thứ nhứt ).

Khi ấy tại chợ Kiến-khê, có người bằng hữu đặng một bổn, muốn khắc bản, dùng tại xứ minh cho gần, vì Hồ-Bắc với huyện Bạch-Hạ đều xa cả . Chàng Lý-Chung-Tú cũng ở về quận Kiến-Khê khen ngợi lắm, khuyên rủ các vị háo thiện hay làm phước bố thí, đậu bạc khắc bản lần thứ ba, xin tôi đặt lời tựa, để in trước mặt kinh . Tôi nói : "Ai cũng muốn làm lành như mình . Nếu lấy sự tai nghe mà khuyên người hồi tâm, sửa lòng làm lành chừa dữ . Sao bằng lấy sự mắt thấy khuyên người, chắc ý tin thiệt chừa lỗi làm lành . Bởi vì tin chắc có kẻ thác đi sống lại, thấy việc âm phủ xử đoán mà thuật chuyện, dương-gian âm-phủ tuy cách nhau, mà thưởng lành phạt dữ cùng một lý không khác . Ta còn nói điều chi nữa ? "

Trào Thanh niên hiệu vua Đạo Quang năm thứ tám, năm Mậu-Tý, nửa tháng tư, quận Kiến khê Trương-Hữu-Thiện rửa tay kính đề tựa nầy, tại Minh-Châu-Đường .

Nay ông Lê-Nghiêm-Kỉnh với Thôn-Cựu-Giác, Cô-Thành-Đức cậy dịch . Hồi-dương nhơn-quả, còn tôi tín nguyện dịch thêm Ngọc Lịch .

Thơ rằng :

Trần Lê lo dịch tích Hồi dương,
Phong nầm nghe kinh hiểu chán chường,
Sắc chỉ Minh-Vương phân xử thẳng,
Làm gương mấy án thế xem tường .


HỒI DƯƠNG NHƠN QUẢ
SỰ TÍCH LÂM TỰ KỲ
BỊ QUỶ BẮT LẦM , SỐNG LẠI THUẬT CHUYỆN ÂM PHỦ
VUA NHỨT ĐIỆN XỬ 43 ÁN , NHỜ UỐNG PHÁT HUỆ MỚI NHỚ


Trong tỉnh Hồ Quảng có huyện Hiếu Cảm , tại làng Lê Thọ có một người học nho , họ Lâm tên Tự Kỳ , thuở nay ăn chay cữ sát sanh , hôm mai thường tung kinh Kim Cang , song không hiểu nghĩa lý trong kinh cho hết . Tánh ở công bình hiền hậu . Xóm làng đều kính trọng người.

Nhằm bữa mồng hai tháng ba , năm Mậu-ngũ , trào vua Gia-Khánh , Lâm Tự Kỳ dậy sớm thắp hương cúng lạy . Xảy đâu mấy con quỉ vật Tự Kỳ mà bắt hồn dẫn đi ; đem đến miểu ông Địa sở tại xem xét rồi . Qua bữa sau giải tới miểu Thành Hoàng ( là ông thần đình sở tại ) xem xét nữa , nội ngày ấy giải đến đền vua Tây Nhạc , là chỗ hội các hồn mới chết , phỏng là ba bốn trăm hồn , vua Tây Nhạc phê nhận các tờ rồi giải qua Đô-thống-ti xử đoán . Bữa thứ ba mới tới Đô thống ti đủ mặt Lâm Tự Kỳ , thấy các hổn đều mang gông xiếng áo quần rách rưới . Quỉ xứ lùa hết vào dinh Chưỡng án phán quan ( ông phán quan coi các án ) mà phát đính bài mỗi hồn , đeo trên cổ , có đề phạm những tội gì . Tới phiên kêu tên Lăng Sỉ Kỳ ở làng Lý Thọ , huyện Hiếu Cảm đeo đính bài bốn chữ " ác phạm ngưu đồ " ( nghĩa là tên tội phạm hàng trâu ) , quĩ dẫn hồn Lâm Tự Kỳ vào hầu tra . Phán quan xem thấy trên đầu Lâm Tự Kỳ có chiếu hào quang nhấp nháng . Phán quan hỏi : " Người làm hàng bấy lâu , giết bao nhiêu trâu ? " . Tự Kỳ bẩm rằng : " Mô Phật tôi thuở nay không giết trâu nào hết . Phán quan nói : ngươi không giết trâu sao đeo đính bài , trên tên họ ngươi có bốn chữ " ác phạm ngưu đồ ? " . Mà ngươi phải ở làng Lý Thọ chăng ? " . Tự Kỳ bẩm : " Tôi ở làng Lê Thọ , chớ không phải làng Lý Thọ " . Phán quan hỏi : " Ngươi mấy mươi tuổi ? " . Bẩm rằng : " Tôi đã bốn mươi mốt tuổi . " Hỏi : " Sanh tháng ngày giờ nào ? " Bẩm : " Sanh nhằm giờ Thìn , mồng ba tháng giêng . " Phán quan tra bộ rồi nói : Lâm Tự Kỳ ở làng Lê Thọ số tới 78 tuổi , cớ nào bắt tới làm chi ! Vả lại : họ tên trong bộ tuy trùng tiếng trên đính bài , mà chữ không trùng , tên làng cũng đồng âm mà bất đồng tự . Huống chi chi ngày sanh tháng đẻ khác nhau . Nhà ngươi là Lâm Tự Kỳ ở làng Lê Thọ , còn ta sai bắt tên hàng trâu là Lăng Sỉ Kỳ ở làng Lý Thọ kìa . Bởi nó mới 36 tuổi , làm hàng giết trâu chó phỏng vài trăm con . Hỡi còn tội khác kể không xiết , nên đáng đoạ tam đồ , là hành hình ba cách : trấn nước , đốt nấu dầu , đâm chém bằm xắt , kêu là thuỷ đồ , hoả đồ , đao đồ . Còn ngươi có chiếu hào quang trên đầu , chắc là ngươi làm lành tụng kinh kệ . " Bẩm rằng : " Tôi thuở nay không làm điều chi lành lắm , song chẳng dám làm việc dữ . Từ mười bảy tuổi ăn chay , đến nay đã hai mươi mấy năm , thường ngày dầu mắc việc chi gấp lắm , cũng lo tụng cho rồi một cuốn kinh Kim Cang , và niệm Di Đà vài trăm câu , rồi mới làm công việc . " Phán quan nói : " Như vậy thì là người lành : quỉ xứ bắt lầm một người thường cũng có tội , huống chi là người lành ! Vả lại Thổ địa sở tại , với các vị thần xem xét đều sơ lầm , cũng có lỗi nữa , việc nầy quan hệ , chẳng phải nhỏ đâu ! Vậy thời thiện-nhơn hãy ngồi đỡ mái tây , đợi tôi tâu cho vua hay , rồi sẽ đưa về dương thế ." ( Nghĩa là hườn hồn sống lại ) . Xảy có hai người đồng tử mặc áo xanh dắt hồn Tự Kỳ đến nhà khách mái tây . Thấy trên tấm biển đề bốn chữ " Tây Phương chú tiết " : ( Nghĩa là chỗ ở tạm mà đợi rước về Tây phương cho rõ ràng tiết nghĩa ) , lại có đối liễn cột cái như vậy :

Đại trượng phu , thủ bất khai sanh tử lộ .
Kỳ nam tử , song mi số phá lợi danh quan .


THÍCH NÔM : Đứng bực trượng phu chí cả , thông hiểu sự sống làm thì thác có báo ứng vầ phần hồn , nên không dám làm dữ , mà lại làm lành nhờ thần sau . Còn nam nhi cao kỳ thông thái ấy , sự danh lợi thì mất đức hạnh nên không lòng tham danh lợi , lo tu nhơn tích đức cho phần hồn .

Khi ấy , Tự Kỳ vào trong nhà khách , thấy có ba người ; một gái , hai trai , đều ăn mặc theo đạo sĩ ( thầy pháp tàu ) tay cầm xâu chuỗi lần , đồng đứng dậy , chắp tay mời ngồi . Đồng tử nói : " Thiện sĩ ngồi chờ một chút , đợi vua ngự sẽ vời " . Giây phút nghe ba tiếng trôngmở cửa đền . Đồng tử đến vời Tự Kỳ đến cửa đền , thấy trên cửa ngõ có treo tấm biển ngang , đề mười một chữ :

Kinh châu đẳng xứ sanh hồn thiện ác đô thống ti.

NGHĨA LÀ : Sở đô thống ti coi xử hồn dữ lành Kinh châu .

Cửa ngõ đề đôi liễng rằng :

Âm dương bổn vô dị lý . Cảm ứng xát hữu minh trưng.

NÔM : Âm dương vốn không khác lý . Cảm ứng thiệt có quả tang .

Đối liễng trên cột như vầy :

Gian hùng đáo thử , năng bất tâm hàn .
Thiện sĩ lâm tư , tự nhiên khí tráng .


NÔM :Gian hùng đến đó sao khỏi lòng nao .
Lương thiện vào đây tự nhiên hơi khoẻ .

Vảo cửa trong , thấy treo tấm biển bốn chữ .

Phước thiện hạo dâm .

NGHĨA LÀ :Thưởng người lương thiện , phạt tội tà dâm .

Và đôi liễng như vầy :

Nghiệt cảnh phân minh xảo kế thiên ban nam tế yểm .
Dạ đài thê sở công hầu cực phẩm bất tương nhiên .


NÔM : Gông báu sáng loà , xảo kế nhiều bề không thể giấu .
Để cầm thảm khổ , công hầu tột bực chẳng hề dung .

Đôi liễng nữa rằng :

Thiên đường hữu lộ chi tu ốc lậu đổ thanh nhiên .
Địa ngục vô nôm chỉ vị thốn tâm da ám địa .


NÔM :Thiên đường có nẻo thẳng , cho hay nhà kín thấy trời xanh .
Địa ngục không ngõ ra , cũng bởi tấc lòng theo đất tối .

NGHĨA LÀ : Trong nhà kín nhà tối , coi như ban ngày , không dám làm quấy thì đặng lên Thiên đường . Nếu không lòng tối tăm , hay tính mưu thầm kế trộm , cơ xão độc ác , thì sa địa ngục .

Vào tới đơn trì ( sân sơn son ) , trên treo bốn biểu chữ Tam vô tư đường ( nhà ba đều không tư ) .

Kinh Lễ Ký nói : Thiên vô tư phúc , địa vô tư tải , nhựt nguyệt vô tư chiếu . Nghĩa là : Trời không che riêng , đất không chỗ riêng , nhựt nguyệt không chiếu riêng ).

Đôi liễng như vầy :

Sanh bình nhứt vị hồ hành , kham thán tín tâm bất cập tảo .
Kim nhựt thiên ban thọ khổ , cự tư hồi thủ khước hiềm trì .


NÔM : Bấy lâu một thói làm hồ , tiếc nhẻ lòng tin khôn kịp sớm .
Thuở nay nhiều bề chịu khổ , thương ôi dạ tũi khiến ra chầy !

Trông xa , đôi liễng trên cột như vầy :

Đối Quỉ sát , Dạ xa , mạc quái đương tiền nhan diệc ác .
Thượng đao sơn , kím thọ , phương trì tích nhựt niệm đầu sai .
( Kím thọ là cây có buộc gươm trên nhánh nhiều quăng tội lên ) .

NÔM : Ngó Quỉ xứ Dạ xa , chớ trách cõi nầy nhiều mặt dữ .
Lên đào sang , kím thọ mới hay thuở trước tấc lòng sai .

Trên cao có treo tấm biển bốn chữ :

Thưởng khách hình oai . ( Thưởng người lành , phạt kẻ oai dữ ) .

Phía Đông treo tấm biễn bảy chữ :

Tân thiết vô gian Tăng nho ngục .

NGHĨA LÀ : Mới lập thêm địa ngục hành không hở , là hành rồi cách nầy , dạy hành cách khác , để trị tội sãi tu giả , sĩ hại đời .

Đôi liễng dài hai bên như vầy :

Thọ Bồ tát giái âm tá môn không ngu kì , vương pháp nhiêu Phật , pháp bất nhiêu .
Độc Thánh hiền thơ phản tương nho thuật sát nhơn thê vỏng lậu , thiên vỏng bất lậu .


THÍCH NÔM : Đọc kinh Bồ tát thầm ẩn chùa chiên dối thế , phép vua dung phép Phật chẳng dung .
Học sách Thánh hiền , dám đem chữ nghĩa hại người , lưới đời lọt , lưới trời không lọt .

Ấy là hành tội sãi tu dối , và kẻ học hay đặt đơn hại người ).

Thuở ấy , các hồn đều quì dưới thềm . Phán quan thâu giấy tờ tâu rành sự bắt lầm v.v... Tần Quảng vương xem rồi , phán rằng : " Người nầy quả thiệt hiền lành , lại ăn chay tụng kinh , vả lại chưa tới số , đáng cho hườn hồn . Còn 4 quỉ Dạ xa bắt lầm , xử trượng mỗi tên tám chục roi , rồi giam lại sẽ kêu án . Lỗi Thổ Địa tại làng chỉ đi bắt lầm , ta cũng dâng sớ cho Ngọc Hoàng đế phạt tội . Rồi phán hõi Tự Kỳ rằng : " Người bấy lâu tụng Kinh chi ? " . Tự Kỳ tâu : " Tụng kinh Kim Cang " . Phán : Hay lắm ! Mà tụng bao nhiêu cuốn ? ". Tâu : " Tôi không nhớ , song tôi ăn chay hăm mấy năm , còn tụng kinh mới 7 năm . " Vua truyền Phán quan tra coi tụng đặng bao nhiêu cuốn . Phán quan giở bộ đếm cọng đặng 3503 cuốn . Phán rằng : " Số ngươi còn nhiều , ước tụng cũng dư một tạng ( một tạng là 5848 cuốn ) . Mà ngươi có rõ nghĩa lý trong kinh chăng ? Tâu : " Tôi khong hiểu cho hết . " Phán : " Nếu hiểu nghĩa kinh mà ở theo , và khuyên người nữa , thì công đức lường không xiết . Chớ như tụng không , thì công đức mười phần , đặng có ba phần . " . Tự Kỳ tâu : " Mướn người tụng kinh thế cho mình có đặng phước chăng ? " . Phán : " Mướn người tụng mười phần , đặng một phần phước . Nhưng mà còn hơn kẻ không tụng . Khi trước người tụng kinh Kim Cang , chưa khỏi sai siển . Lúc đương tụng trong lòng không thanh tịnh hoăc nhớ mấy việc nầy việc kia . Ấy là miệng tụng láy có , mười phầm được phước không đặng hai ba phần . Vậy từ rày sắp sau phải rán sức suy cho thông nghĩa lý , miệng niệm , lòng tưởng . Gặp ai cũng giảng bốn câu kệ trong kinh Kim Cang , thì mới có trông về Tây phương đặng ." Phán quan tâu : " Người nầy cách thế gian đã năm ngày , trái tim phải lạnh , chắc trong nhà liệm rồi , e khó sống lại . Nếu Ngọc đế tra ra , ắt không tiện lắm . Xin vương gia cho hườn hồn lập tức ." Vua phán rằng : " Không hề chi . Ngày mồng 2 , 12 , 22 , ngày mồng 5 , rằm , 25 , mồng tám , 18 , 28 đều là ngày lệ xử các phạm hồn tại đây . Nay là ngày số 8 ( mồng 8 ) cũng nhằm kỳ sữ . Ta thấy người đời không tin nhơn quả báo ứng , dễ khinh lời thánh , chê bai Tam Bảo ( là Phật , Pháp , Tăng : Phật , kinh luật thầy tu ), các tội ấy rất nhiều . Nay cầm thiện sĩ một ngày , xem ta xử đoan lành dữ , nữa sống lại , thuật chuyện cho người đời nghe . Mau cho thiện sĩ uống một hườn thuốc Noản Tâm nầy thì trái tim ấm tới bảy ngày ." Rối phán rằng : " Phàm các hồn đến cửa nhứt nầy , quá bảy ngày mới giải qua chín vua Thập điện , thì sống lại không đặng . " Tự Kỳ tâu : " Vì cớ nào mái tây có nhà khách gọi là : Tây phương chú tiết , người phàm đến đó đặng chăng ? " . Vua phán : " Không phải đến đặng . Phàm người thác , đem hồn tới vua Tây Nhạc xem xét , phê rối mới giải đến đây . Trẩm xét rõ đáng luân hồi mới phê vào tờ , rồi gởi qua vua Đông Nhạc xem rõ mới phát một tờ cho đi đầu thai , hồn ấy mới đặng đầu thai . Còn trừ ra ai trọn lành không dữ , hoặc ăn chay tụng kinh chơn tu , thì trẩm không phép xử đoán , nên cho ở tạm mái tây , đợi trẫm viết điệp triệu Kim đồng Ngọc nữ , đem tàng phương báu , rước hồn lên Thiên đường . Tâu : " Sao gọi là Thiên đường ? " . Phán : " Cõi thiên đường sáng láng rộng ngay . Nếu lòng ai sáng láng , ở rộng rãi ngay thẳng , thì hồn lên Thiên đường ." Tâu : " Còn địa ngục thế nào ? " . Phán : " Chốn địa ngục thấp dơn đen tối . nếu ai lòng ở hèn hạ , nhơ nhớp , xấu xa , mê muội , thì hồn sa địa ngục " . Tâu : " Những hồn lên Thiên đường hoặc sa địa ngục có luân hồi ( đầu thai ) chăng ? " Phán : " Đã lên thiên đường , hoặc sa địa ngục , đâu còn đầu thai , song cũng có khi chưa đứng bực cũng còn đầu thai nữa " . Tâu : " Như vậy bực nào phải luân hồi ? " . Phán : " Trong một ngàn người , may một hai người lên Thiên đường . Còn ngàn người phỏng vài trăm người bị cầm địa ngục , . Còn bao nhiêu (800) đều luân hồi hết . Bởi vì ai trọn lành không phạm một điều dữ , mới đặng lên Thiên đường . Nếu ai trọn dữ , không làm một điều lành , mới bị cầm địa ngục . Còn ai không lành không dữ , hoặc nữ lành nửa dữ đều phải đầu thai . " Tâu : " Hoặc kẻ trước làm lành , sau làm dữ , hoặc người trước làm dữ sau làm lành , có kẻ dữ nhiều lành ít , kẻ thì dữ ít lành nhiều , vương gia mới xử làm sao ? " Phán : " Trước làm lành , sau sanh dữ , thì ghi dữ , chẳng ghi lành . Trước làm dữ , sau chừa lỗi làm lành , thì ghi lành , chẳng ghi dữ . Còn dữ nhiều lành ít , đem lành trừ dữ , còn dư bao nhiêu dữ , thì hành mà trả họa . Dữ ít lành nhiều , thì đem dữ trừ lành , còn dư bao nhiêu lành thì trả phước . " Tâu : " Nếu ghi dữ chẳng ghi lành , thì những kẻ trước làm lành , sau làm dữ cũng như trọn dữ một thứ . Còn ghi lành chẳng ghi dữ , thì những kẻ trước làm dử sau làm lành , cũng như người trọn lành một thế , không phải chẳng chia nặng nhẹ sao ? " Phán : " Chẳng phải nói như vậy ! Bởi người làm lành chẳng trọn , thì Ngọc Đế ghét lắm , cho nên ghi dữ , chẳng ghi lành , song không phải chẳng kể sự lành của nó đâu , nhưng tính giảm hết phân nửa việc lành . Còn kẻ ăn năn chừa lỗi , thì Ngọc Đế thương lắm , nên ghi lành chẳng ghi dữ , song chẳng phải không ghi dữ một chút nào , nhưng mà giảm phân nửa việc dữ . " Tâu : " Tôi thường thấy người làm lành mà bị nghèo nàn . Còn kẻ dữ lại đặng giàu sang . Trời báo ứng không rõ ràng , nên hiểu chẳng thấu ! " . Phán : " Người lành mắc hoạ , e mặt lành mà lòng chẳng lành . Kẻ dữ mà đặng phước , e mặt dữ mà torng lòng không dữ . Thượng đế trong thiệt tình , chớ không cần sự làm mặt bề ngoài . Bởi làm mặt bề ngoài thì dối người đặng , chớ lòng dối trời sao đặng . Xưa nay quả báo chắc không lầm . Song việc nhơn quả báo ứng có nhiều cách . Có khi dữ lành kiếp trước mới trả đời nay . Lành dữ đời nầy , kiếp sau mới trả . Hoặc đời nào trả theo đời ấy , có khi mới làm lành mà dữ trả lập tức nhãn tiền . Còn như người nói : " Dữ đặng phước , lành mắc hoạ " . Là bởi lâm lành , làm dữ đời nay chưa bao nhiêu mà mắc trả lành lớn dữ lớn , kiếp trước chưa rồi , làm sao người hiểu thấu . Bởi vì trả kiếp trước của chúng nó , lành cho hưởng phước , dữ cho mắc hoạ , cho dứt nợ kiếp trước . Rồi mới xét lành dữ đời nay thiệt giả , nhiều ít , lớn nhỏ , trừ cấn , hoặc trả lại đời nay , hoặc để dành kiếp sau hoặc trả cho con cháu nó . Việc báo ứng theo luật âm , hoặc sớm muộn , hoăc kín đáo , hoặc rõ ràng ; chắc không sai một mảy . Cái ý nhiệm mầu , người biết sao thấu ? " Tâu : " Sao gọi là đời nay mà chịu trả nhơn quả kiếp trước ? " Phán : " Như con nít mà bị té sông , lửa cháy , bị đâm chém , bị tật bịnh , hoặc cọp ăn , rắn cắn , ngựa đạp , xe cán , trâu báng , hoặc các việc rủi ro v.v... thì đời nay nó đã biết làm điều chi dữ đâu , mà bị trả hoạ , là vì trả hoạ kiếp trước . Lại còn học trò mới đôi mươi , mà đi thi đỗ , hoặc là con dòng mà đặng thế chức , hoăc hưởng tổ ấm , phụ ấm , hoặc các việc may mắn thinh không , v.v... thì đời nay tuy chưa làm lành , mà đặng hưởng phước , ấy là trả lành kiếp trước . Coi đó mà suy , thì hiểu lành mà mắc hoạ , dữ mà đặng phước là tại cớ ấy . " Tâu : " Nếu người lành lên Thiên đường hết , cũng không luân hồi , thì trong đám đầu thai chẳng là không có người lành sao ? Còn kẻ dữ đều cầm địa ngục , cũng không luân hồi , thì trong đám đầu thai không có kẻ dữ rồi ! " . Phán : " Người lành cũng có khi luân hồi một hai , là vì mười phần lành , còn chưa trọn lành một phần , thì cũng cho đầu thai xuống cõi trần chịu cực một phen , cũng như tu thêm cho trọn lành , rồi mới được về Thiên đường , ấy là trời lấy lòng tốt mà bó buộc người lành đó . Còn kẻ dữ có khi một đôi người đặng luôn hồi , là vì mười phần dữ chưa trọn , nên cùng dung chế , cũng cho luân hồi , chịu cực trăm bề , hành phạt một phen cho đến thế , làm cho biết ăn năn chửa lỗi , ấy cũng nhơn từ của Thượng đế như lòng mẹ thương con không nỡ giết đứa dữ . " Tâu : " Bắt người lành đi đầu thai , thì người lành khổ lắm , ! Còn kẻ dữ cũng được đầu thai , thì kẻ dữ rất may chăng ? Sao trời không phân biệt ? " Phán : " Không phải vậy đâu ! Cho người lành đầu thai hưởng giàu sang vinh hiển , là Thiên đường tại đời , sao gọi chịu khổ ? Còn cho kẻ dữ đầu thai , chịu khó hèn , tai nạn , cũng như địa ngục tại dương gian , sao gọi rất may ? Huống chi người lành hưởng cảnh thuận , nếu tu nhơn tích đức thêm , thì lên Thiên đường . Nếu hưởng phước giàu sang mà làm dữ quá , trừ hết phước dư tội thì cũng không siêu được . Nếu kẻ dữ bị cảnh nghịch tai nạn mà biết ăn năn vì lỗi trước , lo tu đền tội , thì cũng hết khổ , bằng không tu thì đoạ địa ngục Đả ưng , hết trông đầu thai nữa . Coi đó thì đủ biết sự hoạ phước tuy là trời định , song lòng người lành dữ cũng đổi dời , việc may rủi tuy ở số phần , mà lòng ngưởi ở dữ lành cũng đổi số mạng . Cho nên hoạ phước số mạng không chắc gì , do tại làm lành làm dữ mà đổi dời hoài . " Tâu : " Như vậy Thiên đường Địa ngục siêu-đoạ là tại lòng người muốn tự do làm chủ .Nếu tôi là người không làm chủ cái tâm tôi , ấy là : Thiên đường nọ , có đàng chẳng bước ; Địa ngục kia không cửa lại tìm ! . Phán : " Phải , xét lại người là người sẽ lên Thiên đường , nên lòng mau tỉnh như vậy . " Nói chuyện dứt rồi , Phán quan tâu : " Các phạm hồn tựu đủ hầu tra . " Vua xem lời phê của vua Tây Nhạc rằng : " Bọn Từ Húc , cộng 752 hồn , đang đầu thai . " Vua đều phê cho chúng nó được giải qua vua Đông Nhạc lãnh tờ đầu thai hưởng phước . Coi qua lời phê trọn lành ba hồn được siêu , kể ra sau nầy :

1)Một nàng thiên nữ là Liễu thị , chí hiếu với mẹ chồng nuôi con đau cực khổ , lại hay bố thí , cho kẻ tù ăn : xuất tiền sửa cầu đắp đường , làm nhiều việc lành , không nói một lời tổn đức , chẳng làm một điều chi hung dữ . Lại ăn thâp trai đã mười năm và hay tụng kinh Phổ Môn nữa .

2)Một tên thiện dân là Dương Thăng , thảo cha mẹ , thương anh em chị em , cung kính kẻ lớn , ở nhơn từ rộng rãi , hay thương người . Không ănn gian một đồng tiền , chẳng tham lam ngân lượng bạc . Cứu người ngặt nghèo , giúp người gấp rút . Vài trăm người nhờ ơn giúp giùm , mấy chục nhà nhờ tay cứu sống . Công ơn bố thí lớn lắm .

3) Một vị thiện sĩ là Trương Quan Diện ở huyện Võ Lăng , tuy nhà nghèo , mà thủ phận , cực khổ mà bền lòng . Đặt sách vài trăm cuốn , đều nói chuyện khuyên đời . Dạy học trò giữ nhơn nghĩa làm đầu , kết bạn hữu ngay tín làm gốc . Tuy chẳng an lạt mà lòng lành như ăn chay . Tuy chẳng niệm Kinh , mà lời hiền như niệm kệ , lòng mình sạch sẽ , lời nói chẳng dữ hung .

Ba vị ấy đều đáng đầu thai về Tây Phương , được liên-hoa hoá thân bực thượng ( như Na Tra khỏi cha mẹ sanh nữa ).

Vua xem lời phê của vua Tây nhạc rồi , phán rằng : " Mau vời Kim đồng Ngọc nữ đem tàng phướn báu , xuống rước ba hồn qua Tây phương ( Kim đồng rước hồn nam ) . Ngọc nữ rước hồn nữ ), còn tại ti nầy , phải nổi trống trổi nhạc , thắp hương , chưng hoa , sắp đặt bạc -tiền mà đưa ba vị ấy . Còn các hồn phạm tội , chiếu y theo số thứ tự trong đinh bài , dẫn vào trẫm xử . "


Đại Bi Chú
 
NoiVoiDauGoi Date: Thứ Sáu, 06 Apr 2012, 5:56 PM | Message # 2
Colonel
Group: Users
Messages: 176
Status: Tạm vắng
Phán quan tâu rằng : " Hồn phạm số thứ 1 là họ Dư , ở huyện Huỳnh châu , tú tài thi đỗ cử nhơn , hai khoá đậu tấn sĩ , đặng bổ chức tri huyện , huyện Tú thuỷ , trào Thanh , lên lần tới chức chủ sự sở hình bộ , sau làm chức lang trung sở công bộ ; lại sang qua chức thị lang sở hộ bộ , rồi qua sở lại bộ đặng năm tháng mới thác . Tra án tên phạm nầy , từ ngày đỗ tú tái tới làm huyện , không làm một mãi lành , đến làm sở hình bộ , giết oan 13 mạng . Làm sở công bộ , ăn hối lộ rất nhiều . Làm sở hộ bộ , ăn hối lộ nhiều bạc lắm . Sau lên sợ lại bộ càng dạn hơn nữa , bán chức quan mà ăn , miễn đầy túi mình , không cần ai khóc . Tội nầy đáng đoạ Địa ngục A Tì , không đặng đầu thai . " Họ Dư đứng dậy bái và tâu rằng : " Tôi đã làm quan lớn , xin Vương gia châm chế cho tôi còn thể diện " . Vua nạt và phán rằng : " Khốn kiếp ! Dương gian trọng người chức lớn , tại Âm phủ trọng đức chớ chẳng trọng tước quờn ; kẻ đức hạnh lớn , dầu ăn mày trẫm cũng kính nể . Nay ngươi còn ỷ thế làm quan mà cự với trẫm sao ? quỉ Dạ xa lấy chùi sắt mà đập đứa nầy cho chí tử. " Họ Dương tâu rằng : " Tôi có ăn thập trai , tụng kinh Chuẩn đề . " Phán rằng : " Ngươi ăn thập trai niệm chú Chuẩn đề , mà cầu công danh bền bỉ . Ngươi phải hiểu nghĩa hai chữ Chuẩn đề . Phàm ngừơi muốn cầu giàu sang công danh , hoặc cầu con , cầu trường thọ , thì phải chừa mười điều dữ là : chẳng kính trời đất , chằng kính tam quan , chẳng thảo cha mẹ , chẳng thuận anh em , chẳng ngay vua chủ , chẳng tin thiệt , chẳng lễ nghi , chẳng xử nghĩa phải , chẳng thanh liêm trong sạch , chẳng biết hổ thẹn . Đã chừa mười điều dữ ấy , lại còn ở theo luậ Công-quá-cách , mổi ngày tụng kinh Cảm ứng cho nhớ mà sửa lòng , không dám hở một bữa , chẳng dám tính một điều trái lẽ . Như vậy thì ăn thập trai , niệm chú Chuẩn đề cảm động lòng trời . Còn ngươi bầy lâu làm dữ nhiều điều , cứ bia tiếng Chuẩn đề , mà trông trả phước , là theo ngọn , chẳng giữ gốc , mà cảm động vào đâu ? Nhằm ngày thập trai , ngươi quên ăn mặn lỡ , bữa khác ăn tray mà trừ , hoặc đám tiệc chúng ép , thì ngươi đình ngày chay mà ăn mặn . Theo phép đã ăn chay , thì không lẽ ăn bữa khác mà thế ngày quên , cũng không đặng xả đỡ ngày chay mà ăn mặn . Nếu thế hoặc xả thì không phải lòng thành , còn kể chi nữa ? Ăn chay thập như ngươi đó , lại càng thêm tội , đừng cãi nhiều lời ! Mau dẫn nó qua A Tì địa ngục

- - - - - - -

Kếu số thứ nhì họ Tần , ở huyện Hớn Dương , Tú tài thi đậu tấn sĩ , làm quan tri phủ , phủ Thái Nguyên , ba năm mới thác . Phạm nầy khinh dễ bực thiên đình , không kể mạng người , trấn nhậm ba năm , ăn hối lộ tới mười mấy muôn trượng , không cần việc nước . Đời nay ngươi đặng thi đỗ làm quan , là vì kiếp trước là thầy chùa , có công dọn đường núi và đắp lề vài trăm trượng ( vài ngàn thước mộc ) . Nào hay đời nay đổi lòng tới thế , mà phụ ơn Ngọc Đế ban thưởng !

Phán quan đọc án rồi . Họ Tần tâu : " Tôi khi sống mê muội không dè có việc Địa phủ xự tội như vậy . Nay mới ăn năn tỉnh lại . Trong nhà tôi còn vài muôn lượng bạc . Nay thấy đền vua hư cũ , dưới đền nhiều hồn đói rách . Tôi tình nguyện dưng hết bạc mà tu bổ đền vua , còn dư thì bố thí cho hồn đói mà đền tội chẳng biết ý vua định thế nào ? " Phán rằng : " Nay ngươi ăn năn đã muộn quá ! Đền Âm phủ của trẫm , há dùng của vạy-vọ mà tu bổ sao ? Còn ngạ quỉ ( ma đói ) là tại chúng nó khi sống làm dữ nay phải chịu khổ , ai cần bố thí cho nhọc công . Huống chi lúc người còn sống , hay kiếm mưu nầy thế kia mà thâu của cho nhiều , nào có thương ai đói mà bố thí . Phải chi người làm phước cho sớm , thì đã tiêu hết tội rồi , đâu có ngày nay mắc án . Mà lại vài muôn trượng đó , có phải của ngươi sao ? Mười mầy năm trước , trẫm đã cho oan gian đầu thai làm bốn trai hai gái của ngươi , ngươi thác chưa đầy hai tháng , chúng nó theo đàng điếm bài bạc đã phá hết ráo sự sản rồi ; ít lâu đây con trai ngươi sẽ đi trộm cướp , con gái ngươi sẽ vào lầu xanh , làm hư tiếng tông môn không tốt ! " Họ Tần nghe qua động lòng khóc ngất , tiếng rống ồ ồ ! Quỉ sứ lấy chùi đồng đập đùa , té xĩu tại đất . Giây phút tỉnh hồn , bị dẫn qua Địa ngục .

- - - - - - -

Phán quan truyền dẫn hồn kế đó vào nữa , đọc án rằng : " Phạm hồn họ Triệu ở huyện Quỳnh Châu , trước làm thơ lại ( thơ ký ) , sau lên chức huyện thừa tại huyện Vĩnh Bình mới chết . Hồi 18 tuổi làm dữ rất nhiều . Đến làm quan , ăn của chúng , hại mạng dân . Sai thâu thuế kẹp khảo dân nghèo . Lo vừa ý quan trên , khắc bạc dân dưới . Đáng ghét hai khoản nầy : Đi xét án nhơn mạng , cứ theo tiền mà làm thiệt giả , nghĩa là lo bạc thì quả bị giết cụng gọi là tự vận , không lo bạc thì tự vận cũng vu là giết . Còn xứ điền thổ hễ ai lo nhiều bạc thì đặng ruộng đất . Nên trong túi tham , đựng vài ngàn lựơng vàng . Bởi thế , khi còn sống đã phạt tuyệt tự , mà chưa hết tội . Nay trước nấu dầu , mà rửa hờn cho dân , rồi sẽ cầm địa ngục A Tỳ không đặng đầu thai nữa .

Họ Triệu tâu : " Lời xưa nói : " Vì nghèo mới làm quan . Như vậy ăn của dân cũng là phải . Nếu buộc sự ăn hối lộ mà làm tội , thì kẻ làm quan lấy chi mà nuôi gia quyến và đãi quan khách , của đâu mà đi lễ quan trên ? " Phán : " Như minh oan cho người , hoặc lấy lẽ ngay mà xử cho trúng phép công bình theo luật . Kẻ khỏi hàm oan , người ngay khỏi bị hại , người cám ơn vì xử công minh , nếu chúng nó giàu có cảm ơn , nên vui lòng mà cho tới bạc ngàn , mình cũng không lỗi . Chớ như không lợi ích cho người chút nào , lập thế bày mưu mà ăn tiền , thì oan ức người ngay lắm tội biết bao nhiêu . Ngươi nghĩ thử , những của ngươi ăn đó , có phải nghĩa công bình chăng ? Người ta có vui lòng tình nguyện đền ơn cho ngươi chăng . Có đáng công ơn theo lẽ minh oan , tự nhiên mà người cho chăng ? Phải là kiếm cơ lập thế mà cướp của người chăng ? Ngươi còn già miệng chữa mình sao ? " Họ Triệu tâu : " Tôi có ăn chay vía tam quan ( là ba rằm lớn , tam ngươn : rằm Tháng giêng vía Thiên quan , rằm tháng bảy vía Địa quan , rằm tháng mười vía Thuỷ quan ) thiệt là trong ba vị tam quan đại đế bảo hộ . Nào hay bây giờ bị hoạn nạn nầy , ba vị tam quan đại đế , sao chẳng đến mà cứu tôi ! " Phán rằng : " Lời nói dữ ấy , tội đáng bằng hai , lấy bàn sắt vã miệng nó mười cái ? Ba vị tam quan đại đế là Thiên quan , Địa quan , Thuỷ quan , ba vị thần ngay thẳng , phò hộ ngừơi lành . Người làm lành , tuy chẳng ăn vía ba rằm lớn ngàu cũng thêm phước , há bảo hộ ngươi là bọn không nhơn nghĩa sao ? Nếu người làm lành mà ăn chay , thì chay ấy giúp thêm việc lành . Nếu làm dữ mà ăn chay , là giới việc an chay mà làm dữ , sao dám nói hồ đồ ? Truyền dẫn qua ngục " .

- - - - - -

Phán quan đọc án kế : " Họ Châu ở huyện Đông Thành , qua ngụ đất Hớn Khẩu , nổi lò thợ bạc , hay chế bạc thấp , bạc giả mà hại người mất tình nghĩa , hư thể diện ; làm tội nhiều lắm . Trừ ra một tội đáng giết là : Một người buôn bán ở huyện Kỵ Thuỷ đem một trăm ba chục lượng bạc lọc có dư , mướn y nấu ra bạc chín ( nghĩa là bạc mười nấu ra bạc chín , chín chỉ bạc pha một chỉ đồng ). Nó lấy hết phân nửa bạc lọc pha đồng phân nữa , nầu ra bạc năm , kẻ buôn bán lầm sau buôn bán nửa đường mới hay bạc năm bị lỗ tức mình mà chết . Tuy ngươi ăn gian sáu chục lượng bạc lọc , bị thời khi uống thuốc đã hết tiền hết bạc , mà còn hỡi còn . Tra bộ trõn đời ngươi , không có điều lành mà trừ cấn ; nên truyền dẫn qua hoả thành ( thành lửa ) mà thiêu trọn một tháng , cho người bớt tức . Rồi giam vào địc ngục , không đặng luân hồi .

- - - - - - -

Phán quan đọc án kế : " Họ Tiền , ở huyện Ma Thành , xóm Trịnh Gia , làm cai trong huyện ấy . Cả đời hay xúi chúng kiện thưa mà ăn chia của đem lo . Nó có xúi người cháu chồng , kiện thiếm dâu va thủ tiết , đoạt sự sản của thiếm dâu , mà ăn lo lót ( ăn chia ) hơn năm trăm lượng bạc . Tiết phụ bị hiếp , tức mình phải bịnh mà chết ! Huống chi còn nhiều tội dữ khác , có lẽ nào mà đặng đầu thai , dẫn nó quăn lên núi đao mà trị tội " . Họ Tiền tâu : " Tôi có cử sát sanh sáu bảy năm , nhờ ơn vua dung chế " . Phán : " Người đừng nói khào ! Đã biết cử sát sanh là việc lành , sao ngươi biết tiếc mạng vật , mà chẳng thương biết mạng người ? Ngươi thuở nay xúi kiện cáo , tranh đua việc quấy , lại chẳng biết mấy mạng . Cứu sống mạng vật mà giết chết mạng người , ấy là không phân gốc ngọn lớn nhỏ Thương Đế có vì sự nhỏ mọn ấy , mà tha tội lớn hay sao ? Huống chi ngươi cử sát sanh mà làm mặt tốt , mua danh lành , chớ không phải lương tâm chẳng hở . Song ngươi kêu nài lắm , trẫm tha khỏi cầm ngục đao sơn , cho được đầu thai mà phải làm con nhà nghèo , mang hai tật câm và quáng , đi ăn mày trọn đời , nếu biết thân mà giữ bổn phận đền tội mãn đời , sau sẽ nghĩ lại " .

- - - - - - -

Phán quan đọc án kế : " Họ Thơ ở phủ Thừa Thiên , con chức Điển sử , bổ làm thơ lại ( thơ ký ) tại phủ . Ba mươi tuổi mà chết . Hồi xuân xanh đánh bóng quến người , phá của chúng , hại mạng người , không biết bao nhiêu tuy tại chúng nó đắm sa , song cũng tại ngươi tham của mà quyến luyện ; không thể nào dung tội ngươi được .

Huống chi ngươi trưởng thành lại càng đắm sa tửu sắc lấy vợ con người , chẳng biết bao nhiêu mà kể . Nếu nàng nào không thuận , thì lấy thế quan , mà vu hoạ hại người ! Cho nên vào nhà nào , phụ nữ cũng sợ oai mà chịu hiếp . Tội dâm ác thái quá , giết cũng chưa vừa , đáng giam vào trong ngục đao kiếm " . Phán quan tâu : " Tên tội này có hiếu với mẹ lắm . Mẹ ngoài sáu mươi tuổi đau nặng . Y sắc thuốc nếm rồi mới dâng , đêm nằm không cổi dây nịt . Vài tháng như vậy con mẹ bịnh ngặt , ăn không đặng , y cắt thịt bắp vế nấu cho mẹ uống đỡ nước cho bổ , sống rán vài ngày như vậy cũng nên rộng dung chút đỉnh " .Phán : " Thượng Đế tuy ghét tội dâm ác lắm , mà rất trọng con thảo . Bởi nó biết nuôi cha mẹ là hiếu , mà chẳng biết giữ mình mới trọn hiếu . Trẫm tha cầm ngục đao kiếm , lại đặng luân hồi , song làm điếm lầu xanh mà đền tội dâm ác . Nếu sau biết ăn năn sẽ nghĩ lại " . Phán rồi cấp điệp ( giấy ) qua cho vua Đông Nhạc mà đầu thai .

- - - - - - -

Phán quan đọc án kế : " Họ Tôn ở huyện Võ Xương , 19 tuổi cải họ Trương đi lính hầu tại phủ . Đã hay bợ đỡ quan phủ , lại thạo bua việc . Lớn mật dạn dĩ , gian hùng hẳn hoi . Hầu việc các dinh , ông quan nào cũng bị y nói gạt hết . Đến đổi mạng người sống thác , đều tại tay y ; việc phải quất đặng thất , đều tại miệng nó . Sự dữ đã đầy , tội đếm không hết . Luận tội dương gian khó thứ , luật hình âm phủ không dung . Mau dẫn qua địa ngục Đao san " . Họ Tôn tâu : " Tôi có dùng năm chục lượng bãc mà thếp vàng cho Phật tại chùa Báo Ân . Lại cúng bạc dầu thắp đèn ăn chay , niệm Phật Di Đà một ngàn câu " . Phán : " Đờ khốn nà ! Nếu làm dữ , sau biết ăn năn chừa lỗi , làm phước niệm Phật , trời thì trời tha tội . Có đâu mượn tiếng cúng chùa niệm Phật , mà làm dữ thẳng tay , Phật Di Đà há giúp sức cho người làm dữ sao ? Ví dụ : Kẻ vì tửu sắc sanh bịnh , uống thuốc bổ dưỡng lại . Nếu cử tữu sắc , thì uống mới hay . Nếu mê sa tữu sắc như xưa , thuốc bổ sao cho lại tửu sắc ? Lẽ nào thuốc giúp sức cho kẻ tữu sắc nỗi ? Dẫn nó qua ngục cho mau , đừng để cãi rán ?

- - - - - - -

Phán quan đọc án kế : " Họ Ngô , ở huyện Huỳnh Cang hồi nhỏ đi học , thi khoa tú tài không đậu , học qua nghề viết đơn mướn " . Vua phán : " Xưa nay kẻ viết đơn thưa kiện , không có ai hiền lành bao giờ . : Họ Ngô tâu : " Tôi là kẻ đại thơ cứ viện cho kẻ dốt , chớ không làm điều chi dữ ." Phán : " Kẻ bố thí chẳng phải tại của mà tại lòng ; kẻ chém giết , tội chẳng tại gươm mà tại ý .Người đã viết đơn kiện cáo , trong ý tính nói bó buộc cho gắt như muôn ngọn lửa cháy lau khó dụt . Nghiên mực độc hơn ao huyết , ngòi viết bén quá lưỡi gươm . Đặt một chữ , phá nhà người rất dễ ; sửa một nét , giết mạng chúng như chơi. Dưới lửa độc , đủ đồ roi kẹp ; trên tờ đơn , đều cửa ngục hình . Sưa đi còn sửa cho hay , buộc trước lại buộc sau cho gắt ! Kẻ quả tang muốn bắt cho mau người không tội quyết gài cho chắc . Có khi trợ tiên-cáo mà nói gián , gặp lúc binh bị cáo mà hại tiên-cáo ( nguyên cáo ) . Nhiều lúc lời mà làm bộ giết tiên-cáo mà hại bị-cáo . Lòng độc như yêu khôn độ , mưu său tợ quỉ khó dò . Kể sao cho xiết sự tội ác của ngươi , mau dẫn qua mổ bụng rút ruột , hành cho đủ tam đồ , rồi sẽ giam hoài nơi địa ngục . "

- - - - - - -

Phán quan đọc án kế : " Họ Trần ở huyện Ky Thuỷ , bị án ăm trộm. Vua xem án rồi , phán rằng : " Người may đặng làm người , sao theo trộm cướp ?" Họ Trần tâu : " Tôi hồi nhỏ thiếu ăn thiếu mặc , cha mẹ , em út , kêu đói như bộng , vã lại năm thất mùa , lúa gạo mắc , xâu gao thuế nặng , cũng chẳng đã mới đi trộm cướp !" Vua ngó phán quan mà phán rằng : " Người nầy tuy là ăn trộm , song nói cũng phải lẽ . Hãy tra bộ sổ cho kĩ , coi lám các an ra thể nào ? " Phán quan tra bộ rồi tâu rằng : " Họ Trần có giựt đồ của kẻ buôn bán , đi ngang núi Mai Lảnh tại huyện Ky Thuỷ. Sau bị bắt nguội , giải đến quan họ Từ , vốn là người ở huyện Ngô , phủ Tô Châu , truyền y viết lời khai . Họ Trần viết bài thơ như vầy :

Bất tu hiệp bát , bất tu xao ,
Nể tỉ xuyên du , thuật tánh cao !
Xa thủ , thù nhơn can dữ nảo ,
Măn xang đô thị sát nhơn đao!


THÍCH NÔM :

Lựa là kẹp khảo , lựa là tra ,
Chước niệm nhà ngươi , xảo quá ta .
Tay xá móc gan , rồi lấy huyết ,
Gươm đao đầy bụng mổ hằng hà .

Quan huyện họ Từ xem thơ , rồi mới nói với các thơ lại rằng : " Chúng ta thiệt cũng như ăn cướp , còn muốn xử tội ăn cướp sao ? Các thơ lại cai bếp quân lính đều đi bắt đầu này đầu kia , mà kiếm chác cho ta , thì cũng như bọn lâu la kiếm của tang cho chủ trại ! Chi bằng ăn năn cho sớm , lo tu nhơn tích đức mà nhờ thân sau , cho khỏi mắc đoạ " . Các người nha dịch đều bẩm rằng : " Chúng tôi đã tập quen thói dữ rồi , và lại bị nuôi gia quyến , khó nỗi ăn năn chừa lỗi ! " Họ Trần tâu : " Có khó chi ! Kẻ tu thân phải có can đảm trí huệ khác hơn người thường , cũng sấn sướt manh mẽ như lòng đứa ăn cướp , thì mới nên việc . Đứa trộm cướp dạn dĩ không sợ mới dám phá cửa mà giựt của người , dễ như trở tay , muốn làm sao thì làm vậy . Nếu quyết hồi tâm đi tu , thì cũng phải can đảm sấn sướt như vậy , thì dữ nào mà bỏ không rồi , lành nào mà làm không đặng ! " Nói rồi ngâm bài kệ như vầy ( nho kêu thi , Phật kêu kệ ) :

Cang đao bổn bất dẫn nhơn hung ,
Pháp khánh bất hội giáo nhơn thiện ,
Cang đao pháp khánh lưỡng bô tình ,
Chỉ thử nhứt tâm phân lưỡng nguyện .
Hướng lai thất cước tự du du ,
Kim nhựt hồi đầu giai chiên chiến .
Cải ác tùng thiên hữu hà nan ,
Tác đạo vi quan cu mạc luyến .


THÍCH THƠ NÔM
:

Gương trừng bá giục ngực người làm dữ ,
Chuông tự nào khuyên thế ở lành ?
Chuông kiếm vốn không hiền mới độc ,
Tánh tình sẵn có trược cùng thanh .
Xưa mê ngủ gục say vô độ ,
Nay tỉnh ăn năn sợ thất thanh ,
Chừa lỗi hồi tâm tu dễ quá ,
Ăn lo , ăn cướp bỏ thì thành .

Khi ấy , nội nha môn : nhiều kẻ hồi tâm , từ chức đi tu mười mấy người . Phán : " Quả có công đức ấy , đủ chuộc tội trước : huống chi lấy của , chớ chưa hại mạng người , đáng giảm tội phân nửa . Đáng ghét tội giam dâm , vì no ấm mà sanh sự . Phải suy phần đạo tặc , bởi đói nghéo không đủ mà liều thân . Sự cùng mà biến , tội cũng đáng dung . Tha tội họ Trần , cho giấy qua vua Đông Nhạc lãnh phần đầu thai làm thầy chùa du phương tại núi Thiên Thai . Nếu chịu khổ hạnh tu hành , sau sẽ siêu độ ."

- - - - - - -

Phán quan đọc án kế : " Họ Trần ở huyện Viên Dương tự hồi nhỏ hoang đàng , làm biếng , làm cho cha mẹ lạnh đói khổ , ưu phiền sanh bịnh mà thác , vì con không cần kiếm mà dưỡng nuôi . Còn nó tới 49 tuổi cũng chết đói " . Phán : " Tuy nó không làm điều chi dữ lắm . nhưng mà làm biếng lại xài lớn . Những đứa trộm cướp , chẳng phải ham giết người lại đốt nhà làm dữ , đều bởi làm biếng lại xài to , túng cùng mới biến ra nghề ấy . Cho nên siêng làm và tiện tặn , thiệt là cội rễ nên nhà , mà cũng là gốc trau mình sửa nết nữa . Kẻ có nhơn , người quân tử , ai cũng cần kiệm . Tại người không siêng làm mà chẳng tiết kiệm , để cho cha mẹ đói lạnh mà thác . Như vậy không cần kiệm tuy là lỗi nhỏ mà tội không nuôi cha mẹ là bất hiếu khó dung . Dẫn nó qua pháp trường , mổ bụng lắc bao tử và móc ruột mà trị tội xài lớn . Rút cho hết các sợi gân làm biếng , mà trị tội bất cần . Nay cha nó đã đầu thai làm chức thơ lại tại huyện Thường Châu , ở sau Tây-môn , cho nó đầu thai làm heo của cha nó đặng bán lấy tiền mà đền tội bất hiếu đời trước. "

- - - - - - -
 
LongTracAn Date: Thứ Sáu, 06 Apr 2012, 5:57 PM | Message # 3
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Phán quan đọc án kế: "Họ Khương ở Châu Hưng quốc, là nhà giàu bất nhơn, năm mươi mốt tuổi, bị dân nghèo là họ Hồ giết . Họ Khương giàu lớn hơn nội châu ấy, vựa lúa mà bán cho các lái khắp nơi. Nội xứ chết đói vì trong năm thất mùa, họ Khương chẳng thí cho nhà nghèo một nắm lúa gạo . Khi ấy quan phủ, quan huyện cho mời y, bảo bố thí cho dân đói, y lo hối lộ cho khỏi bố thí. Đến nỗi bà con hoạn nạn chết đói, y cũng không ngó tới !" Phán: "Ngươi bình sanh trọng tiền bạc, chẳng hề cho ai vay mượn, lòng ở khắc bạt gắt gớm độc hơn tội giết người, không thể nào dung đặng". Tâu: "Tôi mới biết gắt gao rít róng mắc tội nơi luật trời . Xin vương gia tha tôi về, đặng tôi cải ác tùng thiện, xuất hết của tiền lúa gạo mà bố thí cho dân nghèo. Xin vua rộng lòng y tấu ." Phán: "Ngươi còn trông sống lại hay sao? Kho lẩm trong nhà còn thuộc về của ngươi hay sao? Con cái ngươi đều là oan gia thiệt con đòi nợ chưa đầy một năm nó đã phá hết sự sản, không còn sót món nào!" Khương nghe rõ khóc ròng than rằng: "Tôi bấy lâu chắc lót quyết để lâu dài . Cùng chẳng đã xuất một đồng điếu mau củi, hoặc mua rau (cải) cũng còn tiếc lắm . Ai dè con là tội báo cừu nhơn đầu thai vào mà phá hết sự sản tức biết chừng nào!" Phán: "Cái tội gắt gớm cũng như tham gian. Trước giam theo ngạ quỉ, bỏ đói cho lâu. Sau sẽ cho đầu thai làm ăn mày, chịu đói rách mà đền tội bỏ đảy buột chặt ."

Phán quan đọc án kế: "Họ Doản ở huyện Quy-đức làm thầy thuốc mập mờ, hốt thuốc pham chết vừa nam vừa nữ công mười một mạng . Tánh hảo ăn thịt trâu lắm, bữa nào cũng có thịt trâu mới chịu cầm đũa tội ấy cũng nhiều. Tuy trốn khỏi tội Dương gian, chớ lánh sao cho lhỏi luật Âm phủ ". Phán: Phạt nó đầu thai làm trâu mười một kiếp, mà trừ tội phạm thuốc mười một người .

Phán, quan đọc án kế: Họ Lý ở huyện Thần Châu, ròng nghề làm mai mối . Miễn có tiền mướn mà ăn, thì quyến dụ gạt con gái nhà lành, ở đợ, làm bé mà chẳng động, lòng thương . Đến nỗi làm mai con nít cho ông già, cột mối bà già cho trai nhỏ, bọn ấy không vừa ý, tức mình phát bịnh mà chết hết bảy người, vì không thể sanh đẻ nối đời đặng." Phán: "Bởi tội y nói xảo mà rù quến gạt người, nên bị án nặng . Truyền cắt lưỡi, bẻ răng, bỏ xuống hầm đời đời, cho oan hồn bớt tức ."

Phán quan đọc án kế: "Họ Phùng ở huyện Miển Dương, là tên tá điền, năm nào cũng giấu bớt lúa mà đong chút đỉnh . Nếu năm nào mà trúng mùa, thì dem lúa ngâm nước một đêm mới đong lúa ruộng. Chủ điền tức mình, lấy ruộng lại cho người khác mướn, nó cũng thầy kiện không chịu giao. Nếu làm ra lẽ, để cho người khác mần, thì tới khi gieo mạ, giống lúa sớm nó lén vải lúa muộn vào, hoặc lúa muộn, vải lén lúa sớm vô, lộn lạo cho thất mùa, phải bỏ cho nó mướn . Tội hung dữ ngang ngược thái quá không phải tầm thường . Đáng phạt đầu thai làm đứa ăn mày bạt xụi, mà đền tội ngang tàng kiếp trước ."

Họ Phùng tâu: "Tôi có thấy chỉ dụ của Vương gia, phàm dân ruộng rẫy, đều cần kiệm cực nhọc, dầu có tội gì nhỏ mọn đều rộng dung. Vậy xin vương gia ân xá ." Phán: "Kẻ lo làm ruộng tay chưn mỏi nhọc không hở, ăn uống, cực khổ dư ra thì bán cho đời, thiên hạ đều nhờ công lao kẻ làm ruộng . Vậy mới có công với đời, nên tha lỗi nhỏ . Có đâu tham gian độc dữ như ngươi, đừng có nói nhiều chuyện, quỉ sứ dẫn đi giải cho mau."

Phán quan đọc án kế: "Họ Uông ở huyện Than Âm cha nó ăn chay làm lành, nó chẳng nghe lời cha dạy . Cả đời làm nghề đánh cá, mỗi ngày bắt cá chạch, lươn, tôm, trạnh cua đinh, không biết bao nhiêu mà kể . Cha nó có quở la thì nó cự và mắng lại như ăn cơm bữa, song nó có hiếu với mẹ lắm, mẹ nó đau, thì lo chạy thang thuốc, nuôi dưỡng hết lòng . Bởi cớ ấy, nên Táo quân có tâu với thượng đế cho trừ án nặng ." Vua ngó phán quan mà phán rằng: "Tên nầy trái lòng nhơn của thượng đế, vì lòng trời muốn người vật sanh ra cho nhiều không muốn giết hại ." Rồi day lại, quán quở rằng: "Loài cá trạnh cừu oán chi với ngươi, nếu có việc chi phải lẽ như là cúng ông bà, nuôi cha mẹ, cùng chẳng đã bắt đờ mà dùng. Vậy nên đức Khổng Tử, câu mà chẳng lưỡi cũng thể theo lòng nhơn của trời . Nếu chài lưới đánh như ngươi, mà nhiều người làm như vậy, thì không còn sót tôm cá lươn trạnh . Nếu tính mỗi mạng vật, cho ngươi đầu thai mà thường mạng, thì muôn đời cũng chẳng dứt nợ oan trái ấy . Lại thêm mắng cha, tội lớn thấu trời, mau dẫn qua địa ngục ". Phán quan tâu:" Vương gia thường trọng chữ hiếu, tên này cơn mẹ bịnh, nuôi dưỡng lo chạy hết lòng, khi mẹ liệt, nó lóc thịt bắp vế mà nấu cháo cho mẹ ăn bổ cầm hơi, cũng nên trừ cấn ." Phán: "Bất hiếu với cha, mà chí hiếu với mẹ, trẫm cũng rộng lượng cho trừ . Tính một tội đánh cá, cho đầu thai làm một đứa hung hoang, hai mươi tuổi bị quan xử trảm".

Phán quan đọc án kế: Họ Trần ở Hớn Trấn, lòng xảo trá mưu kế không lo nghề nghiệp làm ăn. Hằng ngày rủ ren con em nhà lương thiện đánh bài bạc mà lấy xâu và ăn gian ăn lận nữa, đến nỗi nhiều người tán gia bại sản, mà thói dữ cũng không chừa . Lại lập thế bắt con gái nhà nghèo làm hầu thiếp, (như lập thế tiền trái hậu mãi). Hai tội nhập một nặng nề ." Vua phán : "Nghề bài bạc hại người độc hơn nước lửa trộm cướp . Nếu bị thua quá, thì phải bỏ nghề nghiệp, đổi lòng ngay, gái trai cũng hư danh thất tiết, tới nỗi tan gia sản, liều thân mạng .

Ngươi tai mắt không thiếu đủ tay đủ chưn, sao không học nghề nghiệp làm ăn ngay thẳng, mà chi độ cho qua ngày . Trên làm tên dân không phạm luật triều đình, dưới làm người phải, khỏi nhơ danh tổ phụ . Nghĩ nào dùng tai mắt mà làm quấy, lo mưu kế mà gạt người . Cái thân hữu dụng, làm tội vô cùng . Khác nào: ăn thịt người cho no bụng, phá nhà chúng đặng vui lòng . Cho phải trả . Tuy phạt người tuyệt tự, trừ mưu bắt chúng mà làm hầu . Chớ tội chứa cờ bạc, không thế nào trừ đặng . Quỉ sứ chặt mười ngón, và hai tay, rồi mổ bụng móc tim rút ruột . Rốt lại cầm hoài nơi Địa -ngục, không đằng đâu thai." Họ Trần tâu: Tôi tối dạ đi học không nên, tập bài bạc kiếm tiền dễ lắm . Lỡ vào nghề đó, sanh gian sanh lận . Song ăn thì vừa, thua thi trả, hai bên tình nguyện như nhau. Chớ tôi không giựt của, xin Vương gia dung thứ ." Phán rằng: "Rủ ren kẻ thiệt thà, ăn gian ăn lận, dầu anh em cũng quyết lột da, huống chi bằng hữu mà không mở mật. Khiến người mất của , ngươi mới đẹp lòng. Ai dại gì tình nguyện đem của mà cho ngươi, cũng tại ngươi lập thế thần mà đánh bẫy, ngoài chuốt ngót nói lời ngon ngọt, làm như thiết nghĩa ruột rà, nào là đãi ăn, nào là phục rượu, nào là dem nữ sắc mà quyến luyến cho mê sa . Ấy là trăm mưu ngàn kế mà gạt người, tộc ác dường hầy mà bỏ luật dung tha sao cho đặng ? Quỉ sứ cứ việc dẫn nó đi."

Phán quan dọc án kế: "Họ Lý ở huyện Hoành Dương đi lính tập theo quân Du kích . Còn họ Du, huyện Huỳnh Mai cũng đi lính tập theo sở cầm cờ đánh trống . Còn họ Thanh cũng ở huyện Huỳnh Mai, là lính pháo thủ của quan đề đốc họ Lý tự Giang Tư. Ba tên ấy đều có đánh giặc ." Vua phán rằng: "Quân lính trong đội ngũ chinh chiến, tay cầm gươm súng, lòng tập hung hăng, thắng trận thì bắt vợ con người ta, thậm chí ăn thịt người nữa . Tội ấy chẳng hèn đồng quăng lên ngục Đao sơn cho đáng kiếp". Phán quan tâu rằng: "Họ Thanh lúc phá thành Dương Châu, bắt đặng ba người mà chẳng giết . Bắt đặng hai người đàn bà mà chẳng động tới, đều trả lại cho chồng: 2 người chồng đền ơn bạc tiền, y cũng không chịu lấy . Hai khoản ấy phước phần chẳng nhỏ . Huống chi mỗi tháng ngày rằm với mồng một, ăn chay tụng bảy biến kinh Cao Vương." Phán: "Có công đức như vậy, trẫm cũng đáng kính đáng khen, cấp điệp cho họ Thanh, qua vua Đông-nhạc, mà đầu thai làm chức quan văn thất phẩm, sống bảy mươi chín tuổi, không bịnh mà mãn phần, con cháu hai đời đều đặng công danh vinh hiển . Còn hai hồn linh kia xử y án trước".

Phán quan đọc án kế: "Nàng Tiền mẫu Nương ở huyện Gia ngư, ghen dữ và ngỗ nghịch với cha mẹ chồng ." Vua phán: "Nội một tội bất hiếu với cha mẹ chồng, cũng đáng cầm ngục A tì, còn luận lành dữ nó làm chi nữa ." Nàng Mẫu Nương tâu: "Tôi không dám bất hiếu với cha mẹ chồng, mà tôi còn ăn chay bố thí nhiều lắm ." Phán: Dầu ăn chay bố thí như vậy, cũng chuộc không nổi tội bất hiếu với cha mẹ chồng . Song nghĩ người ăn chay bố thí, nên tha tội xay giã mà thôi giải qua giam vào Địa ngục không đặng đầu thai mà răn những nàng dâu ngỗ nghịch ."

Phán quan đọc án: "Nàng Châu tú Nương, ở phủ Thừa thiên, có chồng mà lấy trai, ấy là tội nặng . Lại thêm hại một mạng mọi gái". Phán: "Đàn bà có đức chính chuyên một chồng . Tánh nết phụ nữ, phải hiền hậu lành, mới phải đàn bà đức hạnh . Ngươi là con khốn, không biết xấu hổ không giữ chính chuyên, lấy trai lang chạ; là bởi ham ăn làm biếng không lo việc nữ công, ăn no ở không, mơ tưởng việc dâm dục, tham ăn thịt mê uống rượu, lại đánh bóng trang điểm, bán dạng thuyền quyên, làm con trai đê mê mẩn mang tiếng xấu danh nhơ, mi đã thất tiết xấu xa, hại chồng mi mang nhục, hư thể diện cha mẹ tông môn của mi, không cần con cháu hổ thẹn . Tuy đội lốt người, mà khác nào súc vật . Lại còn độc ác, hại mạng mọi gái . Sao không biết xét, mọi gái cũng có cha mẹ sanh thành, bởi kiếp trước nó không tu, nên đời nay hèn hạ mi nết xấu cũng như là đứa hèn, mà được sai khiến đứa hèn là quá phép . Nỡ nào không có lương tâm, mà đành đoạn hại mạng nó ? Mau nấu dầu mà trị tội lấy trai và cho hồn oan con mọi hết tức . Rồi cầm hoài Địa Ngục không đặng đầu thai."

Phán quan đọc án kê': "Nàng Thành sửu Nương huyện Thanh âm hay xúi chị em bạn dâu lối xóm rầy lộn, hại con gái xóm ấy hàm oan tức mình thắt họng mà chết . Lại hay bảo mấy nàng thủ tiết lấy chồng . Đẻ con gái năm lần, đều trấn nước chết hết." Phán: "Hại một người dưng thì thường mạng 1 kiếp nếu mà hại một mạng ruột thịt, phải thường mạng hai kiếp. Truyền quỉ sứ dẫn hồn con ma thắt họng, và năm con ma da nhỏ, kéo nó xuống ao nước, cho bớt giận một hồi . Rồi bắt lên, cắt lưỡi mổ bụng móc ruột, không cho đầu thai, cầm hoài nơi Địa ngục, mà trừ cái tội khuyên tiết phụ cải giá và xúi chúng rầy rà ." Sửu nương tâu: "Chẳng phải tôi ham khuyên cải giá làm chi. Bởi thấy chúng nó còn tơ mà nghèo khổ, lại không con, thủ tiết ích gì, chi bằng cải giá cho qua ngày: ấy là lòng tốt của tôi." Phán rằng: "Ác phụ không biết phải quấy! Đàn bà may rủi một đời, nếu chồng thác, thì phải thủ tiết . Thượng đế càng kính vì tiết phụ . Dầu có chết đói, ngàn muôn năm cũng ngợi danh thơm. Nếu nó muốn tái tiện, ngươi cũng phải cản trở, mới là lòng tốt . Sao bảo nó cải giá, làm cho nó mang tiếng thất tiết trọn đời . Người đừng cãi sướt nữa . Mai giải đi hành tội ."

Phán quan đọc án kế: "Lý Khải Nương là con đầy tớ nhà Mễ . Làm đổ gạo cơm trong bếp, dính trên miệng lò, huỷ hoại của trời hơn mấy năm kể chẳng xiết (là đổ đồ ăn). Hay ăn vụng ăn cắp của chủ, mà đổ thừa cho người, hại con đầy tớ khác phải đòn . Hay lấy bậy và dắt trai vào nhà, tư tình với chủ gái; tội ấy đã nhiều . Lại hay cải giá, tính đã ba đời chồng, tội nặng quá lẽ ." Phán: "Ngươi kiếp trước làm nhiều điều dữ, nên phạt người làm tôi mọi. Sao không biết xét, tuy là người mà làm mọi cũng như ngạ quỉ súc sanh bị cầm Địa Ngục, ba điều khổ ấy, hỡi còn chưa biết ăn năn tu mà nhờ kiếp khác ."

Phán quan tâu: "Mọi gái cũng con người, sao gồm ngạ quỉ súc sanh Địa ngục ?" Phán: "Tôi mọi ăn uống không đặng tử tế, khác nào ma đói. Không ai lễ mà đãi, nào khác súc sanh. Không được có chồng sanh con, thường bị cấm cố, khác nào cầm ngục . Nay không chừa lỗi, còn xử thêm cách nào, phải hành cho đủ tam đồ mới đáng không đặng đầu thai."

Phán quan đọc án kế: "Lưu thất Nương ở huyện Quế Lâm bốn mươi tuổi mà không con, tánh đa dâm và ghen lắm! Chồng muốn cưới thiếp. Thất nương không con. Chồng lén cưới vợ bé, gởi lối xóm. Thất nương hay tin bắt vợ bé đặng, lấy bàn ủi ủi phỏng mình, lở thúi mà chết !" Phán: "Cấm chồng cưới, cho tuyệt từ thờ mình, lợi ích chi đó". Huống chi hành hình cách thảm mà giết người, chắc dung không đặng. Thất nương tâu: "Đàn ông không con, cho phép cưới thiếp, còn đờn bà không con, chẳng cho cải giá, việc ấy mất công bình, thiệt xử hiếp tôi lắm". Phán: "Loài súc sanh không biết hổ ngươi, hãy còn cãi rán! Buông lời nói hư phong hoá, không biết hồi sống mi kềm chế chồng mi ra thể nào ? Tánh đa dâm ghen tương như mi, đáng phạt đầu thai làm con điếm, ba mươi tuổi mắc ghẻ độc thúi lầy cả thân mình, bỏ thây dọc đường, chó heo ăn thịt cho bỏ ghét".


Đại Bi Chú
 
tieuthu_soma Date: Thứ Bảy, 07 Apr 2012, 11:48 AM | Message # 4
Colonel
Group: Users
Messages: 197
Status: Tạm vắng
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 08 Apr 2012, 4:17 PM | Message # 5
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Phán quan đọc án kế: "Tào Thị là gái xằng, ở huyện Ngô Giang kế thất họ Chữ ở quận Trường Sa. Họ Chữ thác sớm . Tào thị khắc khổ con ghẻ trăm bề . Các việc ăn mặc đều thua con chung. Tới lúc tương phân thì chia phần hơn phần tốt cho con mình . Lịa khắc khổ dâu ghẻ, tới nỗi tức tối sanh bịnh mà chết!" Phán: "Con ghẻ thờ mẹ ghẻ có hiếu cũng như thờ mẹ đẻ một thể . Sao mẹ ghẻ khắc khổ con ghẻ dâu ghẻ đến thế, thiệt là lòng như cầm thú, đáng đầu thai làm súc vật mới xứng tội ." Phán quan tâu: "Tào thị đến già lòng thành niệm Phật và ăn chay cữ sát sanh ba năm ăn năn đền tội cầu siêu độ phần hồn". Phán: "Vậy thì khỏi đầu thai làm súc vật, song phải luân hồi làm tội mọi con dâu ghẻ, mà đền tội trọn đời ".

Phán quan đọc án kế: "Mười lăm vị hoà thượng pham tội dữ". Vua phán: Các sãi xuất gia đi tu, lẽ thì thành làm Phật tổ, cớ nào đeo đính bài tội dữ ?" Mười lăm hoà thượng tâu: "Nhờ vương gia từ bi dung thứ". Phán rằng: "Các sãi có hay tờ điệp của Phật Thích Ca mới gởi đến đây chăng?" Đồng tâu: "Chúng tôi chưa hay". Vua gởi điệp văn đọc lớn rằng: "Chùa chiền đời nay đã biến hư lắm, mối đạo Phật lưu truyền đã mỏn rồi, như ngọn đèn gần tắt . Các sãi tuy tiếng đi tu, thiệt nhiều người dối tệ . Trong một ngàn hoà thượng, lựa đặng chừng một hai người xứng đáng, không hổ thẹn mà thôi! Cõi Âm phủ phải tra xét cho hẳn hòi, đừng lầm các sãi dối thế". Đọc rồi phán rằng: "Các sãi đã thấy điều luật của các sãi tại cẳu nầy chăng ?" Đồng tâu: "Chưa thấy". Phán rằng: "Để trẩm giảng các tội án trong điều lệ tu hành cho mà nghe. Các sãi tuy đi tu, mà trong lòng khác nhau hết : Có kẻ cự nghịch với cha mẹ, giận lẫy mà đi tu, là tội bất hiếu lớn thứ nhứt, còn nói làm chi! Có kẻ giận anh em vợ con mà đi tu. Có kẻ bị cách xấu, mắc cở mà đi tu. Có kẻ quyết trốn xâu lậu thuế, vì đói rách mà đi tu. Có kẻ mê cảnh chùa tốt mà đi tu. Có kẻ mê mấy sãi nhỏ có bóng sắc muốn nhập vào cặp xách mới đi tu. Có kẻ ham làm chức hoà thượng sang trọng mà đi tu. Có kẻ mồ côi không ai nuôi mà đi tu. Có kẻ vô hậu không ai hoạn dưỡng mà đi tu. Có kẻ ngán việc đời là cuội giả, mộ đạo Phật là siêu độ linh hồn mà đi tu. Các sãi ai tu về cớ nào thì khai thiệt ? Các hoà thượng đồng tâu: "Xin vương gia từ bi thẩm xét, thiệt chúng tôi ngán việc đời, nên xuất gia đầu Phật mà cầu siêu độ linh hồn, chớ không có ý chi khác". Phán: "Các sãi đời nào xưng tội, mấy thuở chịu khai!" Truyền chỉ Phan quan dẫn các sãi đến đài Nguyệt cảnh chiêu thử . Nguyên tại nhứt điện là cửa đền thứ nhứt: vua Tần Quảng có lập cái đài Nguyện cảnh phái bên hữu cái điện chánh . Đài ấy cao mười một thước, trên có treo cái mặt kiếng Nguyệt cảnh lớn mười người ôm mới giáp vòng bề tròn treo chiếu qua hướng đông, trên giá treo mặt kiếng ấy có để bảy chữ rằng:

Nguyệt cảnh đài tiền, vô hảo nhân

Thích nôm: Trước đài Nguyệt cảnh không người lành.

Các hồn chối án, thì quỉ sứ dẫn lên đài, mà ngó vô mặt kiếng, thì thấy hiện nguyên hình từ nhỏ tới chết, làm những việc chi đều ứng hiện hình thù như hát bóng đủ lớp nhớ lại nên chối không đặng . Vua Tần Quảng mới y luật mà xử, hoặc giải qua chín cửa đền khác, vân vân ....(8 cửa có ngục mà thôi).

Khi ấy các sãi, từ người soi kiếng đủ mặt rồi coi lại không có thầy nào chơn tu mộ đạo cho thiệt tình! Coi ra ba sãi ăn mặn uống rượu . Một sãi tà dâm, hãm hiếp . Bốn sãi mê các đạo nhỏ thanh sắc . Bốn sãi tham bạc, ăn gian của chùa . Trừ ra có ba sãi, cứ sớm tối tụng kinh, công phu, cất chùa, lên cốt Phật, lơ làm công quả trông chùa, chớ không thông mùi đạo. Vua cười ngất phán rằng: "Hèn chi đức Thế tôn quở trách các ngươi làm hư trong đạo Phật!" Liền phạt một sãi gian dâm với bốn sãi mê đạo chúng thanh sắc, cộng một bọn tà dâm năm sãi, đồng giam vào ngục. Tăng nho mới lập, không đặng luân hồi . Còn bốn sãi rượu thịt, đầu thai làm heo bà kia ăn cám hèm cho đã. Lại còn bốn sãi ăn gian của chùa, phạt làm lừa ba đời, chở đồ đi xa mà đền ơn cho các chủ bố thí . (Tại tham của nên cho chở đồ nhiều mới toại chí !) Trừ ra ba sãi thiệt thà, tuy quyết chí đi tu mà chưa thông đạo vị, nên cho đầu thai làm thầy chùa mà tu nữa; nếu siêng tu hành rõ thấu ba bực thì cũng được khỏi đoạ . Đền giải qua vua Đông Nhạc, đi lại vua thứ mười . (Chuyển luân vương) đầu thai.

Phán quan đọc án kế: "Họ Gia ở huyện Văn Mộng đưa đò dọc sông Bà Dương. Tháng chạp năm Nhâm thân, lén giết một người bộ hành lắy đặng ba mươi lăm lượng. Bị chúng cáo, quan tra không đủ cớ tha về . Sau mang bịnh nghèo khổ, đi ăn mày. Tới 38 tuổi, biết tội mình mới đi tu. Cứu trùng, kiến, nhiều lắm, lượm giấy chữ, cũng nhiều. Ăn chay làm lành thường bữa tụng kinh niệm Phật. Tu hai mươi năm như vậy, mà cầu tiêu tội sát nhơn, và nhờ phước kiếp sau." Phán: "May ngươi ăn chay làm lành, niệm Phật tụng kinh sáu hối (ăn năn cầu tiêu tội). Huống chi đã phạt làm ăn mày; đày đoạ đến kiếp, nên trừ tội giết người mà lấy của". Họ Gia Tâu: "Tôi trước đại phạm tội, sau ăn năn tu hành. Xin vương gia xét lẽ cho tôi nhờ". Phán: "Ngươi hãy đứng một bên, đợi trẫm xử án khác rồi sẽ định".

Phán quan đọc án kế: "Họ Lâm huyện Bành Thạch ông cha có làm phước giúp người. Còn họ Lâm kiếp trước là thầy tu, ăn chay bố thí 545 đôi giày rơm, trời lạnh bố thí cộng 65 chiếc chiếu. Nên đời nay 23 tuổi mà thi đỗ cử nhân, đậu rồi không giữ lòng lành. Tư tình với Kim thục Cô là gái ở một xóm rồi bỏ, nàng ấy tức mình thắt họng mà chết . Vã lại nết tham, lãnh việc kiện mướn, đem mối kiện thưa. Ra vào chốn nha môn lo lót cho chúng, bởi cớ ấy, giựt được vài trăm mẫu ruộng trong làng. Ăn thập trai chưa đặng một tháng ngã. Lại nói: "Dẫu ngã mà kiếp sau làm ăn mày cũng chịu. Quan âm, Chuẩn đề đã phú Táo quân dưng sớ tâu trên Ngọc đế phân: "Bỏ lệ chay kỳ là phạm luật Phật, nên phạt tội" Vua phán: "Ngươi nhờ đức tổ phụ và kiếp trước có tu, mà thi đỗ cử nhơn đáng lẽ tu thêm phước đức. Nào hay mê mụi, lung lăng làm dữ, lại nói ngã chay, nguyện làm ăn mày. Đáng lẽ cho hành đủ tam đồ. Song nghĩ ngươi thờ Quan đế với thờ Quan Âm hết lòng thành kỉnh, nên nay xử trảm, cho đặng luân hồi, thay hồn đổi xác, nhập vô thây ăn mày là họ Gia y theo lời nguyện. Còn Kim thục Cô đã đầu thai rồi làm con mọi xóm đồng. Ngày kia trước đi xin cơm tại nhà chủ nó cho nó đánh chết ngươi mà thường mạng thắt cổ hồi đó. Còn hồn họ Gia (coi án trước) nhập vào xác họ Lâm đặng làm cử nhơn, sống hưởng phước tới bảy mươi tuổi . "

Phán quan xướng danh rằng: "Tôi hồn HỌ Hàng mười bốn tuổi". Phán rằng: "Thằng nhỏ nầy, làm những tội chi". Phán quan tâu: "Thằng nầy tuy còn nhỏ, mà chửi cha mắng mẹ hoài hoài . Tội hỗn ấy là tại cha mẹ nó cưng quá, nên nó quên nết hỗn hào, mang tội bất hiếu thấu trời . Khi nó đi học đạp giấy chữ tính tới 37.500 chữ có dư. Thường khi nó ăn cơm còn dư: đem đổ chỗ nhơ uế nữa." Phán: "Con nít không biết gì, ấy tại cha mẹ nó hư, thương là hại nó . Đã phạm luật trời, không lẽ dung đặng . Quỉ Dạ xoa giải nó qua thành lửa mà đốt, không đặng đậu thai."

Phán quan đọc án kế: "Họ Châu ở huyện Tiêu lương, làm hàng trâu bò . Họ Thẩm ở huyện Thạch thủ làm hàng chó . Họ Dương ở huyện Gia ngư, làm hàng heo." Phán: "Ba tên làm hàng nầy, đáng quăng vào Đao sơn Địa ngục". Họ Dương khóc mà tâu rằng: "Tôi có ăn chay ba năm, theo kinh Huyết bồn . Vả lại làm hàng heo, nhẹ tội hơn hàng trâu bò và hàng chó . Xin vương gia xét lẽ tôi nhờ." Phán: "Ngươi ăn chay theo kinh Huyết bồn mà cầu cho ai? Tâu: "Tôi cầu cho mẹ tiêu tôi." Phán: "Tuy theo kinh ấy là phi lý, huyễn hoặc, mà lòng có hiếu đáng khen. Song người có hiếu với mẹ, sao không bắt chước lòng nhơn của trời ưa sống, mà làm heo"? Tâu: "Xin vương gia xét lại, bởi cha tôi bảo nên phải làm . Vả lại heo là thú người hoạn dưỡng mà ăn thịt không công lao với đời . Huống c hi làm hàng heo chẳng ít, ăn thịt heo lại nhiều, xin vương gia rộng lượng." Phán: "Ngươi ăn chay theo kinh Huyết bồn mà có tụng chăng ?" Tâu: "Có tụng ."

Phán: "Người sau bày đặt kinh Huyết bồn, chớ không phải của tiên Phật đặt, phải chí ngươi tụng Kim Cang, chẳng những hồn mẹ ngươi tiêu tội vong hồn ba đời cũng được nhờ . Ngươi có hiếu tụng kinh trẫm trừ tội làm hàng heo, cho qua Đông nhạc, đầu thai làm con trai mần ăn . Còn hàng trâu bò và chó lại đây . Trâu bò cày ruộng mới có lúa cho đời, chó giữ nhà mới còn đồ cho chủ . Chúng nó đều có công với đời, người giết vật có công, không thể tha tội Phán quan tra thử chúng nó giết bao nhiêu chó bao nhiêu trâu bò cày ruộng ?" Phán quan tra bộ rồi tâu: "Họ Châu làm hàng 72 con trâu. HỌ Thẩm làm hàng hết 187 con chó". Phán: "Hàng trâu đầu thai làm trâu 72 kiếp, hàng chó đầu thai làm chó 187 kiếp, thưỜng mạng cho đủ số, rồi giam vào ngục Ngạ quỉ (ma đói) không đặng đầu thai."

Phán quan đọc án kế: "Họ Vưn ở huyện Thạch thủ, mới học làm thầy địa lý . Họ Hà ở huyện Võ Lăng làm thầy coi số và coi tướng". Phán: "Thầy địa lý mập mờ chỉ xấu là tốt, tốt gọi xấu, làm sai sách địa lý. Còn coi số coi tướng, nếu coi không thấu, cũng đoán hoạ phước không nhằm mà khoe thiên văn. Coi số coi tướng có sai cũng không đến đỗi hại người mà phải mắc tội nơi trời . Còn thầy địa lý lôi thôi tuy không mắc tội nơi trời mà làm thiệt hại cho người, là dời đổi tổn hao, lại làm sái động địa cho người mắc hoạ, hoặc hư nhà hại mạng, tuyệt tự, mới là tội lớn, chớ gạt người mà ăn tiền là tội nhỏ . Như vậy phải tính nó mà làm hại bao nhiêu nhà, thì bắt nó đầu thai làm súc vật mà thường bồi cho đủ số, rồi sẽ cầm hoài ngục . A tì. Còn thầy coi số coi tướng, quen thói nói lừa, gạt chúng mà ăn tiền, sau lưng người lại giận cho ít tiền mà mắng lén . Chẳng hề dạy ai làm lành cho khỏi họa mà đặng phước . Phạt nó đầu thai làm thằng câm mà đi ăn mày tới ba mươi tuổi chịu lạnh và chết đói . Rồi sẽ nghị lại ".

Phán quan đọc án kế: "Bảy tên học trò phạm tội, tên thứ nhất họ Văn ở huyện Bành Trạch ...." Phán rằng : "Bảy tên phạm đồng lên đây . Trẫm coi các ngươi đều là ăn học hồi nhỏ, lo thi đậu mà hưởng sang giàu, song có hiểu chút đỉnh đạo lý thánh hiền chăng ?" Các trò tâu: "Cha mẹ với anh tôi dạy chúng tôi hồi bé, lo học mà đi thi, trông thi đổ cho vinh hiển, ở nhà tốt, sắm đất ruộng cho nhiều . Thầy chúng tôi cũng hiền". Phán: "Trẩm nghĩ các ngươi đều có căn trước, thiệt là rất may . Thứ nhứt may đặng làm trai. Thứ nhì may không tàn tật . Thứ ba may đặng tánh thông minh, thứ tư may đặng khóa đậu vào trường chánh . Đặng bốn điều may ấy mà quên căn tu kiếp trước . sao chẳng nghỉ đã đứng vào nghề sĩ, là hơn nghề nông, nghề công, nghề thương. Bởi nghề nông rán sức làm ruộng rẫy, thức khuya dậy sớm cực khổ, tay chưn chẳng rảnh, ăn uống rồi, còn dư bao nhiêu thi` bán cho người ăn, ai ăn hột cơm của nhà nông, điều là nhờ nông phu đổ mồ hôi xót con mắt, mới có của ấy . Còn nghề công làm ra các đồ khí dụng mà bán cho người, thiên hạ điều nhờ cả . Còn nghề thương xuống biển lên nguồn, chở chuyên hàng hoá, mà bán cho đời dùng, khỏi thiếu . Như vậy ba nghề ấy điều có công với người . Còn các ngươi chiếm nghề đứng đầu là nhứt sĩ, có công chi với đời chăng ? Các ngươi hiểu nghĩa lý chữ nhu là thể nào chăng ? Bởi chữ nhơn với chữ nhu bởi người phải cầu nhứt sĩ mà nhờ . Song ngươi cầu mà nhờ các ngươi sự gì có ích cho đời việc chi ? Té ra các ngươi mỗi ngày làm hao của trời đất, xài tiền bạc hàng vải của triều đìng . Biết các việc chơi bời ; khảy đờn, đánh cờ , làm thơ uống rượu . Ăn bận cho nhủn nha, dạo chơi cho khoái lạc . Lại còn ra vào chốn nha môn, lãnh phần lo lót, hăm mộ hàng xóm, ngay sửa ra vạy, vạy sửa ra ngay, làm mất lẽ công bình, các độc ác hại đời chẳng kể xiết ! Nếu thời may thi đỗ làm quan đặng quyền cai trị thì thưa dịp ỷ thế cho đầy túi tham . Mượn cái oai triều đình , trổ cái tài chủ trại .trên dối chúa dưới hại dân .Chúa thánh ban ơn rộng, bị ăn gian nên lê thứ hết nhờ . Dân nghèo chịu thuế sưu,vì hà lạm nên triều đình thiếu dụng . Trăm mưu nghìn kế cho lợi nhà mập thây chớ không lo bày việc lợi dân, mà sửa phong cho hết tệ . Thức khuya dậy sớm mà lo lập thế an dân, như cố ý cô lưu mà chờ hối lô.


Đại Bi Chú
 
NoiVoiDauGoi Date: Chủ Nhật, 08 Apr 2012, 4:17 PM | Message # 6
Colonel
Group: Users
Messages: 176
Status: Tạm vắng
Không cần lễ nghĩa, chẳng hề tu đức thanh liêm, mảng cây mảng cậy oai quyền không thẹn làm điều tà vậy sao chẳng nhớ : người xưa làm chức tú tài đã lo đời, cứ gánh vác việc thiên hạ . Còn các người đậu chức tú tài thì mong ăn của thiên hạ cho lợi mình ! Còn sự nầy đáng ghét lắm : bình thường hay khoe mình là trung hiếu liêm sĩ thấy ai làm một điều chẳng ngay, thì mắng nhiếc quá sức ! tới phiên mình thì quên trung hiếu liêm sĩ, bỏ trôi theo giòng nước , khi trước mắng người không ngay nay ở vậy không cần ai mắng ! Sao gọi là biết tu ố, mà xưng biết sĩ ! Có một trò tâu rằng :' Tôi có công dạy học trò, cũng hữu ích cho thế '. Phán : Ngươi quả thiệt như đức thánh Mạnh tử lấy hiếu đễ trung tín mà dạy học trò sao ? Chẳng qua là bực dung sư , dạy cầm chừng mà hại đệ tử , cả ngày lo ăn thịt , nhậu rượu cho say ; không công mà hưởng lộc , tội lỗi chẳng ít, còn kể công sao ? Ngươi phải họ Ngu ở huyện Tương Dương chăng ? Tâu :' Phải '. Phái :'Ngươi là thày dạy học, sao còn dốt quá, lời không thông . Có lẽ hỏi ngươi rằng : Sát sanh có tội chăng ? Ngươi nói : Không tội gì, Kinh Phật nói : Bất sanh bất diệt , nghĩa là không sát sanh thì nó chẳng đặng đầu thai kiếp khác ! Ngươi mượn chữ kinh mà thích nghĩa bướng, mà xúi chúng sát sanh, thì mang thêm ba tội nặng . Một là mượn câu kinh mà thích nghĩa bướng . Bởi ngươi không hiểu nghĩa bất sanh là không dầu thai nữa, còn chữ bất diệt là không thác, nghĩa là nói tu có trí huệ, có công quả lớn đức hạnh lớn , về Tây phương đặng liên hoa hoá thân chẳng đầu thai theo bực vãng sanh tịnh độ, mà cũng không thác nữa, Phật gọi là chứng quả Niết bàn . Chớ không phải nói nghĩa kỳ chướng dốt nát , giảng ngược như ngươi ! Còn tội thứ nhì là xúi cho chúng sát sanh, những kẻ dốt ưa sát hại , nghe ngươi giảng vậy, nó càng sát sanh hơn nữa . Tội thứ ba là nói nghĩa ngược ngạo không rành . Nếu nói nghĩa ngươi thích đó, thì là bất diệt bất sanh mới phải . Sao câu kinh nói : Bất sanh bất diệt , mà ngươi dám thích nghĩa nghịch tự như vậy ? Huống chi thuở nay, ngươi biếm nhẽ thánh hiền tiên phật , kể tội không xiết ! Học trò phạm các tội khác còn thương tình dung chế đặng . Trừ ra tội chê bai vị tổ tam giáo ( Khổng tử , Thái thượng, Thích ca) thì thiên luật không dung . Quỉ Dạ xoa , dẫn họ Ngu, đến làng Ác khuyển , cho bầy chó dữ xé thây mà trị tội kiêu ngạo tam giáo . Còn một trò nầy hay đặt thơ huê nguyệt, ca huê tình, nói dâm cho gái trai động lòng sanh dâm loạn mới hư phong tục ; tội ấy nặng nề ,trước đánh đòn tám chục roi sắt , rồi kéo lưỡi cắt môi , cầm hoài nơi ngục mới với họ Ngu . Còn năm người tuỳ theo tội nặng nhẹ , cho đi đầu thai . Ba người tội nặng cho đầu thai làm lừa , làm chó . Còn hai người tội nhẹ đầu thai tàn tật ; câm, bại , đui, cùi . Đến lãnh tờ, giải qua vua Đông-nhạc, đi đầu thai lập tức '.

Phán quan đọc án kế :'Họ Viên ở huyện Quan-san, lập tiệm cầm đồ, ăn lời quá phép , mà không chế một ly . Còn trong nhà cho vay, cho giạ non, thâu giạ già . Trong tiệm dùng cân hai đáy (trái cân ), cho ra thì dùng trái cân nhẹ, thâu vô đổi trái cân nặng . Bởi cớ ấy nên giàu bằng Nhà nước . Làm cho trời giận thần hờn . Bị hoả tinh đốt nhà là lửa trời sa cháy tiêu sự sản . Ba mươi lăm tuổi chết yểu , vợ con cũng thổ huyết chết luôn ! Phán :'Ăn lời quá phép, đã phạm tội nơi trời . Huống chi cân lậu, đong nhẹ giạ già giạ non : lường gạt của chúng cho nặng túi tham . Tưởng gạt chúng té ra gạt mình, mong hại đời chẳng ngờ hại mạng . Cả đời lường gạt . của chúng mà còn hay không ? Chẳng giữ lương tâm, ba đời chịu khổ . Tuy bị cháy nhà cửa ; mà chưa hết tội . Giao tờ qua vua Đông -nhạc ; phạt đầu thai làm ngựa trạm thơ, bị chúng cỡi mãi đánh hoài, chạy lao quá cho tới chết . Đầu thai làm ngựa ba kiếp như vậy, mới đặng đầu thai làm người nghèo '.

Phán quan đọc án kế :'Họ Hồng ở huyện Thiện hưng cha làm chức điển lại, ở huyện - Võ Xương, hồi nhỏ họ Hồng bị cha không ưa tức mình cạo tóc vô chùa . Sau phạm luật về thế để tóc, ngã mặn như kẻ ở thế tục . Gập ai cũng xảo , không tiếng thật thà . Sau lưng hay nói hành việc của chúng ! Hay kẽ vạch sự tư tình của người và nói phụ nữ hoa nguyệt , xúi giục gây gỗ thêm thừa thêu dệt nhiều điều , làm những chuyện trái phép .' Phán: ên nầy tội nặng khó dung '. Phán quan tâu : Tên nầy không dữ chi lắm , bị ác khẩu mà thôi '. Phán : 'Tội ác khẩu có ba điều, tên nầy gồm hết . Nói láo về sự tục tĩu , là phạm chữ dâm sĩ , bất thông như đứa điên . Nói láo thêm thừa cho chúng giận nhau mà đâm chém . Nói láo gạt người mà lấy của, phạm chữ tham gian .Té ra một sự nói xảo, mà gây ra chữ dâm , chữ si, chữ sân , chữ sài, chữ tham, chữ giao đạo . phán quan còn gọi tội ác khẩu là tội nhỏ sao ? Truyền xẻ miệng bớt môi , khẽ răng , kéo lưỡi , mà hành tội ác khẩu , tuy còn sống đã phạt tuyện tự , mà chưa hết tội nay phạt cầm , Hoài Địa ngục , không đặng luân hồi '.

Phán quan đọc án kế :' Vợ họ Uông, là nàng Trình thị ở huyện Giang-Hà . Nguyên kiếp trước ăn chay, cữ sát sanh , làm lành , hay bố thí , có hiếu với mẹ chồng nuôi đau hết lòng hết sức, bởi chưa đủ công hạnh , nên cho đầu thai kiếp nầy mà hưởng phú quí làm con nhà quan giàu ; lại gặp chồng lương thiện sanh ba trai hai gái , định số sẽ sống 82 tuổi, không bịnh mà mãn phần . Không dè bị cha mẹ cưng quá, vì con quan, nên quen thói ỏng ảng hồi nhỏ, nhà có tôi tớ nên quen thói làm chủ nhà hay mắng nhiếc hành hạ kẻ dưới tay, tập tánh đã quen nên độc dữ lắm ; đến khi có chồng hiền hậu, thì ỷ thế giàu sang nên chuyên quyền, hiếp chồng quá lẽ . Vã lại quen thói ăn sung sướng, nên sát sanh hại mạng rất nhiều . Cho vay ăn lời quá phép, khắc khổ tá điền, đã bắt làm công không, thất mùa cũng không châm chế chút nào ! Thuở nay chẳng hề bố thí cho bà con nghèo đồng điếu nào, có đâu bố thí cho người dưng . Ngày nào cũng chửi tôi tớ . Đánh chết tớ gái là Vương -nguyệt - Mai, lại còn khoét mắt tớ trai là Trương -hưng -Nhị bị đau nhức tớ chết . Lại còn phạt tớ gái là Ngô-hà -Hương, bắt ăn đậu nành sống cả tô sình bụng ba ngày mà chết ! Còn nhiều đứa tớ khác bị thương tích, tai mũi tay chân môi miệng điều tì hết ! Có kẻ đem sự báo ứng nhơn quả mà khuyên giải thì Trình thị ỷ con nhà lớn quan to, nên mắng nhiếc kẻ giảng nhơn quả và nói rằng :' Ta giàu sang, no ấm áo, con cháu đầy nhà ta thuở nay lại mấy bố thí cho ai, mà phước đó ? Ai tin ngươi nói phải tu nhơn tích đức mới sống lâu tới bảy tám mươi ?' Nói rồi đuổi đi lập tức . Mấy lời ấy Táo quân cũng tâu tới Thiên đình, và lại mỗi tháng chạy tờ về cửa thiên tư mạng chánh, đều biên tội Trình thị đã nhiều . Các hồn oan cũng cáo nữa . Ngọc đế truyền bớt ba kỉ , cho bắt hồn Trình thị đặng trị tội nên mới 46 tuổi mà chết .

Phán rằng :'Không kính trọng chồng, là tội thứ nhứt theo luật trời không tha đặng . Huống chi độc dữ khắc khổ tôi tớ, hại oan ba mạng . Tánh độc dữ hơn cọp không phải lòng người, đáng cầm Địa ngục , không đặng đầu thai nữa .' Phán quan tâu : 'Trình thị nguyên kiếp trước tu hành có hiếu với mẹ chồng lắm .'Còn đời nay người con gái lớn Trình thị , thấy người mẹ hổn với cha, và ở độc dữ, nên tu hành tụng kinh niệm Phật làm phước bố thí, mà cầu cho mẹ tiêu tội, cũng như tu thế cho mẹ nó . Vậy xin vương gia cho luân hồi trả quả, chừng hết nợ trước sẽ xử nữa .' Phán :' Nếu con gái nó tu thế như vậy , thì trẫm tha tội cầm ngụ , cho đặng luân hồi . Kiếp thứ nhứt cho nó đầu thai làm đàn bà nghèo khổ đói rách cả đời, cho hồn Hà Hương vào bụng nó làm quỉ thai đau đớn đến kiếp, tới ba năm phát bệnh điên mổ bụng mình và cắt ruột mà chết , đặng trả quả bắt Hà Hương ăn đậu nành sống sình bụng mà chết . Kiếp thứ nhì , đầu thai làm con câm, ghẻ chốc cùng mình đi xin tới 50 tuổi , ăn cắp gạo nhà họ Trương , bị con gái họ Trương (là hồn Vương nguyệt Mai đầu thai ) đánh chết , mà đền mạng oan kiếp trước . Kiếp thứ ba, làm con gái 18 tuổi , bị du côn (là hồn Trương hưng Nhi đầu thai), đâm đui cặp mắt và đứt gân , lết ngoài chợ xin ăn tới chết, thì trừ mới rồi ba mạng . Trong ba kiếp ấy hành tội câm , ghẻ đói, lạnh cực khổ , đi xin, là đền tội hiếp chồng và làm giàu bất nhơn đó . Như trong ba kiếp chịu khổ , biết ăn năn ở hiền lành , thì sẽ châm chế cho kiếp khác .' Trình thị tâu rằng :' Chồng tôi khờ dại tệ quá , chẳng biết lo việc nhà , tôi không rầy sao đặng ? Xin vương gia xét lẽ phải mà thứ dung '.
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 08 Apr 2012, 4:18 PM | Message # 7
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Phán :'Đàn bà có đạo tam tùng, khi còn ở nhà , tùng quyền cha mẹ, xuất giá tùng quyền chồng , chồng thác tùng quyền con trai, phần phụ nữ không đặng làm chủ . Chồng ngươi là kẻ hiền hậu , ngươi lại chê rằng khờ dại, mà hổn hào khi dễ trăm bề . Đến nước nầy . mà ngươi chưa biết tội sao ?' Trình thị tâu rằng : Tội tôi hổn với chồng đã đáng . Còn như đánh tôi chửi tớ , là tại chúng nó làm công việc không xong, mà lại ăn vụng làm biếng trăm bề hư hết .Vả lại chúng nó tánh ở ngang ngạnh , là tại chúng không vưng theo, ngu mê ám chướng không hiểu việc chị . Tại chúng nó chướng như vậy , là nó bảo phải đánh nó , xin vương gia xét lại .' Phán :' Thuở nay kẻ hầu hạ, tâm tánh chúng nó không phải như người bực thượng . Hoặc là hồn cầm thú đầu thai, hoặc người dữ đầu thai lại, bị mất tánh thông minh, phú tánh ngu độn theo kẻ hạ tiện ; vã lại đầu thai làm con nhà hèn hạ dốt nát , thì tánh nó thô tục ngang dọc , cứng đầu cứng cổ, ngu mên ám chướng, là lẽ trời định tự nhiên . Mình là người , người bề trên , cơn bình thì phải thủng thẳng mà dạy dỗ , đến việc làm, phải thích nghĩa cho rành, và dặn di dặn lại . Dầu chúng nó lầm lỗi, cũng tuỳ tội nặng nhẹ mà răn , lẽ nào nóng nảy mà đánh chửi mãi, đánh quá cho chúng nó hoảng hồn mà phát điên . Sao chẳng xét , chúng nó cũng là con cái nhà lành, vì nghèo quá mới cắt ruột mà bán cho mình làm tôi mọi , tuy tiếng là thầy với tớ , chớ chúng nó cũng như con cái trong nhà, việc ăn mặc , đau mạnh , khoẻ mệt mình phải biết thương chúng nó . Bởi cớ ấy tớ trai cũng như con trai nuôi , tớ gái cũng như con gái nuôi . Lẽ nào ở độc mà khắc khổ ? Giả tỉ con cái ngươi bị người đánh chửi, ngươi có đau ruột hay không ? Còn ngươi cho tôi tớ ăn không no, bận không lành , lại nỡ lòng hành hình trái phép , hại tới ba mạng . Thiệt là không sợ luật trời , còn dám nhiều điều cãi lẽ . Mau dẫn nó đi đầu thai '.

Phán quan đọc án kế :' Họ Châu ở huyện Hớn dương , từ hồi nhỏ lập tiệm bán hàng xén, các trái cây, đồ đồng thiếc và các món nhỏ mọn lẻ loi . Thường dùng giấy chữ mà gói các món đồ bán . Bình thường hay lấy giấy chữ mà chùi bàn ghế , chỗ nào nhơ uế, cũng lấy giấy chữ mà chùi , và quét đổ nơi hầm dơ 24 năm như vậy .

Còn vợ họ Huỳnh, là Khương-thị, ở huyện Hiếu cảm có hai đứa con đi học, mỗi ngày Khương-thị lấy giấy lộn (giấy chữ) để dành bồi hồ bao độn đáy giầy, hoặc đi sông, bồi vách, hoặc cuốn làm rọi để hút thuốc, hoặc vò cho nhừ làm chó lén, huỵch để nhúm lửa; như vậy năm năm.

Còn họ Mai ở huyện Táo dương, là Tú tài dạy học trò hay đạp giấy chữ, các học trò bắt chước, cũng huỷ giấy chữ, chẳng biết trọng chữ, lấy chùi đồ, hoặc đốt mà hút thuốc, làm thường vậy đến 22 năm. Ba tên phạm ấy đồng tội".

Phán: "Trong sách có chữ trời đất quỉ thần, tên ông bà cha mẹ, trong giấy chữ đều có. Nếu không chữ, thì đạo lý chẳng rành, sao có kinh sách? Nếu đạp huỷ giấy chữ, cũng như đạp huỷ trời đất, quỉ thần, thánh hiền, ông bà, cha mẹ . Họ Mai nhờ chữ nghĩa mà hiển vinh, nhờ chữ nghĩa mà no ấm, mà dám đạp huỷ giấy chữ 22 năm, cho các học trò bắt trước, tội ấy về người hết . Ba phạm ấy đều bị cầm nơi Địa ngục không đặng luân hồi ."

Phán quan đọc án kế: Họ Dư ở huyện Miễn - Dương nhà cũng khá, mà ở bất hiếu . Nuôi vợ con ăn mỹ vị, bận đồ tốt, còn cha mẹ ăn bận lấy có . Cha mẹ phiền trách, nó trả lời rằng: "Cha mẹ để gia sản chi đó, mà bắt lỗi nuôi ăn mặc không xứng đáng ? Nó lại mắng thêm, làm cho cha mẹ nó buồn rầu tức tối trọn đời ."

Phán: Họ Dư tuy dốt, há không biết ơn cha mẹ sanh thành nuôi dưỡng, trở lại trách cha mẹ không sự sản, không nuôi cha mẹ, mà lại nuôi vợ con tử tế . Nếu vậy vợ con có để gia sản cho ngươi sao? Ngươi bất hiếu thiệt không bắng súc vật . Phạt nó đầu thai làm trâu ba kiếp, ra sức cày ruộng mà nuôi thiên hạ, chết rồi còn bị chúng xẻ thây, mà đền tội bất hiếu ." Phán quan tâu: "Tên phạm nầy có xí được một trăm lượng bạc, cho lại kẻ làm mất, đền ơn nó cũng không ăn nên kể rủi mất, đền ơn nó cũng không ăn nên kể rủi mất bạc trở ra may, nội nhà khỏi hại . Âm chất ấy cũng đáng chế bớt tội ngỗ nghịch". Phán: "Như vậy thì chết khỏi làm trâu ba kiếp, cho đầu thai làm ăn mày chết đói hai kiếp . Nếu biết tu sẽ hay."

Phán quan đọc án kế: "Vợ họ Lý là Trần thị ở huyện Huỳnh -Mai, thủ tiết, mà bất hiếu với cha mẹ chồng . Cha chồng bóng quáng, mẹ chồng phong bại , Trần thị cho ăn mặc lấy có, đến đỗi đói lạnh mà chết ." Phán: "Đàn bà có chồng, thì tùng quyền chồng, cha mẹ chồng là cha mẹ ngươi. Ngươi đã biết thủ tiết, thì phải ở có hiếu với cha mẹ chồng, thay mặt cho chồng mà nuôi cha mẹ, thì tiết hiếu song toàn . Thời khi còn sống vua quan phong tặng, thác rồi lại đặng thành thần; mới là trọn lành, thần kiêng quỷ sợ . Sao lại phạm tội bất hiếu, đáng đoạ Địa Ngục, không đặng đầu thai." Phán quan tâu: "Nàng nầy giá chồng hồi còn xuân, thủ tiết ba mươi mấy năm cực khổ, xin vương gia châm cho đặng luân hồi ." Phán: "Trẫm cũng vì sự thủ tiết, mở đường mọn cho nó đặng đầu thai làm cho chúng phân thây, mà trừ tội bất hiếu cha mẹ chồng ."

Phán quan đọc án kế: "Họ Hồ ở huyện Lâm-Lương đậu Tú-tài, tánh ở độc bạc, hay nghe lời vợ mà ngỗ nghịch song thân. Lại thấy anh em thật thà dốt nát, nên chia phần ăn để ruộng hèn, nhà xấu, đầy tớ dở cho người anh. Còn chia phần ăn cho người em rồi, sau em thác, em dâu là Lý -thị không con, nên nuôi con người anh cả làm con mà lập tự cho chồng . HỌ HỒ muốn đoạt gia sản của em dâu, nói vu oan rằng : Lý -thị tiếng thủ tiết mà tư tình chửa hoang, dựng chứng đủ cớ . Lại mướn bà mụ nghiệm xét, cũng nói Lý -thị thiệt có thai. Lý -thị tức mình, mổ bụng trước mặt quan mà chết, làm cho nhiều người chứng ăn tiền, đều mắc họa với bà mụ . Như vậy họ Hồ bị ba tội nặng, mau xử mà răn đời ."

Phán: "Họ Hồ đậu Tú -tài, thì đã thông kinh Thi, kinh Lễ, sao mà bất hiếu bất đễ tới thế ?" Tâu: "Tôi hồi còn nhỏ có học kinh Thi kinh Lễ cũng biết hiếu cha mẹ, thương anh em. Tại vợ tôi học hay mà ở độc, nó xúi các việc bất hiếu bất đễ . Tôi dại nghe lời, nhờ vương gia rộng dung." Phán: "Tội vợ ngươi Mã thị, ông Táo và du thần, tâu cáo nơi thiên đình đã lâu, tự nhiên phạt tội một cách nặng nề . Ngươi há chẳng biết; chồng cầm quyền vợ, vợ phải nghe lời chồng dạy, lẽ nào chồng nghe lời vợ dạy hay sao? Nếu ngươi thiệt tình hiếu đễ . Vợ ngươi lẽ nào dám bất hiếu bất đễ . Nay ngươi bất hiếu với cha mẹ, khi anh bất thông hiếp em dâu thất thế mà còn nỡ nào vu oan làm bức cho tiết phụ liều mình ? Thiệt tánh độc hơn rắn bồ cạp, không bằng loài chó heo. Phạt đoạ Địa ngục A tỳ, hành tội liền liền, quăng lên núi đạo, rồi bỏ xuống ao nước sôi, xay giả nấu dầu, thiêu ra tro, rồi huờn hình lịa như vậy luôn, không đặng đầu thai nữa ."

Phán quan đọc án kế: "Họ Lưu ở huyện Bành Ly, hồi nhỏ học thợ mộc, hay ếm mà hại chủ nhà, hai mươi năm như vậy . Hay chửi mưa nắng, vì hư việc của nó ."

Phán: "Ngươi làm thợ mộc, ếm hại chủ nhà . Tuy ngươi ếm người không nổi, song cái lòng độc ác của ngươi, quỉ thần đã ghét lắm . Huống chi mưa gió mây sấm trời đất đều do các vị thần linh cai trị . Sao ngươi dám mắng mưa chửi gió xúc phạm trời đất thần linh. Cớ nào ở độc và điên cuồng đến thế ? Trời sai thiên lôi đánh ngươi chết, mà trừ chưa hết tội: Nay phạt ngươi làm ăn mày câm và điếc, mãn kiếp chết xuống đây sẽ hay."

Phán quan đọc án kế: "HỌ Từ nước Vệ, huyện Kim Sàn . Hồi nhỏ ngang dọc, không tin sự báo ứng tội phước nên không kính thánh thần . Gặp thầy chùa, thầy tu, hoặc ăn mày, đều không bố thí, mà lại mắng thêm.
Lòng ở bất nhơn, hay giết rùa, đập rắn, giết loại trùng dế rất nhiều . Say rượu hay phá quán, đánh lộn ngoài chợ . Lúc say rượu kia, đánh chết đứa con đẻ mà không biết thương."

Phán: "Không có lòng nhơn thương xót, là chẳng phải con người . RẤt đỗi thấy đứa con nít nhỏ, bò gần miệng giếng lòng còn thương, bất nhẫn mà bồng ra cho xa, huống chi con đẻ của mình mà đánh chết ? Hùm dữ còn chẳng nỡ ăn thịt con, lòng thằng này thiệt độc hơn cọp, tuy ở Dương gian đã bị cầm ngục cho tới rũ tù, nay nấu dầu và đốt cho đáng đời, rồi sẽ đi đầu thai làm súc vật ".

Phán quan đọc án kế: "Họ Nhan ở huyện Quan hoá, tánh ở không tốt, hay giấu việc của người, thuật việc hư của chúng . Kể nói cho sướng miệng, không cần việc có việc không . Muốn đọc cho chúng câu, chẳng kể nói chơi nói thiệt . Làm cho đàn ông con trai mất tiếng khen, đàn bà con gái mang danh xấu, những tội ấy kể không xiết, nghị phạt tội cho mau."

Phán rằng: "Họ Nhan là mặt người nói ngay, không cần danh tiếng chúng . Tội độc ác quá rồi, giam vào ngục cắt lưỡi ."

Phán quan đọc án kế: "Họ Giám ở huyện Nghị Thành, đấu Tú -tài, có khoa ngôn ngữ, hay kêu ngạo mắng nhiếc người và nói trây nói nhớp theo việc tục tĩu . Thường lấy các câu trong kinh sách, nói bức khúc, thích nghĩa bậy mà cười, đáng tội lắm ."

Phán: Ngươi đọc sách thánh hiền, lại để ngươi mà giễu lời thánh hiền . Có tài trí thông minh, không giúp việc phải, lại đêm tai trí mà giễu cợt, nói kiêu ngạo cho trời đất ghét, mà tổn đức mình, làm chúng cười một chút, không ích chi cho mình, thiệt là ngu quá! Cho đầu thai làm đứa ăn mày câm cho hết nói nữa!" Phán quan tâu: "Họ Nhan với họ Giám, đều phạm khẩu quá, tội ấy cũng nhỏ xin Vương gia rộng dung."

Phán: "Tội lời nói tuy là nhỏ mọn, nhưng mà bày sự tự, tỏ sự kín của người và lại chưa dọ cho chắc nghe lưu truyền mà nói ra như mắt thấy . Những người hay nói chắc, không vị không giấu, mà nói bóng gió điều chi, ai cũng tin chắc . Huống chi thiên hạ ưa nghe chuyện mới chuyện lạ, phân nửa không tin, chớ tin cũng hết phân nửa, làm cho người hư danh xấu tiết, đến nỗi trên ông cha mang nhục, dưới con cháu hổ hang. Có khi nói chúng tức tối hổ thẹn mà liều mình, tội lớn vô cùng, sao gọi là lỗi nhỏ." Phán rồi y án, không chế chút nào .

Phán quan đọc án kế: "Vợ cho Chúc là nàng Cát thị ở huyện Dực Dương. Tánh hay nghi ngờ, lòng ở độc hiểm hay xui chúng rầy rà, làm cho bà con rời rã, như là: cha con mẹ con bỏ nhau anh em vợ chồng xa nhau. Phàm gặp đờn ông con trai cũng nghi nếu có sự chi mất lòng, thì vu oan cho người ấy là loạn luân. Gặp phụ nữ cũng sanh nghi nếu bất bình thì vu oan rằng nàng ấy ngoại tình lang chạ . Những gái đồng trinh hoặc người thủ tiết, đều bị nó vu oan, dẫu bà con hoặc chí thân, nó cũng không chừa nữa . Nó vu cho Chương thị, Chương thị tức mình phát bịnh thác ! Lại nói vu oan cho người em trai chàng hàng bên chồng rằng chú ấy muốn lấy con gái ! Người em chồng tức mình, nhảy xuống sông mà trầm mình . Mau định tội răn đời .

Phán: "Cát thị tánh hay hồ nghi, lòng độc như rắn bò cạp, lưỡi bén như gươm, lại chúng hư danh liều mạng . Trong đám phụ nữ có loài bất lương ấy, không còn án nào mà hơn nữa . Truyền cắt lưỡi, đục răng, cắt môi cầm tại ngục A tì mà hành mãi, không đặng đầu thai. Phán quan thâu hồn đứa con trai với đứa con gái nó, cho hết dòng thèo lẻo ." Phán quan tâu: "Chồng nó là họ Lương, hiền hậu làm lành, có khắc bản kinh Cảm Ứng in mà cho người, tới 7.534 cuốn, khuyên dạy người đời, cải ác tùng thiện công đức rất lớn, nỡ tuyệt hâu ngươi ." Phán: "Nghĩ chồng ngươi hiền lành, người lành phải có hậu, nên tha cho hai đứa con. Còn ngươi tội ác thái quá, cầm ngục hoài không luân hồi ."

Phán qua đọc án kế: "Phan thị nhan sắc xinh tốt mà tham dâm, chê chồng xấu tướng, lộn chồng lấy các tay điếm đàng, thả lắm đau ghẻ lở mình mà chết ."


Đại Bi Chú
 
NoiVoiDauGoi Date: Chủ Nhật, 08 Apr 2012, 4:18 PM | Message # 8
Colonel
Group: Users
Messages: 176
Status: Tạm vắng
Phán :'Nhơn duyên trời định, có số giàu nghèo . Ngươi là đàn bà xấu nết , không biết hổ thẹn , chê chồng xấu mà lộn chồng , lại ngoại tình lang chạ, Thấy chúng giàu sang tức mình nghèo khó, ỷ mình bóng sắc , chê chồng xấu xa không xét nết lăng loàn mà chê chơn chất , chê chồng già mà mê chồng trẻ, trách cha mẹ định không xứng lứa vừa đôi . Thờ chồng không trọn đạo, hoang nết chẳng nên người . Đứng đường bán dạng thuyền quyên, đánh bóng nhem trai hoang đảng . Tội tà dâm đại ác không dung . Phạt đầu thai làm heo nái hai kiếp, cho đáng tội lộn chồng, rồi sẽ xử nữa . Truyền quỉ sứ cho máy răn sắt nhai nó, rồi cho đầu thai '.

Phán quan tâu rằng :' Hai mươi ba khoản ác phạm cộng 42 án đã xử rồi . Còn Thiện sĩ Lâm tự Kỳ bị bắt lầm bây giờ tính lẽ nào ? Vua Tần Quảng đòi hồn lâm tự Kỳ lại, phán rằng :' Nay đưa ngươi hườn hồn, phải rán lấy lòng thành tu hành cho sấn sướt , trẫm nãy giờ xử các án đó, ngươi đều hiểu chăng ? Tự Kỳ tâu rằng :' Tôi thấy đủ ' phán :' Các sai dịch, đưa hồn thiện sĩ qua vua Đông nhạc , lãnh phê hồi dương đặng thiện sĩ thuật lại cho đời nghe các án trẫm xử đó .' Tự Kỳ tâu: ' Tôi tối dạ nhớ các án không rành . ' Vua ngó phán quan mà phán rằng :' Cho thiện sĩ một hườn thuốc phát huệ ngậm trong miệng mà hồi dương, thì nhớ đủ điều không sót . 'Tự Kỳ lãnh huờn thuốc phát huện rồi tâu rằng :' Tôi cám ơn vương gia cho sống lại, từ nầy tới, quyết ý tu hành song chưa biết cách tu hành đạo đức lóp lang điều nào làm trước cho trúng cách ?'

Tần quảng Vương phán rằng : Đạo là đạo ngũ đạt : chúa tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bằng hữu, cũng trong năm bực ngũ luân chớ không điều chi lạ . Sao gọi đạo chúa tôi: Phàm làm quan thì trước phải ngay chúa thương dân, ở trong trào, hoặc trấn cõi ngoài, điều giữ theo luật cho xứng chức phận, hết lòng hết sức cứ lẽ công bình mà quên tự vị, lo việc nước mà quên việc nhà, ấy là theo bực chức phận . Còn dân giả thì lo cho đủ sưu thuế, không phạm phép nước, giữ bổn phận thảo thuận ngay chính, thiệt thà chắc chắn, giữ theo lẽ nghĩa nhà ở nhơn nhường . Khuyên dạy quê khờ, giữ gìn phong hoá, ấy là tu bực chúa tôi . Còn đạo cha con, làm cha nuôi con thì phải dạy, thương con phải cho nó cần lao . Hoặc dạy sách kinh cho thông đạo lý, hoặc dạy ruộng rẩy buôn bán nghề nghiệp làm ăn ; chẳng nên cưng hư, cho lập lũ tửu sắc hoang đàng bài bạc . Còn làm con, lo nuôi dưỡng kính yêu cha mẹ, việc lớn thì lo ăn học nên danh cho cha mẹ vinh hiển, ở thanh liêm ngay thẳng cho cha mẹ được tiếng khen . Kế đó phải rán hết sức hết lòng mà nuôi cha mẹ, ăn mặc cho xứng đáng, tuỳ theo sức mình giàu nghèo ; giàu sang thì dưng mùi ngon ngọt và chiều lòn cho cha mẹ vui lòng, đừng để cha mẹ bất bình mới trọn thảo ; nếu nghèo khó dầu muối dưa hẩm hút, cũng nuôi cho cha mẹ đẹp lòng, liều thân trâu ngựa mà đền cúc dục . Dẫu nghèo cũng hết lòng cung kính cha mẹ, chớ ỷ một sự nuôi, mà không kính lễ . Còn phải biết thân vóc nầy là thịt xương của cha mẹ chia cho, nên phải thủ thân chẳng dám huỷ hoại thân thể, và cũng không dám làm quấy cho nhục cái vóc của cha mẹ sanh thành, mới là trọn thảo . Ấy là đạo cha con như vậy . Còn đạo chồng vợ phải phân biệt chồng lo việc ngoài, vợ lo việc trong cho trúng cách . Chồng cầm quyền vợ, song phải lấy lễ nghĩa mà đãi nhau đừng bỏ phép mà mầy tao mi tớ . Hoặc chồng ỷ quyền mà đánh hiếp vợ, hoặc vợ vô lễ mà sỉ nhục chồng . Chồng trọng vợ tại đức hạnh, chẳng nên mê sắc, vợ kính chồng như thờ chúa phải giữ đạo tôi . Vợ chồng thuận hoà, thì nên gia đao. Chồng dạy vợ hiền kỉnh cha mẹ chồng, cho dâu sẽ bắt chước . Hoà thuận chị em bạn dâu, thì trong nhà hết sanh nghi . Chồng dạy phải thì vợ nghe, mới gọi xướng tuỳ trọn đạo . Ấy là tu việc chồng vợ, còn như anh chị em cũng một chỗ mà ra, một máu một thịt như tay chơn, thể các nhánh cây một gốc, nếu anh đau như em đau, coi như một vóc, dầu sự may sự rủi, sự vui sự buồn, cũng chung cùng nhau một thể .

Như cha mẹ còn mà anh em hoà thuận thương yêu nhau, thì cha mẹ vui mừng lắm . Tuy cha mẹ đã khuất , ngó tháy anh em, cũng như thấy cha mẹ, thương anh em cũng như thương cha mẹ . Bởi vậy tuy anh em bất hoà mặc lòng, nếu người dưng đánh anh em, cũng nóng ra mà binh vực, lấy đó mà suy, thì anh em là thiết lắm . Nói tắt một điều : cha mẹ anh em là trời định, không đổi dời đặng . Còn vợ con là ở sau, tại nơi người định, nên đổi dời đặng .Vì vậy chẳng khá trọng vợ con mà khinh anh em, chớ khá vị tình sau maquền nghĩa trước , thì tu việc anh em rồi . Còn bậu bạn cũng đứng vô năm bực nhơn luân là cớ nào vậy ? Mình chưa làm việc lỗi, nhờ bạn trách mới bỏ . Việc nên hư lợi hại phải quấy của mình, có khi cha mẹ vợ con nói không được , vì không nỡ nói , mà bạn dám nói . Việc tâm phúc của mình , có khi cha mẹ vợ con nói không được , mà bạn dám nói . Có việc cấp nạn , cha mẹ vợ con cứu không được , mà bạn lo được cứu được . Cho nên con người không nên chẳng có bạn đạo nghĩa . Cho nên kết bạn , nói phải chắc chắn nhìn lời : lâu ngày cũng chẳng quên nhau . Lo việc cho bạn , cứu cấp cho bạn . Mình ở cho trọn đạo với bằng hữu , tự nhien bằng hữu giúp ích lợi cho mình . Tu xong cái đạo bằng hữu, năm bực đạo nhơn luan trọn rồi . Xin thiện sĩ rán lên một bực . Ấy là lời quê cạn của trẫm, truyên dạy người đời, nghe cho mau hiểu rán sức mà làm . Nói tắt một điều, người tu hành chẳng luận bỏ nhà hay ở nhà, gái trai già trẻ, cũng không luận sang hèn giàu nghèo, hoặc trôi nổi hoạn nạn, không người nào mà tu chẳng được, không chỗ nào mà tu chẳng được, không thuở nào mà tu chẳng được . Tại nơi mình tuỳ theo bổn phận, trong lòng cho an . Mình có dư, coi như còn thiếu, chớ sanh lòng kiêu căng xài phí quá chừng . Mình tuy thiếu, coi như có dư, đừng sanh dạ tham lam ước mơ quá lẽ . Ở với người, cứ một chữ DUNG, trị trong nhà nhớ trăm câu NHỊN .
Nếu ai ở điều chi quấy quá, mình hết lòng tìm kiếm cho ra chỗ phải của người . Mình ở điều chi phải nhiều, mình hết sức xét suy cho ra chỗ phải còn thiếu . Lo cần kiệm là đầu sanh lý, giữ hiếu đễ là cội tu thân . Lại còn bố thí giúp đời, làm lành chẳng mỏi . Làm đặng vậy trọn đời; gìn chay tốt không gìn cũng tốt, niệm Phật linh, Không niệm cũng linh .' Tự Kỳ:'Phải có của mới bố thí đặng, nghèo mới biết làm sao ?'Phán rằng : Sự bố thí chẳng phải rặt ròng có của, lấy của bố thí là thí cho kẻ nghèo ngặt . Nếu sức mình không dư, mà cho kẻ đói một chén cơm, cho kẻ khát một bát nước, cũng gọi là bố thí . Hãy còn nhiều cách bố thí mà không tốn của . Như kẻ đương lo sợ, mình dùng lời dịu giải khuyên cho hết sợ, gọi là vô uý bố thí .

Còn những người mê đắm, không biết ăn năn, mình khuyên giải cho tỉnh lại hết lầm, gọi là vi pháp bố thí . Nếu có việc chi tiện cho đời, thì mình ra sức, việc bất tiện mình lo dùm cho mên, gọi là phương tiện bố thí . Nếu người ta tranh đua, thưa kiện, mà mình thích giải hoà, gọi là giải kiết bố thí . Trong lòng bất nhẫn hay thương người, gọi là tâm điều bố thí . Các điều đã nói đó, là bố thí lời nói với công làm lựa phải có tiền bố thí '. Tự Kỳ tâu: Cứ theo thầy chùa nói : phải ăn chay niệm Phật mới gọi là tu hành .' Phán rằng:' Ăn chay niệm Phật, là ép xác sửa lòng . Chớ ăn chay có ích chi cho Phật . Còn niệm Phật lại lợi chi cho đời, Miễn là làm mười điều lành, lánh mười điều dữ, thì đủ rồi .Nếu ăn chay niệm Phật mà mười điều dữ không bỏ,mười điều lành không làm, chẳng những không phước không công mà lại nhiều tội nhiều lỗi . Vậy chớ mười mấy sãi hồi nãy, cũng ăn chay niêm Phật , mà cũng bị giam Địa ngục, ấy là không phải chơn tu, Nếu chơn tu thì sửa mình giữ đạo là thứ nhất, bố thí ăn chay thứ nhì . Cái nào cũng quí tại chữ tâm : bố thí khó tại lòng nhơn, không khó đều ra của ăn chay khó tại lònh chánh, không khó miệng cữ kiêng . Cho nên nhà nghèo bố thí một đồnh tiền, cầm đáng ngàn đồng nhà giàu có . Nhà giàu có ăn chay một bữa, cũng bằng chay một tháng nhà nghèo, là lấy chỗ khó ít nhiều mà tính phước, nếu rán chịu khó cho lắm, mới thiệt lòng thành tu hành .'Tự Kỳ tâu : Sao gọi trong kinh Kim cang có bốn câu kệ quí ?' Phán :' Nghĩa nầy mắc lắm, trẩm giảng ký, thiện sĩ nhớ cho rành, Kinh Kim Cang 32 phần, phần thứ năm :
Phật cáo Tu bồ đề : Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như lai .'
Nghĩa là : Phật Thích Ca dạy ông Tu bồ Đề rằng : Phàm việc chi có hình tướng đều là sự huyễn sự dối . Nếu thấy cái tướng nào không phải tướng, thì là thấy Phật như lai .'Bởi Phật không chịu hình tướng, không bày điện, cứ không ngỡ là quí .
Phần thứ ba dạy phép không tâm (trong lòng không);
Tu bồ Đề nhược Bồ tát hữu ngã tướng, nhơn tướng chúng sanh tướng thọ giả tướng, tức phi Bồ tát .
Nghĩa là : Nếu phật Bồ tát, mà có ngã tướng là lòng tham, nhơn tướng là lòng sân giận, chúng sanh tướng là lòng si mê bất thông, thọ giả tướng là lòng nịnh ái đắm sa, thì không phải là Phật Bồ tát '. Vì trong lòng không 4 điều ấy .

Phần thứ 26 giảng phép không có thân ( mình không) .
Nhĩ thời Thế tôn, nhi thuyết kệ ngôn :
Nhược dĩ sắc kiến dĩ âm thinh câu ngã .
Thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai .
Khi ấy Phật Thế tôn ( Thích Ca) ngâm bốn câu kệ rằng :
'Nếu lấy hình tướng có sắc mà muốn thấy ta, hoặc lấy âm nhạc tiếng ca ngậm mà muốn thấy ta thì người ấy làm đạo tà . chẳng thấy Phật Như
Lai đặng '. Phật dụng cái tâm thanh tịnh vô hình, chớ không ưa hình tướng .
Phần 32 (phần rốt) dạy phép không việc đời :
Nhứt thiết hữu vi phát, như mộng huyễn bào ảnh,
Như lộ diệc như điển, ưng tác như thị quan .
Nghĩa là : Hết thảy các việc có hình làm ra thì giả như chiêm bao, bọt nước, cái bóng của mình như móc sa trên ngọn cỏ, như chớp nháng đều không bền lâu, thấy đó mất '. Các việc hữu tình, đều hư huyễn như
vậy, nên Phật trọng vô hình .
Trong phần ấy, Phật có dạy câu nầy:
Bất thủ ư tướng, như bất động .
Nghĩa là : ' Chẳng dùng binh tướng, trơ trơ chẳng bận
lòng .
Lại trong phần 18, Phật dạy bỏ ba lòng :
Tu bồ Đề, quá khứ tâm, bắt khả đắc .
Hiện tại tâm, bất khả đắc .
Vị lại tâm, bất khả đắc .
Nghĩa là :'Không nên nhớ chuyện đã qua . Còn hiện tại bây giờ, không nên vọng tưởng . Sẽ đến đừng mơ ước '. Phải để tâm cho thanh tịnh thì không tội, mới đặng theo Phật Như Lai, Phật xưng là Như Lai vì trong phần 29, Thích Ca nói : Như Lai giả, vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ,
cố danh Như Lai .Chữ Như Lai là tự nhiên cái tâm, không phải ở đâu mà đến và cũng chẳng đi đâu . Nên gọi tự nhiên như vậy .
Vua Tần Quảng thích nghia các bài kệ và các câu yếu lý trong kinh Kim cang,rồi phán rằng :' Nếu thiện sĩ về tụng thêm cho đủ một tạng kinh Kim cang (5.818 biến) và dem các bài kệ ấy giải nghia cho nguời nghe hiểu đạo Phật, không cần cúng chùa, quí t?i chừaa tham sân si ái bốn tội và bỏ ba cái lòng vọng tưởng, nh? c?u, mo uớc việc chưa tới, ch?a d? không lòng vọng tưởng tà vạy, là sửa lòng tu mình, khỏi tội mà đặng thành chách quả Ít nữa cũng được hưởng phước kiếp sau . Nếu người nghe
mà cải ác tùng thiện, thì công của thiện sĩ lường không xiết, sẽ đặng siêu thăng'.
Tự Kỳ tạ ơn, rồi tâu rằng :' Tôi cám ơn vương gia cho sống lại và nhờ ơn dạy bảo,
thắp hương mà lạy hoài đền ơn cũng không xứng . Còn các vị thần sở tại chỉ lầm,
e bị tội lỗi xin vương gia rộng dung cho chư thần '. Phán :' Trẩm y lời miễn chấp .
Thiên sĩ hồi hương rán hết lòng làm lành, nhớ lời trẩm dặn '. Phán rồi truyền bốn
quỉ sứ, đưa hồn Tự Kỳ, về tối cõi dương gian, giao cho các thần sở tại, đem hồn
cho nhập xác .
Khi ấy Lâm tư Kỳ sống lại, như tỉnh giấc chiêm bao, kêu tiểu đồng, n gười nhà
xúm lại cho uống nước trà, trong miệng Tự Kỳ bay ra mùi thơm lạ (ấy là hơi
thuốc Phát Huện) . Xóm làng tới thăm đông lắm, đều hỏi thăm việc Âm phủ mà
nghe, vì từ xưa đến nay, chưa thấy ai thác đi sống lại, Tự Kỳ bảo đem giấy mực
lại, cứ việc vẽ hình vua Tần Quảng với phán quan xử 42 án . Rồi để các án theo hoạ đồ, gọi là cuốn Hồi - Dương Nhơn - Quả . Ai nấy xem thấy đều hãi kinh, nội châu huyện quan dân đều đến xem sự lạ, thấy xử các án công bình, mới biết từ xưa
đến nay, sự báo ứng không sai một mảy, mới tin Địa ngục rõ ràng, hồ nghi huyễn
hoặc, nên nhiều người cải ác tùng thiện . Trong lúc ấy nhằm ngày mồng chín tháng ba, năm Mậu Ngũ, trong niên hiệu vua Gia Khánh trào Thanh .
Lâm tự Kỳ với người háo thiện, sao lục cuốn nầy mà cho thiên hạ coi, đua đậu
tiền mướn khắc bản, vân vân .
 
LongTracAn Date: Chủ Nhật, 08 Apr 2012, 4:19 PM | Message # 9
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
NHƠN-QUẢ LỤC LINH NGHIỆM KÝ

(Biên các sự linh nghiệm kinh Nhơn-Quả nầy)

1.__ Uông-Nguyên ở huyện Tiền Đường, mẹ già,

còn y đã ba mươi tuổi, mà không con, cha là ông Tinh-Hư, tính khắc bản
kinh Hồi Dương Nhơn Quả, chưa khắc đặng mà phần . Uông-Nguyên
muốn cầu cho mẹ đặng sống lâu và cầu con luôn thể, nên bán ruộng
mà mướn khắc bản . Mới khắc nửa cuốn, mà vợ đã có thai đẻ con trai . Rủ thêm các vị háo thiên Ngại - Khởi vân vân, phụ tiền in tới muôn cuốn mà cho người . Đêm kia Uông-Nguyên chiêm bao thấy hồn cha về khen rằng :' Con noi ý cha, cha đã siêu thăng về cõi Thiên đường . Còn mẹ người sẽ trường thọ . Các vị phụ in, đều đứng tên vào sổ Thiên tào '. Sao gia đạo càng ngày càng khá, mẹ sông gần trăm tuổi .

2.___ Triêu-Bích đi thi đậu về, thấy hồn vợ hiện dọc đường đón

chồng khóc rằng :' Thiếp hay sát sanh, thường làm nham cua lắm . Nay hồn xuống âm phủ, phạt bỏ vào núi Giải - san, bầy cua kẹp ngày
đêm khổ sở . Tại âm phủ trọng kinh Hồi - Dương Nhơn -Quả lắm .
Tôi xin cho hiện hồn về, cậy tả bảy cuốn cho người mà chuộc tội '. Triệu -Bích về tới nhà mới hay vợ chết đã chôn rồi . Liền sao tả kinh nầy,
mới được hai bổn mà cho lần . Kế đi viếng mả vợ gặp ông già xưng là thần núi nói rằng :' Vợ ngươi nhờ phước cho kinh, đã đặng đầu thai rồi .

3.___ Vương -Phụng là thầy thuốc huyện Thoại -An, cữ sát sanh, lại

phóng sanh nữa và hay mướn khắc các bản kinh khuyến thiện . Ngày kia
bịnh ngặt, chiêm bao thấy hai quỉ sứ bắt hồn dẫn đi đặng nữa đường , ngó lên thinh không có ba vị, một vị mặc áo vàng nói rằng : ' Ấy là Vương - Phụng hay khắc bản kinh in cho thiên hạ, mau thả hồn ra '. Hai quỉ y lời . Vương -Phụng tỉnh dậy thuận chuyện, mạnh giỏi như thường, nên lo việc in kinh làm lành . Sau tu thành tiên .

4.___ Dương -Sâm là tấn sĩ ở huyện Huỳnh -nham . Lúc chưa thi

đậu, thấy trong làng khắc bản kinh Cảm Ứng và kinh Hội -Dương Nhơn -
Quả mà in cho người . Dương-Sâm xét mình ít tiền thấy tấm bản số 17
chưa khắc, xin chịu tiền nội một tấm ấy . Tối chiêm bao thấy ông thần mách bảo rằng :' Cho chàng trúng theo số bản kinh '. Sau thi đậu tấn sĩ
thứ 17 . Lấy đó mà suy : khắc bản kinh không luận tiền nhiều ít, quí tại
lòng thành .

5.___ Phương thời Khả ở huyện Hưu Ninh, nhà nghèo mà hay bịnh .

Gặp người lạ nói rằng : Ngươi nghèo mà không con, số có 36 tuổi . Nếu
muốn đặng phước, thì phải làm lành '. Thời -Khả về rán sức khắc các bản kinh, quyết in cho thiên hạ . Khắc mới phân nửa, bịnh giảm năm phần, khắc rồi thì hết binh. Sau sanh hai người con trai, lớn đều vinh hiển . Thời - Khả cũng đặng sống lâu .

6.___ Trần tông Hiên ở huyện Ngô - Môn, năm Canh Ngũ trào Vua -
Gia Khánh, tháng mười một nội xóm rong thành bị lửa cháy . Người trên
thành ngó thấy có một người lớn cao, đứng trên nóc nhà Tòng Hiên mà chữa lửa, Ai nấy đồng lấy làm lạ . Không bao lâu các nhà xung quanh đều bị cháy hết, trừ ra một nhà Tòng hiên khỏi cháy ! Ai nấy đều hỏi thăm vì cớ nào mà khôi bị hoả hoạn ? Tòng Hiên nói :' Trong nhà có bản Cảm Ưng và bản kinh Hồi dương nhơn quả, không biết phải nhờ đó
mà khỏi chăng '.

7.___ Huyện Tiền Đường có ông văn học giỏi, là Hứa đình Du, hay
tụng kinh Cảm Ứng, để thờ trên bàn, lối xóm coi theo mà ở . Đêm nọ ăn cướp tới dộng cửa, chúng nó xây xẩm, không thấy đường mà vô, hoảng hồn bườm hết . Sáng Đình Du hay sự ấy càng cám ơn thần, khắc bản ấn thí nhà càng khá hơn .

8.___ Cống sanh (cử nhơn ) họ Uông, ở huyện Lạc Hiệp, ngày nọ chiêm bao thấy vào chùa ông Văn Xương ĐẾ Quân, có đôi liễn :

Thiên thượng chủ ti hữu nhãn, đơn khán tâm điều :

Nhơn gian văn tự vô quyền, toàn bằng âm đức .

Nôm : Chủ tể trên trời có mắt, cứ ngó lương tâm :

Văn chương dưới thế không quyền, trọn nhờ âm đức .

Họ Uông ý muốn khắc câu đối đó vô thiện thơ (kinh ) mà cho đời hiểu sự chiêm bao thấy liễn Đế Quân nhứt định sự đậu rớt như vầy mà sửa lòng . Bỗng thấy ông thần bước ra vòng tay nói rằng :' Lệ thương in
một trăm cuốn thiện thơ cho người, thì sống thêm một kí (12 tuổi ) . Nếu in thêm đôi liễm nầy vào, cho đời rõ tìch thần thánh thưởng phạt, tin mà sửa lòng, phước thọ nhiều lắm '.

9.____ Tạ thiệu Thuyên ở huyện Huyễn Bình bốn mươi tuổi mà không
khong con, lấy làm rầu lắm . Có người khuyên y cho vay đừng ăn lời nặng, rán làm nhiều việc lành, và khắc bản in kinh cho người . mà cầu con thì đặng . Thiệu Thuyên tin lời làm liền . Vợ bịnh yếu đặng mạnh, sau sanh ba đứa con trai đều mạnh mẽ . Vợ chồng tin sự linh nghiệm nên làm lành thập bội hơn xưa .

10.___ Họ Ngô ở Hàng Châu làm chức võ, sức mạnh đánh quờn hay
lắm . Ngày nào cũng xúi chúng kiện thưa và ra tay giúp sức . Ngày kia họ Ngô đi với chúng bạn, ngồi nghỉ tại cầu Liên Kiều, gần cửa chùa ông
Tưởng tướng công . Ngó thấy trong chùa có một người đương coi đọc
kinh Hồi Dương Nhơn Quả . Họ Ngô cười và ngạo rằng :' Kinh ấy là nói
gạt đàn ông dốt, đàn bà quê, chớ như bực văn học viên quan lẽ nào chịu
đọc và khen ngợi ! Thức cười cho ông văn học hồi trước, bày đặt điều
huyễn hoặc làm chi ? ' Nói chưa dứt lời, vùng té nhào hộc máu cả chén !
Bạn hữu hỏi thăm, họ Ngô nói :' Thấy con quỉ lên cốt đứng dựa bàn thần, nạt lớn một tiếng, hết hồn mà té '. Cách ba ngày sau họ Ngô thác . Trương -đảng -Ngọc ở huyện Tiền Đường thấy tận mắt mà thuật
chuyện ấy lại .
11.___ Niên hiệu Gia Khánh, năm thứ 12 . Trương tử Anh có một đứa
con trai lên bông bịnh nghịch . Mấy thầy thuốc chạy hết . Tùng cậy họ
Khuôn thỉnh tiên, đặng xin toa thuốc . Uống tuy khá mà mỏng còn lở lầy
Thỉnh tiên nữa . Ngài cho toa thuốc rắc và dặn như vầy :' Đứa nhỏ nầy số vắn, tuy cho thuốc lành mạnh, sau cũng khó nuôi . Ngươi phải rán làm phước, cầu trời cho thêm tuổi . Đám Nghê tượng Hồng ở ấp này mới
khắc bản Hồi Dương Nhơn Quả, ngươi phải phát tâm in ba trăm cuốn mà
cho người thì nuôi đứa con ấy mới được '. Tử Anh y lời, thiệt con mạnh .
12.____ Kim biên Tam tự Chấn Tổ, ở huyện Hữu Ninh . Thuở nay làm điều chi cũng giữ theo kinh Cảm Ứng với kinh Hồi Dương Nhơn Quả
làm gốc . Nếu gặp ai làm dữ, thì hết sức giảng dạy khuyên can . Mùa thu năm Giáp Tuất, đi qua đò xứ Nghiêm lăng sông, Thất lý, bị lão lớn quá gãy bánh lái hư ghe thiếu chút mà chìm đò . Bộ hành ai nấy kinh hãi . Xảy đâu ngó thấy trong đám mây đen có ông thần bận giáp vàng tay cầm cờ đỏ, phất và nói lớn rằng :' Trong đò nầy có ba người tu theo
kinh Cảm Ứng với kinh Hồi Dương Nhơn Quả, phải bảo hộ cho an '. Các
người trong đò đều xúm lại, vì đồng nghe đồng . Chủ đò hỏi thăm nội bộ hành trong đò, có ai tu theo kinh Cảm Ưng với kinh Hồi Dương Nhơn Quả ? Thì có họ Hứa ở phủ Nam Xương, họ Du ở huyện Gia Hưng, với ông Kim chấn Tổ là ba vị .


Đại Bi Chú
 
NoiVoiDauGoi Date: Thứ Tư, 11 Apr 2012, 8:16 PM | Message # 10
Colonel
Group: Users
Messages: 176
Status: Tạm vắng
13.____ Cung giai Dĩnh ở huyện Võ lâm, vợ là Lý thị, mang bịnh bĩ mãn (lớn bụng) hai mươi năm, mỗi lần đau bụng gần chết, cũng giống bịnh cổ trướng, uống các thứ thuốc không hết . Giai Dĩnh vào chùa Văn
xương Đế quân lạy vái, nguyện khắc bản kinh Âm chất và kinh Hồi Dương Nhơn Quả, in với các thiện thơ cho người vái cho vợ lành bịnh .
Hèn lâu Lý thị mới mạnh . Còn em ruột là Cung giai Uý, vợ là Từ thị nghén song thai, giờ Thìn đẻ một đứa, còn một đứa trong bụng tới giờ Dậu, mà chưa ra, mẹ con mệt xỉu, nội nhà hãi kinh . Giai Uý vào chùa Văn xương, quì lại nguyện in thí kinh Âm chất chú giải, Hồi Dương Nhơn
Quả, năm trăm bộ cầu cho vợ sanh thai mạnh khoẻ . Thiệt sanh mau mắn mẹ con đều bình an . Còn người chú là Cung chương đau bịnh trĩ
(ghẻ dưới giang môn), mấy năm ngồi thì đau nhức .Lạy Văn xương đế
quân, cầu cho hết bịnh thì in kinh . Vái rồi lạnh mình bắt run như rét trong bụng lạnh ngắt như uống nước đá lần lần hết bịnh .
14.____ Quan hình thơ là Thẩm lộc Minh ở huyện Tát, phụng chỉ về Kinh đô, vợ phát bịnh nặng . Lộc Minh lạy cầu Văn xương đế quân xin cải ác tùng thiện lo khắc bản in kinh . Người nhà vào chùa kêu Lộc Minh
nói bà đã tắt hơi . Lộc Minh về nhà, vợ sống lại nói : 'Thiếp bị quỉ bắt dẫn đi, nửa đường gặp ông thần, xưng là Trị nhựt công tào, nói rằng người chồng có vái nên Đế quân bảo tha về '. Nhằm ngày 19 tháng 6 . Đạo quang năm thứ ba .
15.___ Hạ Chi sanh ở huyện Trường giang, ngụ Kinh đô nhớ mẹ già ở nhà 70 tuổi . Rằm tháng bảy, năm Quí Mão vào lạy Đế quân, nguyện in kinh Âm -chất với kinh Hồi -Dương Nhơn Quả cho đời, cầu mẹ trường thọ mạnh khoẻ . Không bao lâu đặng thơ nhà gởi qua nói : Mẹ đau phát
bối đã lâu, rằm tháng bảy vùng hết".
16.____ Lưu-quân-An ở xứ Dương-Châu, làm chức tùng sự theo quan Lại bộ . Mẹ theo ở Kinh-đô, phát bệnh mê mẫn . Quân-An ở xa chùa Văn -đế, nên chồng ghế lên cho cao. Đầu canh năm lên ghế cao, lạy ngay phía chùa Văn-xương đế -quân cầu cho mẹ mạnh, thì khắc bản kinh in cho thiên hạ, giây phút bà mẹ tỉnh hồn nói rằng : "Ta bị một con quỉ bắt đi theo cả trăm tội nhơn bỏ tóc xoã, mặt mày lem luốc . Xảy gặp ông bảo tha một ta về, nên mới tỉnh lại ." Nói rồi khoẻ lần, không uống thuốc mà mạnh .

Hồi -Dương Nhơn-Quả lục

Chung

 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 11 Apr 2012, 8:16 PM | Message # 11
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
TỪ - ÂN NGỌC - LỊCH MINH KINH

LỜI TỪA CỦA TÔ LAN TỰ NHƠN THU


Kinh Ngọc Lịch nầy , gốc thầy tu hiệu Đạm - Si, gặp thần Phật truyền bổn nầy, về giảng cho đời hiểu . Sau truyền lại cho đệ tử là Vật Mê đạo nhơn (thầy tu để tóc) lưu truyền đã lậu, giảng điều quả báo minh bạch .
Ngặt người đời, kẻ tỉnh ăn năn thì ít, mê mà không tin thì nhiều . Chê lành nhỏ mà chẳng làm, làm dữ nhỏ không sợ . Cũng có người : đã biết
tội xưa, muốn chừa lỗi cũ . Chưa làm lành bao nhiêu, mà mong đặng phước gặp sẵn dịp dễ lắm liền cải lương tâm ! Trách chi ông thánh nói : '
Người khác hơn cầm thú có bao nhiêu !' Thiệt là phải lắm . Coi các vị giàu sang trên đời, đều có căn lành theo Ngọc Lịch . Còn kẻ khó hèn, tuy tại tội kiếp trước, song cũng phạm trong Ngọc Lịch . Người sống bao lâu, ăn năn sao kịp ! Kinh Diệc nói :'Coi làm việc lành, xảy gặp phước tốt '. Kinh thơ nói :' Làm dữ cầu may ví như đạp nhằm đuôi cọp, hoặc đi
trên giá mùa xuân, có khi tan ra nước mà sụp '. Lại nói : ' Làm lành, trời cho phước xuống, làm dữ, trời cho hoạ xuống '. Phàm làm người việc nào đã thấy trước con mắt chẳng sai, thì chớ lôi thôi lây lất . Tôi chưa dám chắc mình là không quê, song cầu cho khỏi tội nghiệp mà thôi .
Niên hiệu vua Gia Khánh, năm Kĩ Mão thánh 11 .

lỜI TỰA CỦA KIM - DẦN Ở HUYỆN TIỀN ĐƯỜNG

Người quân tử lập thân, làm việc nào mà không lành .
Miễn giữ theo lương tâm trời phú, cho khỏi tội với trời đất quỉ thần mà thôi . Nếu muốn làm gì thì làm, không sợ phép trời, chẳng tin báo ứng, thì càng ngày càng tệ, còn dạy nỗi gì ? Tuy ông thánh nói :' Làm lành trời trả phước, làm dữ trời trả hoạ .' Họ nói :' Lành không chắc phước, dữ không chắc hoạ '. Như vậy các án trốn khỏi lưới dương gian, chẳng
là bỏ qua sao ? Đời tệ như vậy, người quân tử mới giảng làm sao ? Nay
có kinh Ngoc-Lịch truyền ra, khắc bản tới lần thứ tư , dạy dự phòng nghiêm nhặt, giảng quả báo rõ ràng, ai đọc tới cũng giựt mình sợ tội . Làm lành tuy không cần phước mà có phước, làm dữ sợ hoạ cũng không
khỏi . Nếu không biết kiêng có trời soi xét, thì làm dữ luôn luôn . Xem kinh nầy mỗi việc coi như có thần biên tội phước, ở phải thì ngó trời đất,
mình cũng không hổ thẹn là đủ rồi .
Niên hiệu Đạo -quang, năm Nhâm ngũ, tháng 9 .

LỜI DẶN CŨNG CỦA ÔNG KIM -DẦN

Kinh Ngọc -Lịch này, ghi xét công quả, phân biệt ngay gian,
linh hiển rõ ràng, quả báo trước mắt . Ai làm lành thì đặng phước, ai làm dữ thì mắc hoạ . Kẻ dữ mà ăn năn cải ác tùng thiện, lâu ngày cũng đổi hoạ ra phước . Lời dạy rẽ ròi, dẫu đàn bà con nít, nghe cũng hiểu mà giữ theo . Nếu ai không tin, gọi chuyện đặt điều, như phụ chiếc thuyền
lành với mình cơn té sông, không chịu leo lên, thì phải bị chìm nơi biển
khổ, sa Địa ngục đã lành rồi . Tôi ước ao cho các vị quân tử, để cuốn kinh này trên bàn, dựa đầu nằm, hằng ngày xem đọc, mắt thấy lòng ghê, thì răn mình không dám làm quấy . Như vậy thì hiệp theo lời thánh
dạy, lành gặp phước, dữ mang tai . Nếu chừa lỗi làm phải cho trọn lành,
tôi mừng giùm lắm .

PHỤ TRẠ NIÊM HIỆU KINH NGỌC LỊCH

Thầy Đạm -Si là Hồ -Tăng sãi nước Hồ, nước Liêu .
Tên Kinh -Ngô, năm canh ngũ, nước Liêu, niên hiệu Thái Bình thứ mười .
Nhằm trào Tổng, vua Nhơn- Tông, niên hiệu Tiên -Thánh thứ
tám, năm canh ngũ, ngày trùng cửu . Đạm -Si đi núi gặp kinh Ngọc -Lịch .

KINH NGỌC -LỊCH

ÔNG TỬ HOÀNG LÀ THẦN ĐÔNG NHẠC DẠY :

Trời đất không tư vị, thần minh hay xét soi . Chẳng vị cúng tế mà cho lành, không trách thiếu lễ mà cho hoạ . Có quyền đừng
ỷ thế lắm, giàu sang đừng xài phí lắm, nghèo khó đừng dối trá lường gạt
tham gian . Bởi vì ba bực ấy, trời sẽ cho luân phiên xây vần, giáp vòng trở lại banđầu như đồng hồ vậy . ( Nếu có quyền mà ỷ thế quá, thì mau
hết thế, tới thất thế sẽ bị báo cừu . Giàu xài phí quá thì hưởng mau hết
phước, trở nên nghèo mà chịu khổ . Còn kẻ nghèo nếu biết kiếp trước tội nặng, nay chịu trả quả, phải ăn năn thủ phận không dám làm quấy,
hết vận bỉ, tới vận thới, trời cho trở nên khá nếu liều mạng gian tham,
trí trá lường gạt giựt của chúng, là buộc thêm tội, trời phạt chồng án tới
già, e để hoạ dư cho con cháu khổ nữa, vì phạt dời mình chưa hết ) . Cho nên mới làm lành một ngày, tuy phước chưa tới, mà hoạ đã lánh xa
(như tai qua nạn khỏi ) . Hoặc mới làm dữ một ngày, tuy hoạ chưa tới, mà phước đã lánh xa (như sẽ gặp) sự may, mà khiến ăn trược ) . Người làm lành như vườn cỏ mùa mưa, tuy chẳng thấy lớn, mà càng ngày tốt tươi . Người làm dữ như đá mài dao, tuy chẳng hao, mà càng ngày mòn mổi . Phải nhớ mà răn lòng điều nầy, đừng làm những việc tốn của người
cho đặng lợi mình, phải cữ kiêng cho lắm . Thà làm một mảy lành, tìm
phương giúp cho tiện sự người cơn bất tiện .Khuyên người chớ làm một mảy dữ . Ăn mặc tuỳ theo bổn phận, độ cho vừa sức mình tự nhiên vui vẽ, lựa là còn số mạng làm chi ? Xin xăm sủ quẻ bói khoa, mà hỏi hoạ phước làm chi ? Ta nói sự hoạ phước, chắc cho đời rõ như vậy ; khinh khi gạt người thì mắc hoạ, độ lượng rộng và hay dung người thì đặng
phước . Nếu nghe lời ta mà ở theo, quỉ thần kính phục , thiên hạ kiêng
vì .

BÀI BỬU CÁO DẠY BÁO ÂN
của Huyền Thiên Thượng Đế


Nếu đọc tụng, chừa các điều dữ, làm các điều lành thì khỏi hoạ .
Lạy ba lạy rồi tụng, hết rồi cũng lạy ba lạy .
Huyền nguơn ứng hoá . Võ khúc phân chơn, Thuỳ niệm ngã đẳng
chúng sanh, hữu tướng thoát sanh phụ mẫu . Hoài đam thập ngoạt, nhủ
bộ tam niêm, Tân khổ bá thiên, ân cần khốn niệm . Liên ngã phụ mẫu, nhựt tiệm suy hủ . Ngã kim trị niệm bình đẳng, tất diệt hiểm tuấn tham
sâu, kỳ ân báo bổn . Nguyện ngã, hiện tại phụ mẫu, phước thọ tăng diên . Quá khứ phụ mẫu, tảo đắc siêu sanh . Đại thánh đại từ, đại nhơn,
đại hiếu . Bát thập nhị hoá, báo ân giáo chủ hưu thành chơn với trị thế
phước thần, ngọc hư sư tướng, Huyền thiên thượng đế kim huyết hoá thân, chung kiếp tế khổ thân tôn .
Giải nghĩa kinh Báo ân của Huyền thiên thượng đế .
Đức Huyền thiên thượng đế, thương chúng tôi có cha mẹ ơn mang
mển mười tháng, cho bú ba năm cay đắng trăm bề tấc lòng lo lắng nuôi con . Nay thương cha mẹ tôi càng ngày càng già yếu tôi nguyện tụng kinh này, thì lòng ở công bình ngay thẳng bỏ lòng độc hiểm, tham lam,
giận hờn . Thờ Đức Huyền thiên thượng đế làm thầy : lại tụng cầu cho cha mẹ mà báo ân cội rễ . Nếu cha mẹ tôi còn sức khoẻ thì đặng sống
lâu, nhờ trời thêm tuổi : còn như có mãn phần rồi thì được siêu thăng .
(từ ấy sắp sau là phước ngài dài lắm ).


Đại Bi Chú
 
NoiVoiDauGoi Date: Thứ Tư, 11 Apr 2012, 8:17 PM | Message # 12
Colonel
Group: Users
Messages: 176
Status: Tạm vắng
MƯỜI ĐIỀU CẤM CỦA ĐỨC VĂN - XƯƠNG ĐẾ - QUÂN

1.___ Cấm chẳng ngay chúa (chủ), chẳng thảo cha mẹ bất nhơn, phi
nghĩa . Phải ngay chúa, thảo cha mẹ, ở thiệt tình với người .
2.___Cấm không đặng tính mưu kế lấy của người cho lợi mình . Phải
làm âm chất (âm đức ) mà cứu giúp thiên hạ .
3.___ Cấm đừng sát sanh mạng vật mà ăn, nếu trùng kiến vô cớ cũng đừng sát hại, là lòng nhơn với vật mọn .
4.___ Cấm tà dâm hoa nguyệt, giữ giới kỳ, là kỉnh
vía thần .
5.___ Cấm không đặng phá việc tốt của người, cho thất công người .
Đừng làm cho rời rã ruột thịt của người . Phải giúp bà con mình, anh chi em cho hoà thuận với nhau .
6.___ Cấm nói dèm siểm, chê bực tài hiền . Không đặng kiêu ngạo
khoe mình, phải khen tài năng sự phải của người . Còn mình có công lao không khoe, dùng xưng mình (giỏi khiem ).
7.___ Cấm say rượu, phải cữ thịt trâu, thịt chó . Phải ăn đồ hiền kiêng đồ độc, theo cách vệ sanh cho khỏi bịnh .
8.___ Cấm tham lam không nhàm, bỏ đãy buộc chặt không bố thí .
Phải giữ chữ cần kiệm, có dư mà giúp kẻ nghèo .
9.___ Cấm kết bạn với kẻ quấy, hoặc ở xóm tiểu nhơn, gần kẻ nết xấu, phải thân với người tài đức mà bắt chước .
10.___ Cấm không đặng bạ nói bạ cười, làm điều trái lẽ . Phải giữ mình ít nói, giữ theo đạo nghĩa đức hạnh mà ở .
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 11 Apr 2012, 8:17 PM | Message # 13
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
ĐỨC VĂN XƯƠNG ĐẾ QUÂN DẠY RẰNG :

Loạn luân là bà con lấy nhau, phạt đoạ ngục Vô gián bị hành bào lạc
1.5OO lần, vì tội loạn luân nặng hơn tội tà dâm với người ngoài . (Bào lạc là cột đồng trống ruột cao 20 thước, đổ lửa than trong ruột cột đồng đốt cho đỏ, rồi quỉ sứ xiềng hồn tội cho ôm cột đồng mà đẩy lên, cháy tiêu thành than rớt xuống lại
huờn nguyên hình như trước mà hành nữa cho đủ 1.500 lần). Nếu ai biết ăn năn trước, thì chừa lỗi, làm công mà chuộc tội, đừng phạm tội loạn luân dâm ác nữa .
Còn kẻ văn học đặt tuồng hoa nguyệt cho hát bộ hát, bài ca dâm, thơ dâm vẽ hình
tục tĩu, hoặc in mà bán, làm cho ngươi tập thói dâm, hại hư phong hoá, hoặc
mướn hát tuồn dâm, đều bị tội nặng, thác cầm vào ngục Vô gián (Vô gián nghĩa là
không hở). Giã , rồi xay, rồi bào lạc, rồi nấu dầu, hàng xây vần hoài không hở .
Gái trai hành nhu8 nhau .
Thầy Liên Trí hoà thượng nói :' Ai thấy tuổng dâm truyện dâm, hoặc đọc lời hoa nguyệt, xem hình ảnh tục tỉu, đều động tâm sanh ra dâm loạn . Những tuồng dâm như truyện Tây sương ký, đặt chuyện Trương quân Thoại với Thôi -Oanh -Oanh mà hát cho đời mê mẫn, thiệt không phải người tài tử với giai nhân mà làm nết xấu nguyệt hoa như vậy . Nếu các viên quan có quyền thế, đốt tuồng truyện
ấy, hoặc huỷ diệt đi, thì được phước lớn vô cùng . Còn con người ai cũng muốn sống, vật nào cùng sợ chết, nỡ nào giết nó ăn thịt cho bố mình, đành đoạn chặt đầu lột da, thọc huyết cắt cổ, nhổ lông đánh vảy, bằm xắt luộc nướng, đau rát khó kêu oan ! Làm tội ác mà gây oan báo muôn đời, đến thác bị hành tội rồi còn phải đầu thai mà thường mạng nhiều kiếp . Sau đặng làm người, tật bịnh chết yểu, hoặc bị hùm tha rắn cắn đau bịnh hành hình thuốc độc, vân vân, đều bởi hay sát sanh mà khổ đó . Nay ta khuyên đời, chẳng phải biểu ăn chay trường hết, song khuyên trước cữ sát sanh . Nhà nào cữ sát sanh thì thần phật phò hộ, khỏi tai hoạ, ít bịnh, sống lâu, con thảo cháu hiền, đặng các điều may phước lớn, kể chẳng xiết . Nếu có của dư phóng sanh . thả rùa trạch chim cá, tụng kinh niệm Phật chẳng những hưởng phước thọ mà thôi, thác hồn được lên thiên -đường, hoặc về Tây - phương, khỏi luân hồi nữa, có đâu sa Địa ngục mà chịu hành hình . Ai có phước thấy lời ta khuyên, mau hồi tâm chừa dữ làm lành cho sớm, đừng để gần thác ăn năn không kịp Nếu làm chẳng đặng, cũng rán khuyên người '.


Đại Bi Chú
 
NoiVoiDauGoi Date: Thứ Tư, 11 Apr 2012, 8:17 PM | Message # 14
Colonel
Group: Users
Messages: 176
Status: Tạm vắng
LỜI BỬU - HUẤN
của Ông Lữ Tổ (Lữ - đồng - Tân ) giáng cơ :
Con người linh hơn muôn vật . Sao người đời không biết thân mạng . Cứ biết một sự dâm ác . Sự dâm ác dầu vua chúa quan dân xưa
nay đều bị hư hại, vì dâm ác mà quên nước, quên nhà, quên danh, quên mạng, không kể gươm đao nước lửa mà theo dâm ác, không cần thể diện, tội phước hại đến chừng nào ! Đức Văn -đế chỉ dụ :' muôn tội
dữ, án tà dâm, đứng đầu ! ' Lạy dạy rằng :' Nếu có dâm ác thì hư trăm việc '. Hai câu ấy thật hay lắm, quả lắm ? Người đời thái quá tới loạn luân không cần lớn nhỏ cũng vì thói tà dâm ! Không kể thân mạng, thể diện, danh giá, tiền của cũng vì tà dâm ! Không rõ vì cớ nào thói tà dâm
truyền nhiễm khắp thế gian như vậy ! Song bọn ấy có kẻ mắc hoạ, có kẻ tuyệt tự, xuống âm ti còn bị ngục hình, Các người giữ lòng tự nhiên sạch, mới là đáng bực anh hào . Chẳng nói làm chi đến bực thượng sĩ là
khó đặng, miễn các người chừa lỗi cũ, thì thờ thần cầu vái mới linh, khỏi thác yểu cho trọn danh con thảo, và dạy con cháu em út tập theo gương
tốt của mình . Lời ngay phái chịu nghe, thuốc đắng phải lo uống . Các đệ tử khá nhớ đừng quên ! Nếu mình ngay khỏi phạm thì biên lời ta khuyên đây mà dán trên vách cho em út con cháucoi, kẻ khác cũng thấy mà sửa nết .
Thương mạng vật thì sống lâu . Tiếc cơm gạo mà giàu được . Trọng
giấy chữ thì làm quan . Dè lời nói thì đặng phước . Làm gương tốt cho cháu con . Đừng phạm tội nơi trời đất .

LỜI DẠY CỦA CỬU - THIÊN TƯ -MẠNG TÁO -QUÂN

Ta tuy coi sổ cái tại Cửu thiên, mỗi năm 24 tháng chạp tâu một kỳ . Song mỗi nhà điều có Táo quân thay mặt cho ta, mỗi tháng chạy tờ công quá mỗi người cho ta gài vào sổ chánh . Ta chẳng nỡ cho đời phạm tội vì lầm lỗi, nên dạy sau đây : Cấm đốt giấy chữ trong bếp, vì sợ tro ấy nữa đổ nhằm chỗ dơ . Cấm ca, khóc, hoặc chửi rủa, mắng nhiếc trong bếp . Chẳng nên đâm hành tỏi trong bếp, hoặc bửa củi trước bếp . Cấm bỏ lông gà, xương thú, củi dơ trong bếp ( ngồi chồm hổm ngay bếp ), hoặc quét động vô bếp . Cữ ăn thịt trâu, thịt chó, thì trong nhà bình an . Nếu ai loã lồ trong bếp, thì phạt nặng . Nhứt là cấm gõ gạc trên bếp, cạo dẫy chảo nồi trên bết .

TÍCH ĐÔI LIỄN ÔNG QUAN - ĐẾ

Tại phủ Hàng châu, tỉnh Chiết giang, có người Tú tài
Trương đại Mỹ, ở phía tả núi Ngô san, thuật chuyện rằng : Hồi ta tắt hơi, hồn đến ngoài thành Phong đô vào lạy Quan đế mà khóc . Quan đế hỏi :' Tới số thì thác, lạy khóc ích chi ? Ta bèn tâu :' Tôi cũng biết thác rồi không lẽ sống lại song thương mẹ già không ai nuôi, nên đau lòng mà khóc . Quan đế nói :' Như vậy để ta tâu cho ". Giây phút kêu ta mà nói :' Ta đã tâu rồi, Thượng đế khen ngươi có hiếu, cho sống thêm một kỷ (12 tuổi).' Liền cho ta uống một chén nước trà dạy rằng : ' Chùa ta khắp trong thiên hạ treo liễn rất nhiều, song không vừa ý ta, nên ta đặt một đôi liễn như vầy đây, ngươi coi cho nhớ, về mà truyền thiên hạ '. Ta coi thấy :
Số định tam phân, phò Diêm hán, tiễu Ngô phạt Ngụy, tân khổ dị thường, vị liễu bình sanh sự ngiệp ;
Chí tôn nhứt thống, tá Hi triền, phục ma đảng khấu oai linh phi chấn, chỉ huờn đương nhựt tinh trung .
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 11 Apr 2012, 8:17 PM | Message # 15
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Thích nôm :
Số trời định ba phân phò Diêm hán, đánh Ngô dẹp Nguy, cay đắng nếm đều, sự nghiệp bấy lâu chưa dứt .
Lòng ta thâu một mối, giúp Hi triều, trừ yêu dẹp loạn, oai linh dậy khắp,
tình trung thuở ấy vừa xuôi .
Ta đọc thuộc rồi, lạy tạ ơn Quan đế cho hồng ta về nhập xác, sống lại biết đã liệm rồi . Ta liền kêu lớn, bảo giở nắp săng cho ta ra . Ra rồi thuật chuyện vân vân, té ra quên hết nửa câu liễm trước ! Cặp con mắt lại không thấy đường ! Giây phút nghe gõ cửa, mẹ ta chạy ra trước thấy người bận áo xanh, đưa phong thơ mà nói rằng :' Xin trao thơ nầy cho con bà xem '. Mẹ ta nói :' Con tôi bịnh con mắt, coi thơ sao đặng ? '
Người áo xanh nói :' Ấy là toa thuốc, bà trao cho mau '. Mẹ ta đem vào trao liền . Ta xé thơ ra xem thử thấy chăng ? Té ra mắt sáng như xưa, coi rõ là nửa câu liễn trước ? Kẻ xa người gần, đều lấy làm lạ ! Hứa triệu Đình ở Nhơn hoà nghe ta đọc liền biên đôi liễn ấy, khắc treo tại chùa Ông núi Ngô san, lại có khắc một tấm bảng thuật chuyện sự tình đôi liễn, mà treo trước cửa chùa, cho kẻ có hiếu xem, kẻ bất hiếu biết chừa lỗi . Xin rán lưu truyền .
KINH NGỌC - LỊCH của Thập ư Vương dọn kiểu, Thượng đế có phê, cho truyền trung giới, cải ác tùng thiện .
Nguyên ngày ba mươi tháng bảy . Địa Tạng vương bồ tát ăn vía sanh, bởi ngài làm chức U minh giáo chủ cai trị mười vua thập điện . Nên bữa vía ngài, thập vương với các vị thần đều đến chầu mừng .Địa Tạng vương phán rằng :' Ta muốn siêu độ chúng xanh, nên mỗi năm ngày vía nầy, ta truyền ân xá các phạm tội nhẹ được đầu thai, tội nặng thì giảm bớt . Ngặt người đời làm lành có ít, làm dữ rất nhiều, ta thấy thập vương các ngục hành hình thảm thiết ! Vậy phải tra xét cho kỹ, những ai tại dương thế biết ăn năn chừa lỗi, có khuyên đời làm một hai điều lành, thì trừ bớt tội cho nó '. Thập vương tâu :' Chúng tôi y luật hội nghị '. Nếu ai làm lành tự nhỏ đến già, thì đưa lên cõi thần tiên . Còn kẻ nào công quả bằng nhau, khỏi hành tội, đặng đầu thai kiếp khác như thường . Nếu công ít, quả nhiều, thì hành tội tuỳ theo dư quá nhiều ít, rồi cho đầu thai kẻ khó hèn . Nếu biết chừa lỗi làm lành kiếp sau sẽ cho đầu thai hưởng phước . Nếu còn làm dữ nữa, sẽ bắt xuống hành hình, rồi cho đầu thai cùng khổ đáo để, sống chịu hoạ tai, đến thác sẽ giam vào Địa ngục không đặng luân hồi nữa . Còn kẻ quá ít, công nhiều, trừ còn dư công, thì đặng đầu thai hưởng phước giàu sang trường thọ . Trừ ra tội bất trung là phản chủ, bất hiếu với ông bà cha mẹ, hoặc là liều mình ( tự vận ), hoặc sát sanh thái quá không tin luân hồi báo ứng . Cứ nói theo tục ngữ :' Người thác thì hồn phách tiêu tan hết, bỏ xác thúi rồi, còn hồn đâu mà bị hành tội nơi âm phủ . Thường thấy người sống bị tội, nào thấy ma chết mang gông, chết rồi thì thôi, còn biết sự gì nữa ! '.

Mấy lời ấy quê lắm ! Tuy thác thời bỏ xác, chớ linh hồn con hoài, sống làm dữ bao nhiêu, thì thác bị hành tội bấy nhiêu . Mấy kẻ bày đặt nói trước, cho người không tin âm phủ, thì đã bị Vô gián địa ngục, không đặng đầu thai . Người đời tuy thấy kinh sách tam giáo giảng dạy, song không tin, rất uổng công tiên Phật thánh thần dạy bảo . Trăm người không có một người tin mà cải ác tùng thiện, nên phải lập thêm địa ngục mà hành hình mới đủ . Nay Bồ tát thấy vậy mà thương, truyền chỉ thế giảm . Chúng tôi cũng vưng lời, cho các người dữ chịu hồi tâm, ngày vía Bồ -tát với các ngày vía chúng tôi, ăn chay thệ nguyện thiệt tình ăn năn, cải ác tùng thiện, không dám làm dữ nữa, rán sức làm một điều lành chi đó, sau thác xuống hồn khỏi bị hành tội . Trừ ra tội tôi chẳng ngay, con chẳng thảo, hoặc giết mình, hoặc làm mưu mà gạt người lương thiện đến nỗi phải bị trời đánh, chết trôi, chết thiêu, cọp ăn, rắn cắn, thì hồn xuống âm phủ phải chịu hành phạt, song cũng chế giảm một bực vì sự ăn năn chừa lỗi . Nay chúng tôi truyền các phán quan biên hết các sự tội phước, sống làm điều lành nào, mà được phước chi, làm điều dữ nào, thác bị hành ngục chi, ai ai nghe qua cũng hiểu, để dưng cho Bồ -tát xem . Đợi gặp ai cho đức hồi dương, sẽ lưu truyền cho thiên hạ '.
Khi ấy phán quan điện nào, biên theo điện nấy, thành ra bổn Ngọc -lịch, dưng cho Địa -tạng vương xem, Ngài khen hay .
Qua mùng ba tháng tám, Người với thập vương chư thần đồng dưng Ngọc -lịch cho Thượng -đế ngự duyện Thượng -đế phán rằng :' Hay lắm ! Từ nầy chư thần rán xem xét, người đời nguyện chừa lỗi không phạm nữa, làm một sự phước thì cho trừ hai tội cũ, năm điều phước cho trừ hết tội xưa, lại đặng ghét làm siêu độ cho thân quyến nữa, trai đặng đầu thai phú quí, gái đặng đầu thai làm trai Thành hoàng Táo thần tuân chỉ '.


Đại Bi Chú
 
NoiVoiDauGoi Date: Thứ Tư, 11 Apr 2012, 8:18 PM | Message # 16
Colonel
Group: Users
Messages: 176
Status: Tạm vắng
VUA TẦN QUẢNG NGỰ ĐIỀN THỨ NHỨT

Làm điều lành nào, được thưởng phước,kể ra sau đây :

1. Lượm giấy chữ nho, đốt trong trả, đổ tro xuống sông, thì được con thảo cháu hiền . Nếu đốt trong bếp thì có tội .
2. Đốt các thơ truyện hoa nguyệt, cho khỏi hư phong tục , hoặc làm lành làm phước, đều hưởng phước và sống lâu .

Làm điều dữ chi, phạt tội gì, kể ra sau đây :

1__ Liều mạng giết mình, cho người mắc hoạ phạt làm ngạ quỉ (ma đói).
2__ Các sãi ăn của thập phương mà tụng kinh thiếu, hoặc chịu của người công đức mà tụng kinh thiếu, đều phải tụng bổ lại .
Tần quảng vương cầm sổ sống thác, trị việc âm phủ . Đền ở tại dưới biển lớn, chánh hướng tây theo đường Hắc đạo suối vàng . Phàm người lành mãn phần, thì cho người tiếp dẫn lên Thiên đường, hoặc về Tây phương . Còn ai công quả bằng nhau, thì qua cửa thứ mười cho đầu thai hoặc gái làm trai, hoặc trai làm gái, mắc nợ nần thì trả quả cho nhau . Nếu công ít quả nhiều, thì dẫn ra phía hữu cái đền, lên đài Nghiệt Cảnh mà soi .Đài cao 11 thước mộc, treo kiếng lớn mười ôm, day mặt qua hướng đông, trên đề bảy chữ rằng :' Nhiệt cảnh đài tiền vô hảo nhơn '. Các hồn soi thấy bình sanh việc chi, đều ứng đủ lớp lang như hát bóng,
nên chối không được . Tới đó mới hay rằng .' Muôn lượng vàng ròng đem chẳng đặng, cả đời bản có tội theo mình '. Soi kiếng làm án rồi, sai quỉ giải hồn qua cửa thứ nhì, cầm ngục hành tội . Người không kể cha mẹ sanh thân vì sự tức mà tự vận thắt họng, trầm mình, uống thuốc độc, hoặc kiếm cớ chi mà liều mình, không đợi tới số đòi hồn mà chết về nghiệp giết mình (trừ ra vì trung hiếu tiết nghĩa mà giận lẫy, hoặc bị phạm tội sợ hành, tội chẳng đến chết, hoặc muốn liều mạng mà hại người mắc hoạ : làm như chơi mà ra chết thiệt cho người mắc hoạ : các hồn chết về nghiệp ấy, Táo quân với chư thần, bắt hồn giải đến cửa đền nầy, giam vào ngục ngạ quỉ, gặp ngày tuất ngày hợi, thì phải làm cách
liều mình ấy, cầm 70 ngày, hoặc một hai năm, rồi dẫn hồn về ở chỗ liều
mình gia quyến có cúng thì được về ăn, đốt vàng bạc giấy áo thì đặng
lãnh . Nếu biết lỗi không hiện hình nhát người, hoặc không bắt ai mà thế, đợi mấy người trên Dương gian bị làm nhơn mạng đặng khỏi hoạ, thì chư thần giải hồn ấy đến đây, sẽ giải qua cửa thứ nhì tra công quả, nếu trừ rồi dư quá bao nhiêu thì hành tội và giải qua cửa khác hành nữa .
Còn khi sống mà lòng mong liều mạng đặng hại người, hoạc hăm làm nhơn mạng cho ai, tuy liều mình mà chưa chết, cũng ghi lòng tội hành hình, tu có làm lành cũng trừ tội ấy không đặng . Lúc hồn còn ở chỗ liều
mình, mà hiện hình làm ma nhát cho chúng sợ mà chết, thì sai quỉ mặt xanh nanh vút bắt hồn xuống hành tội cho đến kiếp, rồi cầm ngục mãi không cho đầu thai .
Còn các thầy chùa, thầy pháp, thầy tu, người ta mướn tụng kinh mà tụng thiếu sót, chừng hồn xuống đây phải ở sở bở kinh, chỗ ấy có đủ thứ kinh, cho đèn lưu ly mờ mờ, mà tụng cho đủ các chỗ thiếu hồi đó .
Dầu thầy chơn tu cho mấy cũng phải bổ cho đủ vì tiền người . Nếu kẻ tu tại gia tụng cho mình, có sái chữ đọc thiếu cũng không chấp, trọng tại có lòng thì đặng phước khỏi tụng bổ .
Ngày vía vua Nhứt điện là ngày mồng một tháng hai, nếu ngày ấy ai ăn chay, đặt bàn trở về mặt hướng bắc, nguyện không làm các điều dữ, đọc trải qua bài này một bận, hoặc in Ngọc lịch mà cho thiên hạ, cải ác tùng thiện, đến mãn phần trăm sai thanh y đồng tử rước hồn đem về Tây phương .
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 11 Apr 2012, 8:18 PM | Message # 17
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
VUA SỞ GIANG NGỰ TẠI ĐIỆN THỨ NHÌ

Các điều lành đặng phước, kể ra sau nầy :

1. Bố thí cơm cháo, được hưởng phước giàu có
2. Thí thuốc cứu người, đời đời giàu sang .

Các điều dữ bị hành tội, kể ra sau nầy :
1.Ban đêm tính việc quấy, phạt vào ngục Hắc vân sa cho mây đen đè mình, vùng không đặng .
2. Các viên quan ăn hối lộ, đánh ép kẻ ngay, bắt chịu án oan, phạt
giam hoài trong tù xa, ló cổ ra mà chịu .
3. Dỗ dành con nít làm quấy, bị cầm ao giá lạnh . Sở giang vương ở dưới đáy biển nam, địa ngục rộng năm trăm dặm do tuần, gồm 16 cái
ngục nhỏ, kể ra đây :
1. Ngục Hắc vân sa
2. Ngục Phẩn thỉ nê, Phẩn
3. Ngục Ngũ xa, đâm
4. Ngục Cơ ngạ, đói
5. Ngục Tiêu Khát, khát nuớc
6. Ngục Nung huyết, máu
7. Ngục Nhứt đồng phủ, 1 chảo đồng
8. Ngục Đa đồng phủ, nhiều chảo đồng
9. Ngục Thiết đối, cối xay sắt
10.Ngục Bân lương, đong lường
11. Ngục Kê trác, gà mổ
12. Ngục Khôi hà, ao tro
13. Ngục chước triệt, chặt khúc
14. Ngục Kiếm diệp, gươm lá
15. Ngục Hồ lang, cáo, chó sói
16. Nguc Hàng băng trì, ao giá
Nếu phạm tội dụ dỗ trẽ nhỏ, cạo đầu vô chùa làm sãi, làm cô vải ;
hoặc còn nhỏ tự ý cạo đầu vô chùa đi tu bỏ cha mẹ, mang tội bất hiếu ;
hoặc ai gởi thơ ( kinh sách ) hoặc đồ đạc, cố ý nói làm mất mà làm của
mình hoặc làm hại tai mắt tay chưn người ; không biết coi mạch làm thuốc bướng hại người mà lấy tiền : hoặc nhà giàu bất nhơn mua mọi gái, sau người chuộc lại mà không cho : hay là làm mai ham ăn của mướn giáu tuổi, tráo tuổi, rõ biết gái trai có tật bịnh, gian giảo, mà nói
gạt người sau chúng nó bị tức tối : các tội kể trên đó, tuỳ theo nặng nhẹ, giam vào 16 ngục hành cho đáng kiếp, rồi giải qua cửa thứ ba hành nữa .
Nếu ai giảng Ngọc lịch, hoặc in cho thiên hạ, hoặc thấy kẻ bịnh nghèo mà cứu giúp, hoặc bố thí cơm cháo gạo tiền, hoặc biết ăn năn chừa lỗi, thì cho trừ tội trước khỏi tính trước khỏi tính, được qua cửa thứ
mười đi đầu thai làm người .
Nếu cữ sát sanh, cấm con cháu không giết trùng dế và đến mồng
một tháng ba là ngày vía trẫm ăn chay nguyện phóng sanh, sau khỏi bị
đoạ địa ngục được qua cửa thứ mười đầu thai hưởng phước .
Xưa nay lượm giấy chữ thì sống lâu, ai cũng rõ biết . Nếu đạp giấy chữ,
chẳng hề hưởng giàu sang phước thọ bao giờ . Như việc buôn bán đồ thiệt tốt giá vừa phải thì nhiều người mua,lựa phải dán lời rạo, vậy cho chúng tin miếng giấy áp tới mua nhiều sao ? Huống chi dán nơi vách tường, mặt chợ mới, coi tử tế, lâu gió mưa rớt xuống bùn lấm ướt nhẹp,
kẻ muốn lượm cũng không thể lượm được . Cho đến chỗ dơ, thấy đầy những cán dù, cán viết, miểng sành, giầy guốc, đều cũng có chữ trong đó, kẻ trong chữ nghĩa, cũng không thế lượm cho hết . Nên ta khuyên đời phải xét cho kỹ, mà khuyên nhau rằng :' Giàu nghèo có phần số mạng, không phải tham mà đặng nhiều . Muốn đặng phước thì trước đừng làm tội . Nếu làm tội như vậy sao đặng nên giàu có ? Nếu tin lời ta,
thì đừng dán lời rao chữ nho . Các món vật dụng đừng viết nho in chữ nho vào đó . Tự nhiên không cầu lợi mà lợi nhiều, chẳng cầu phước mà phước đến, là vì trọng chữ nho, không đụng đâu để đó .


Đại Bi Chú
 
atoanmt Date: Thứ Sáu, 13 Apr 2012, 6:45 AM | Message # 18
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 5081
Status: Tạm vắng


AToanMT
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 17 Apr 2012, 9:00 PM | Message # 19
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
VUA TỐNG ĐẾ NGỰ ĐIỆN CỬA THỨ BA

Làm lành được phước :

Làm cầu, sửa cho thiên hạ đi, thần thường phò hộ .

Làm dữ phạt tội :

1. Giết người mà cướp của, bị cọp nhai
2. Đoạt thơ của người không đem tới, bị bắn .
3. Làm mưu giết chồng, hại chồng bị phân thây xẻ thịt .
4. Đốt nhà hoặc săn bắn bị bào lạc .
Tống đế vương, đến tại đáy biển đông nam . Địa ngục rộng năm trăm dặm do tuần, chia ra 16 ngục nhỏ, kể ra sau nầy :
1.___ Ngục hàm lỗ nước mặn .
2.___ Ngục mà huờn dà nu, gông xiềng .
3.___ Ngục xuyên lặt, đục sườn .
4.___ Ngục đồng thiết, quát hiểm, nạo mắt .
5.___ Ngục quát chỉ, nạo mỡ .
6.___ Ngục kiềm sài tâm cang, móc gan tim .
7.___ Ngục khối nhãn, móc mắt .
8.___ Ngục sản bì, lột da, căng da .
9.___ Ngục nguyệt túc, cưa cẳng .
10.___ Ngục bát thủ cước giáp, rút móng .
11.___ Ngục hấp huyết, hút huyết .
12.___ Ngục đảo điêu, treo ngược .
13.___ Ngục phân ngung, sả vai .
14.___ Ngục thơ hoa, ăn giòi tửa .
15.___ Ngục kích tất, đập đầu gối .
16.___ Ngục ba lâm, mổ trái tim .
Làm quan không biết ơn vua, không đạo tôi : dân không lo sưu thuế cho nhà nước : vợ phụ bạc chồng, lộn chồng bỏ chồng, trốn chồng hỗn với chồng, hồi nhỏ cha mẹ đã chịu cho người nuôi làm con, lớn bỏ cha mẹ nuôi mà cãi họ lại, đầy tớ phản chủ thơ -kỳ quân lính ở bạc với người làm đầu (quan thầy của mình ) : kẻ làm công ăn gian chủ tiệm ; tù vượt ngục, bị đày mà trốn, hại người bảo lãnh và quan cai trị trong sở, hoặc làm cho người thân bị khổ ; không biết ăn năn chừa lỗi, trừ công còn dư quá thì hành ; cứ theo địa lý để quân lâu, hoặc cữ không cho làm mả, hoặc bày cải táng đào mả lấy cốt tồi tàn, hoặc không đắp mả ông bà cha mẹ để loạn lạc ( xiêu mồ lạc mả ) : dụ người làm phạm luật ; xúi chúng kiện cáo làm thơ rơi giấu tên, hoặc dán lời kiêu ngạo mà giấu tên, hoặc dán lời nói xấu tiết cho con gái, phá đám hôn nhơn ( cưới hỏi ) mà giấu tên ; hoặc viết thơ hồi, tờ để : làm giấy tờ giả mạo ; đòi tiền bán chịu rồi mà chẳng dỉ sổ, hoặc trả nợ rồi mà không cho giấy không xé giấy : tập ký tên giả, khắc con dấu giả ; sửa số bạc tiền trong giấy tờ, đều làm hại người, các tội kể ra đó, tra ra nhẹ nạng, sai quỉ Đại lực giam vào khám lớn, tùy theo tội, dẫn vào các ngục nhỏ hành cho đủ số rồi giải qua cửa thứ tư mà hành theo các ngục khác .
Nếu ai nhớ ngày vía trẫm, là mồng 8 tháng 2 hay ăn chay nguyện vái không phạm các tội kể trên đó nữa lo việc làm lành mà trừ, sau thác xuống khỏi bị ngục nầy .
Thầy Nguơn Hiền thiền sư đặt bài khuyên đừng ủ con gái . Mạng người là trọng, nên phép nước nghiêm trị việc án mạng (nhơn mạng) . Nếu làm mưu làm hại oan, dẫu trốn khỏi tội Dương gian trời cũng hại mau lắm . Bởi cái mưu giết người, là lòng độc ác, mang tội nghịch thiên là trái lòng ưa sống của trời . Kíp chầy cũng trả chẳng tha . Người đời làm cho loại chí một hồi, sau an8 năn không kịp . Nay nhiều kẻ phạm tội dương gian âm phủ, nhứt là tội ủ con gái ! hoặc ủ con chửa hoang ! Tuy việc ấy là kẻ ngu hay làm, song quen thói rồi, nhiều nơi bắt chước . Bởi cớ ấy trời bớt số giảm kỷ, hoặc phạt cùng mạt tuyệt tự (không con trai ) . Nói chi đầu thai kiếp khác thường mạng là luật chung . Nghĩ thử nó đầu thai làm con, mà đền ơn cho mình, nỡ nào mà giết con cho đành đoạn ? Huống chi kẻ vô hậu, cầu có chút gái còn khó thay, như vậy đủ biết phước nhiều thì có trai, phước ít mới có gái, còn vô phước thì không có con chi hết . Mình phải răn lòng sát hại làm phước mà cầu trời cho sanh trai, vì muốn kế tự, thì phải tu nhơn tích đức . Độc ác con gái chửa hoang, sanh ra thì quyết giết ! Sao không biết xét, rất đỗi kẻ vô hậu còn nuôi con nuôi thay ! Huống chi máu thịt của mình trong bụng sanh ra, cũng lập thế mà nuôi như kẻ nuôi quá phòng vậy, thì khỏi mắc oan nghiệp . Nếu không chừa lỗi độc, thì bị tuyệt tự, trông chi sanh đặng con trai . Người quân tử có nhơn, rán khuyên đời mà cứu nhiều mạng, thì âm đức lớn lắm .


Đại Bi Chú
 
NoiVoiDauGoi Date: Thứ Ba, 17 Apr 2012, 9:00 PM | Message # 20
Colonel
Group: Users
Messages: 176
Status: Tạm vắng
VUA NGŨ QUAN NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ TƯ

Làm lành hưởng phước :

Thí quan tài và đồ liệm, thì nhà có thần phò hộ .

(Phong Sắc xin thích nghĩa khoảng nầy : bởi kinh Ngọc lịch tàu có in hình, khoảng nầy có vẽ cái trại thí hòm, có chất hòm, nhiều người đến khiêng những hòm thí . Các sãi dốt không biết, bổn đạo thấy vẽ hình như thế, thì hỏi hòm gì nhiều vậy ? Sãi dốt nói bướng rằng : Ai chết rồi hồn phải đem cái hòm của mình mà nạp cho vua Tứ điện . Nên chôn hòm nhẹ, dễ nạp, nếu hòm lớn khổ cho vong hồn đẩy không nổi ! Bó bảy tấm vạc nhẹ nhàng dễ vác ! Ôi, bổn đạo quê cũng nghe theo lời ấy, mà trối với con cháu, sợ chôn hòm lớn ! Lưu truyền lời phi lý tới nay ! Vì sãi dốt bày nói sàm một chút, để hại kẻ dốt muôn đời ! Sao không biết xét cho kỹ vua thứ tư thâu hòm ấy mà làm chi ? Mấy muôn triệu hòm chỗ đâu mà để ? Vả lại hồn ma mà chuyển vận đồ hữu hình sao đặng, gọi đẩy hòm nạp quách là nghĩa gì ? Nếu cực khổ như vầy sau còn gọi kẻ thí hòm được phước có thần lành phò hộ ? như vậy một lời nói bậy, tổn đức biết chừng nào ? Làm cho kẻ dốt nghe lầm, chôn cất tức tưởi không ấm cúng ! Muốn cho kẻ dốt khỏi lầm, nên tôi phải giải cho rành, may người dốt tỉnh lại . Nếu nạp hòm hết, sao lại lấy cốt còn hòm ? ? ?)
Làm các điều dữ mắc những tội, kể ra sau đây :
1. Giạ già giạ non, đong nhẹ đong nặng, lòn thăng tráo đấu gian lận, hoặc bán lúa tưới nước, đều bị cối đạp giã, cho chó ăn .
2. Cân lận, bị móc lưng treo hoài . Đo lận cũng phạt vậy .
3. Không kính người lớn tuổi, già cả, lường gạt giựt của người, vay mượn chẳng trả, du thủ du thực hoang đàng, không giữ bổn phận, háo sắc tà dâm, lấy vợ người, ngoại tình huê nguyện, ngã mặn và tội ăn vụng, say rượu, bài bạc, trùm đĩ nhà chứa điếm, rủa chửi, trù ếm du đãng, chọc ghẹo phá hại người hiền, đổ đồ dơ uế xuống sông, phơi quần áo dơ giọt bóng tam quan là mặt nhựt mặt nguyện, yến sao, hoặc dơ uế mà lên chỗ thờ phượng hoặc vào bếp núc : Các tội kể trên đó đều xô xuống Tát trì là (huyết ô trì) ao huyết dơ mà lặn hụp, tuỳ theo tội nhiều ít, phạt ở lâu mau .
(Ấy là chánh kinh Ngọc lịch như vậy, kẻ sau muốn răn phụ nữ, bày ra kinh huyết hồn, mà cấm sự nhơ uế nơi tam quan, hoặc giặt dưới sông, hoặc vào trong bếp mà dạy đờn bà con gái . Kẻ dốt tin thiệt có tụng thì khỏi đoạ huyết ô trì . Kẻ dốt nữa thích nghĩa rằng : con gái đàn bà có đường kinh, hoặc chửa đẻ, đều bị xuống huyết ô trì hết thảy, nên có kẻ quê tụng kinh huyết hồn cầu mẹ khỏi tội ! Lưu truyền lâu đời, đàn ông ít học cũng tụng nữa ! Sao không thông lý, tại trời sanh phụ nữ phải có sự ấy, mà còn bị tội là nghĩa gì ? Thầy chùa xưa có học, thông hiểu chỗ đó, bày đặt thơ Hứa sử nói nhờ Hứa sử xin vua Tử điện tha tội ấy . Nói vậy trời đất còn lầm sao ? Thua Hứa sử sao ?)
Ngũ quan vương ở dưới đáy biển đông, nội cõi ấy rộng năm trăm dặm do tuần 1 dặm do tuần tròn giáp vòng 240 dặm, bề ngang mặt băng gian, là ngang giữa trung tâm 80 dặm . Còn mỗi dặm là 360 bộ, bộ là bước đôi, mỗi chưn một bước, nên một bộ là 5 thước mộc, như vậy 1 dặm là 1800 thước mộc . Còn 1 dặm do tuần bề ngang xuyên tâm đo 80 dặm là 144.080 thước mộc . Như vậy 580 dặm do tuần giáp vòng đo ra 72.000.000 thước mộc bề ngang mặt xuyên tâm 24.000.000 thước mộc . Lập 16 ngục nhỏ :
1. Ngục Tát trì là huyết ô trì .
2. Ngục Vụ liêng trước tim, xiềng, với tâm để xăm .
3. Ngục Phi thanh kiên thủ, xối nước sôi
4. Ngục Chưởng trướng lưu dịch, vả mặt sưng .
5. Ngục Đoạn cân tích cốt, chặt gân xương
6. Ngục Yễn kiên sát bì, khứa vai lột da .
7. Ngục Đoan phu, khoan da thịt
8. Ngục Tổn phong núi chim trĩ mổ .
9. Ngục Thiết y, bận áo sắt
10. Ngục Mộng thạch thổ ngoa yễm, cây, lá dẳn .
11. Ngục Lục nhãn, khoét mắt .
12. Ngục Phi khôi tắc khẩu, tro vô lấp miệng .
13. Ngục Quán dược, đổ thuốc độc .
14. Ngục Du đậu hượt diệt, trợt nhớt té,
15. Ngục Thích chỉ, xâm miệng .
16. Ngục Tốt thạch mai thân, chôn đá vụn .

Những tội trốn xâu lậu thuế; nói ngược lúa ruộng, nói ngược nợ, cân ăn gian; bán thuốc giả; bán gạo mắc nước; làm bạc giả, ăn gian ăn bớt bạc vàng; bán hàng lụa nhiễu; bán vải mỏng mà hồ gọi dày, đi đường không nhường tránh kẻ tật nguyền, hoặc người già, trẻ nhỏ nhít; lập mưu thần mà đoạt nghề kẻ buôn gánh bán bưng, cho mất sở làm ăn kẻ cùng khổ mà thủ lợi; lãnh thơ không đưa cho sớm, để trễ hư việc người; ăn cắp cạy gạch lề lộ, hoặc rót trộm dầu đèn ngoài đường; nghèo không giữ bổn phận, sanh ra gian giảo, giàu bất nhơn, không thương kẻ nghèo, hứa cho mượn cho vay, đến kỳ không cho, hại hư việc người; thấy người nghèo bịnh, trong nhà có thuốc hay mà không cho; giấu phương thuốc hay, sắc ra bán thuốc nước không cho thấy xác, không chịu truyền cho ai; quăng miểng sành miểng chai, gai chông ra đường đi; thả súc vật ỉa dơ đường sá; để bụi gai góc sầm uất cho hư vách rào của người; trù rủa ếm đối, hăm hoạ chúng; các tội ấy đều tuỳ nặng nhẹ hành tội các ngục, giải qua Ngũ điện .

Ngày vía trẫm 18 tháng hai, nếu ai ăn năn ngày ấy ăn chay thề nguyền không dám phạm các tội ấy nữa, lo làm lành tu bỉ sau khỏi hành các ngục nầy, nếu thêm việc nhơn quả kể sau Ngọc lịch để cho người coi mà cải ác tùng thiện, người ăn năn chừa lỗi khỏi tội thì có công có phước .

Nếu thấy ai bị tai nạn ngặt nghèo, mình có thể cứu mà làm hiểm bỏ qua, hoặc quên ơn bạc nghĩa hoặc cố oán quyết hại cho đặng, đều là lòng độc ác : tuy tụng kinh làm lành bố thí thác rồi khỏi hành các ngục mà thôi, chớ không đặng đầu thai hưởng phước phạt làm quỉ mị yêu tinh, như hồ ly mãng xà, mấy năm, tuỳ theo lòng độc nhẹ nặng . Nếu biết lỗi không dám sanh sự hại đời, thì thâu hồn về cho đầu thai phú quý . Như hiện hình nhát chúng khuấy đời, đáng tội thì bị Thiên lôi đánh hoá ra con Tích, thì hết đầu thai lâu tiêu hồn mất .

Phàm các quân binh đánh giặc, kể từ ngày đi đánh, hết lòng hết sức vì nước, không hãm hiếp ai, không đốt nhà dân giả; dầu tử trận hồn xuống điện này, dẫu có các tội xưa cũng bỏ qua hết, vì đặng chữ trung lương mà trừ, giải đến cửa thứ mười, cho đầu thai hưởng phước . Nếu đánh lộn sanh tử mà chết, hoặc theo kẻ làm phản, đều bị tội gia bội hành hình theo các lỗi bấy lâu .
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 17 Apr 2012, 9:00 PM | Message # 21
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
VUA DIÊM-LA NGỰ ĐIỆN THỨ NĂM

Làm các điều lành được phước :

1. Nhiều năm bố thí dân nghèo, con cháu nối đời, giàu có
2. Thí lúa gạo, cơm cháo, con cháu thi đậu làm quan lớn .

Làm các điều dữ mắc hành tội :

1. Tội bất hiếu với ông bà cha mẹ, bị chém ngang lưng đứt hai.
2. Đổ cơm cháo đồ ăn, bỏ cơm cháy, đạp cơm cháo, đổ huỷ lúa gạo, đều mang gông, cho ăn cơm thiu hóa giòi lửa .
3. Mỗi người có tội, cho lên đài vọng hương, ngó về xứ sở nhà cửa, thương nhớ mà về không đặng, khóc than thảm thiết .

Vua Diêm-la phán rằng: "Khi trước trẫm ở Nhứt -điện, bởi thương những kẻ thác oan, hay thả hồn về sống lại để kêu oan . Thượng -đế đổi trẫm về Ngũ -điện tại đáy biển đông bắc, cai trị 16 cửa ngục tru tâm làm mổ trái tim . Phàm các phạm hồn giải đến đây, thì đã bị hành các ngục mấy điện kia lâu ngày, dầu tội nhẹ khỏi hành, song cứ giải bảy ngày mới tới một cửa điện tới đây cũng đã 35 ngày rồi, thây thúi hết, không thể nào sống lại đặng . Nhiều phạm hồn muốn sống lại, kiếm
tâu rằng: "Tôi làm chưa rồi lời vái hoặc cất chùa làm cầu đắp lộ, khai kinh đào
giếng thí chưa rồi, hoặc đặt lời khuyến thiện chưa đủ, hoặc lời nguyện phóng sanh
chưa đủ số, hoặc nuôi ông bà cha mẹ chưa rồi, sắm sửa hàn rương chưa đủ, hoặc trả ơn chưa đặng xin cho sống lại thề làm duyên làm phước . Trẫm than rằng : Xưa người làm dữ quỉ thần hay, nay thuyền đã ra khơi xảm muộn quá ! Bởi vậy Địa -Tạng -Vương ban ơn truyền chỉ, khuyên các cửa điện chung làm Ngọc -lịch cho đời tu mà chuộc tội . Thập vương làm rồi, dâng cho Địa -Tạng -Vương ngự xem, xem đủ liền đem thập vương với chư thần lên thiên đình dưng Ngọc -lịch xin sắc chỉ của Thượng -đế, nhờ ơn Thượng -đế ngự duyệt bằng lòng ban chỉ cho truyền đời tu chuộc tội . Từ Phong Đô đại đế với Thập vương lãnh Ngọc lịch có chiếu chỉ Thượng -đế phê đến nay đã lâu năm, mà chưa gặp người nào có đức hạnh xuống âm phủ, mà trao cuốn Ngọc -lịch đặng lưu truyền cho đời, chớ hồn mà hồi đương đem kinh có hình về sao đặng ? Nếu truyền đặng cho đời biết ăn năn chừa lỗi, thì dưới âm phủ sẽ ít hồn tù tội, tại dương gian ít kẻ thán oán . Như vậy đủ biết trên đời không kẻ tu luyện cho đặng nhục thân (xác phàm) xuống âm phủ . (Trừ ra thân ngoại hữu thân thì đi mới đặng ).

Từ đó đến nay các hồn soi Nghiệt cảnh đều là người dữ mới giải lần đến cửa này, đừng kiếm cớ chữa mình nhiều chuyện . Quỉ đầu trâu mặt ngựa dẫn chúng nó lên đài Vọng hương cho mau." Cái đài Vọng hương nhiều cửa vòng nguyệt, hình đài ấy như cái cung lên thẳng dây, giáp vòng 81 dậm, bề dài về hướng bắc, ngay như dây cung , còn đông, tây, nam, ba hướng trước với hai bên đều vòng tròn như cái cung, cao 490 thước, gươm giáo dựng làm chông xung quanh mặt thành, 63 từng rộng rãi . Kẻ hiền lành không lên đài ấy. Kẻ tầm thường công qúa bằng nhau, cũng khỏi lên, được đầu thai. Trừ ra phạm tội nhiều, trừ hết công, còn dư quá, mới cho lên đó . Nghĩa vọng hương là ngó mong về thấy nhà cửa quê hương mình, cho thấy cho nghe đặng biết việc ra thể nào . Các hồn ngó thấy những là người nàh không y theo lời mình trối, cãi các lời dạy, hoặc chuyên vận hết của mình, hoặc chồng cưới vợ khác, vợ lấy chồng khác, hoặc con cháu kiện chia gia sản ruộng đất, sổ sách giấy tờ bấy lâu, bây giờ xé hết .

Giấy tờ thiếu nợ họ đòi không đúng . Còn kẻ thiếu mình mượn mình, không giấy, hoặc người nhà kiếm không đặng giấy thì bị chúng nói ngược hết, cãi lẩy với nhau, đều đổ thừa trả rồi cho mình (người chết) ! Bà con hờn giận rầy rà, con cái giấu đút, bằng hữu nói tước . Có kẻ nghĩ tình khóc một tiếng, rồi cười bằng hai ! Lại còn mấy kẻ tội dữ, thấy con trai bị tù tội, vợ bịnh hoạn, con gái bị chúng hãm hiếp, hoặc sự nghiệp tiêu điều, hoặc cháy nhà, hoặc hết của ! Các hồn thấy việc như vậy tức tối mà khóc nhào ! Quỉ sứ dẫn xuống, giam vào khám lớn, tra coi phạm tội gì thì dẫn vào 16 ngục tru tâm mà mổ ruột . Mỗi cái ngục đều trồng một cây trụ, rắn bằng đồng làm lòi tói, chó hình bằng sắt làm ghế đôn . Trói hết tay chưn vào trụ, rồi lấy dao nhỏ mổ bụng kéo tim, xẻ lần cắt bỏ cho rắn ăn . Rồi rút ruột cắt bỏ cho chó ăn, hành đủ ngày giờ mãn tội rồi, huờn hình như thường, giải qua Lục điện . Mười sáu ngục kể ra :
1. Ngục mổ tim không tin báo ứng .
2. Ngục mổ tim sát sanh hại mạng .
3. Ngục mổ tim bỏ phải mà làm quấy .
4. Nguc mổ tim làm dữ tập phép trường sanh
5. Ngục mổ tim khi lành muốn người mau chết .
6. Ngục mổ tim toan mưu vu vạ (hoạ).
7. Ngục mổ tim trai gian dâm, gái ngoại tình .
8. Ngục mổ tim tốn của người lợi cho mình .
9. Ngục mổ tim gắt gao không kể ai chết .
10. Ngục mổ tim trộm cắp nói ngược .
11. Ngục mổ tim quên ơn báo thù quá .
12. Ngục mổ tim độc ác xui hại người .
13. Ngục mổ tim lường gạt dỗ dành .
14. Ngục mổ tim háo thắng, ham đánh lộn .
15. Ngục mổ tim ganh hiền ghét ngõ .
16. Ngục mổ tim ngu mê không tỉnh kiêu ngạo .
Những tội không tin Thiên đường Địa ngục luân hồi, quả báo ; ngăn trở kẻ làm sự lành ; mượn tiếng đi chùa dòm hành sự lỗi của người mà nói : đốt hủy kinh sách ; ăn mặn mà tụng kinh niệm Phật ; thấy người ăn chay tụng kinh niệm chú mà chê : chê bai tiên Phật ; kẻ hay chữ coi kinh sách mà không giảng cho kẻ dốt phụ nữ nghe : cuốc phá mã hoang, làm cho loạn lạc ; vô cớ đốt rừng : để người nhà lơ đểnh làm cháy nhà, hại lây cả xóm ; hay bắn cầm thú ; vật kẻ yếu bịnh ; quăng liệng phá người : đăng dò bắt cá ; chày lưới các cuộc bắt cá ; gát chim . (Lấy mủ cây làm cho dính giò bẫy, các đồ lề bất chim, hoặc đổ thuốc độc dưới đất) ; những mèo chết, rắn độc chết không chôn cho sâu, hại người đào nhằm móc nhằm trúng độc khí bịnh chết : trời lạnh run mà bắt dân đào đất dầm nước đặng làm vách đắp lò bếp mới ; lấy thế cất dinh quan, lấn ranh chiếm đoạt ruộng đất dân, lấp giếng bí ngọn rạch (thuộc về ỷ thế) ; các tội kể trên đó, những kẻ phạm tội ấy, cho lên Vọng hương coi rồi, giam vào khám lớn, tùy theo tội mà mổ tim, mới giải qua Luc -điện tra tội khác . Nếu cơn còn sống không phạm các tội ấy, hoặc đã phạm lỡ, ngày vía trẫm là ngày mùng tám tháng giêng, mà ăn chay thề nguyền không tái phạm các tội ấy nữa, sau trẫm tha hỏi hành, lại tư tờ qua Lục -điện giải tội nữa . Trừ ra tội sát nhơn, hoặc theo tà thuật, xưng đặng trường sanh : hoặc hãm hiếp phụ nữ ; hoặc đàn bà tham dâm ghen độc : hoặc vu oan cho hư danh tiết người ; hoặc trộm cướp nói ngược ; hoặc trộm cướp nói ngược ; hoặc quên ơn bạc ngãi, báo oán quá lẽ ; nhứt là nghe kinh khuyên giảng mà không ăn năn chừa lỗi ! Các tội ấy chẳng hề châm chế .
Còn người đời, gọi tài thần giữ của cho người, tưởng vậy là sái lắm ! Ấy là mấy người chôn tiền bạc của cải hoặc các quan chôn của báu, đến thác phần hồn còn mê mà tiếc của, sợ chúng đào, nên hồn ma ở đó giữ mãi, ai tới thì hiện hồn ma mà nhát . Thần thánh nghĩ nó vô tội, nên bỏ qua cho ma giữ của . Chừng nào nghe câu kinh Phật dạy :' Cái thân cũng không phải của mình, ngũ uẫn (năm mối) là tham . sân, si, ái dục, đều không '. Hồn ma giữ của mới tỉnh lại rằng :'Cái thân là xác còn bỏ, không phải của mình mà dùng được, huống chi là của tiền '. Mới chịu bỏ của mà xin đầu thai kiếp khác . Còn mấy kẻ vô phước lại gần chỗ đó bị ma nhát mà hết hồn sanh bịnh . Như thế -gian ai nghe chỗ nào có ma quỉ hiện hình hay nhát, biết là chỗ ma giữ của, thì van vái thề nguyền, xin đào đặng của ấy thì chia ra như vầy : 10 phần xuất ra ba phần mà làm siêu độ tụng kinh cho hồn ấy đầu thai hưởng phước, ba phần nữa phóng sanh cho vong ấy, một phần bố thí cho bần nhơn thì hết 7 phần rồi, còn ba phần thì mình hưởng . Vái nguyện như vậy rồi đào, thì có thánh thần làm chứng, lấy làm như vậy không hệ gì,



Đại Bi Chú
 
NoiVoiDauGoi Date: Thứ Ba, 17 Apr 2012, 9:01 PM | Message # 22
Colonel
Group: Users
Messages: 176
Status: Tạm vắng
VUA BIỆN THÀNH NGỰ CỬA ĐỀN THỨ SÁU

Làm lành được phước :

Cất chùa, tu bổ am tự con cháu thi đậu làm quan .

Làm các điều dữ mắc tội :

1. Vừa lúa đợi giá cao, nhà nghèo mua ít không bán ; quá phòng người nuôi làm con, lớn bỏ cha mẹ nuôi, mà theo họ cũ ; hoặc cạo vàng trong mình Phật cốt mà bán, cũng như bán Phật ; các tội ấy đều bị đóng đinh căng lút vô bàn chông đứng .
2. Ăn cắp kinh sách, hoặc mua mà xé, bị treo mà lột da .
3. Kêu trời van đất, không cung kính thánh thần, bị cưa ngược .
4. Ăn trộm, ăn cắp, bị quì trên chông sắt luôn luôn .
Biện thành vương, điện tại đáy biển chánh bắc, khám lớn gọi là Đại hiến đoán, địa ngục rông 500 dặm do tuần, 16 ngục nhỏ :
1. Ngục thường quị thiết sa, quì chông .
2. Ngục chi nê tẩm thân, hầm phẩn .
3. Ngục mạ tồi lưu huyết, xay bột .
4. Ngục kiềm chỉ hàm châm, ngậm kim .
5. Ngục cát hận thử giảo, thiến dái cho chuột ăn
6. Ngục cực võng hoàn toàn, đĩa cắn trong lưới gan
7. Ngục ngối đão nhục tương quết nem .
8. Ngục liệt bì khí lôi, nghiến rách da .
9. Ngục hàm hỏa bế hầu, ngậm lửa .
10. Ngục tang hỏa bại hông, thổi lửa đốt (lửa giân).
11. Ngục phẩn tự, rạch phẩn .
12. Ngục ngưu điêu mả táo, trâu báng ngựa đạp .
13. Ngục phỉ khiếu, khoan lỗ (xoi).
14. Ngục trát đầu thoát xác, bửa sọ .
15. Ngục yêu trảm, xắt ngang lưng .
16. Ngục bác bì, tuyên thảo, lột da, đóng chông đứng .
Phàm giận trời trách đất, ghét gió sấm lạnh nực nắng mưa ; day mặt về hướng bắc mà tiểu tiêu, hĩ mũi, khạc phun, khoét, cạo vàng hình Phật, móc tiền dằn tâm ông Tiêu ; kêu tên tộc Tiên Phật thánh thần ; không kỉnh giấy chữ kinh sách ; để đồ dơ uế gần chùa đình, bàn thờ : hương đăng trà quả, đồ cúng không, tinh khiết ; dơ dáy trong bếp, không cữ thịt trâu, thịt chó, học sách tà dâm (thể chiến), tà đạo, để sách ấy trong nhà mà không đốt, sách ếm hại người cũng vậy, bôi xé kinh sách, đồ khí dụng . vẽ hình Thái -cực (mặt trăng lộn âm dương), hoặc vẽ nhựt nguyệt sao bắc đẩu, hoặc hai hình hoà hiệp (nguyệt hiệp lão nhơn), hoặc hình Tây-vương-mẫu (Diêu trì), hình Phước Lộc Thọ, hoặc hình Bát -tiên, mà làm nhãn gói đồ, hoặc thêu chữ (Vạn) vô hàng giẻ vải cờ, giường, ghế, bàn tơ và đồ khí dụng, hoặc dùng làm chữ hiệu, phạm thượng bận quần áo có hình rồng phụng, vựa lúa chờ giá cao không bán ít cho nhà nghèo : các tội kể trên đó, đều giam vào khám Đại -kiếu -hoán . Tra tội nào đáng hành 16 ngục nhỏ, đủ ngày giải qua Thất -điện, tra tội khác hành nữa .
Nếu ai ở dương thế, ăn chay ngày mồng tám, tháng ba là vía trẫm, thề nguyền tự hậu không dám phạm tội nói trên đó, và 14 rằm tháng năm, mồng ba tháng tám, mồng 10 tháng mười, trong bốn ngày ấy ăn chay, cấm phòng, (vợ chồng không ăn nằm với nhau) cũng như các ngày vía lớn vậy, lo cầu khẩn ăn năn chừa lỗi thường năm giữ được năm ngày ấy như vậy, sau khỏi hành các ngục nầy .
Thế tục lưu truyền nói :'Thập bát tằng địa ngục '. Dưới Âm -phủ có 18 từng địa ngục, ấy là nói sái, chánh là :' Nhập bát tằng địa ngục '. Vào tám cửa địa ngục lớn . Kể tám ngục lớn ra sau đây : Nhị điện có khám lớn gọi là Huợt đại địa ngục . Tam điện có Hắc thằng đại địa ngục . Tứ điện có Hiệp đại địa ngục . Ngũ điện có Kiếu -hoán đại địa ngục . Tại Lục điện đây có Đại Kiếu hoán đại địa ngục . Thất điện có Nhiệt não đại địa ngục . Bát điện có Đại Nhiệt não đại địa ngục . Cửu điện A tì đại địa ngục . Cộng tám cái khám lớn, mỗi khám lớn đều có 16 địa ngục nhỏ để hành tội và Huyết ô trì, Uổng tử thành, cộng vừa lớn vừa nhỏ 138 địa ngục ; lại còn bào lạc rằng khác . Phàm các phạm bị hành rồi, tuy cháy da nát thịt, đứt gân, dập xương, không còn lông tóc, chừng giải qua điện khác huờn hình lại như khi mới chết mà hành hình nữa, rồi giải qua cửa khác cũng như vậy .Trẩm thích nghĩa cho rành, kẻo tưởng có 18 địa ngục . Nhứt là tội đặt bài ca huê nguyệt, tuồng truyện tà dâm, hoặc vẽ hình tục tĩu, hoặc làm thuốc phá thai, hoặc thuốc mê, hay là khắc bản in ra, hoặc sao tả lưu truyền các bài các hình ấy, nếu bản ấy còn, bổn còn không tuyệt đồ đó, thì người bày đặt còn bị hành tội hoài, dẫu muôn ngàn đời cũng không khỏi hình phạt nơi địa ngục vì bày tà dâm dục lòng người cho hư phong hoá .

 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 17 Apr 2012, 9:01 PM | Message # 23
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
VUA THÁI -SAN NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ BẢY

Làm lành hưởng phước :

Phàm con có hiếu, hết lòng phụng dưỡng cha mẹ, kính yêu mười phần . Khi nuôi đau càng hầu hạ thức thối cần mẫn hơn nữa, đến nỗi cha mẹ bịnh liệt, ăn không được có khi đặt bàn cầu trời, mình lóc chút thịt cánh tay, mà nấu ra nước cho cha mẹ uống cầm hơi . Ấy là lời nói thí dụ tỏ lòng thương hết sức chạy lo như vậy . Có hiếu thì động lòng trời .

Làm các điều dữ mắc tội :

1. Ăn trộm đồ trong hòm, hoặc bày thuốc phá thai bị quăng lên núi lửa .
2. Sang đoạt, hoặc dỗ dành gạt chúng, bị ngục trảm thủ (chặt tay).
3. Lấy xương người mà làm thuốc, bị nấu dầu .
Đền thái -san vương tại đáy biển tây-bắc, khám Nhiệt -não đại địa ngục giáp vòng 500 dậm do tuần, có 16 ngục nhỏ .
1. Ngục chày nục tự thôn, đánh sặc máu bắt nuốt !
2. Ngục thềm thối hỏa bức khanh, hầm lửa .
3. Ngục liệt hung, bửa ngực .
4. Ngục nha xa ngoạn phát, cột tóc trên nạng .
5. Ngục khuyển giảo kinh cốt, chó cắn cẳng .
6. Ngục đảnh thạch tồn thân đội đá .
7. Ngục lả đảnh khai ngạch, đập óc xả trán .
8. Ngục úc thống khốc cẩu đôn, chó cắn .
9. Ngục lê bì trư tha (trư đà), lột da, heo cắn mà trì .
10. Ngục đoạn hảo thượng hạ trác giảo, trên chim
lắc nước mổ, dưới heo rừng xé .
11. Ngục điếu đạp túc, treo cẳng .
12. Ngục bạt thiệt xuyên tai, kéo lưỡi xỏ má .
13. Ngục sưu trường, rút ruột .
14. Ngục loa đạp hoa trước, la đạp, heo rừng cẳn .
15. Ngục lạc thủ chỉ, đốt ngón tay .
16. Ngục du phủ cổn phanh, nấu dấu .
Nếu ai có uống hồng diên (kinh nguyệt lần vỏ da, thứ nhứt)
tử hà xa nhau (nhau) ; hoặc uống rượu phí dụng thái quá ; mua đồ trong hòm người chết ; hoặc lấy xương cốt người mà làm thuốc : phân rẽ vợ chồng, thân thích người ; gả dâu làm thiếp , hoặc đợ ; để cho vợ trấn nước con gái : hoặc chửa hoang đẻ ra liền ủ ; bài bạc đánh môn đánh cặp chia tiền của, hoặc gian lận ; thầy không cần dạy để đệ -tử hư : không cần tội nặng nhẹ, cứ chửi tôi đánh tớ tới bị thương tích : hà hiếp xóm diềng : không kính người lớn hơn mình, dạy phải chẳng vâng lời : khua môi uốn lưỡi, xúi rầy đánh lộn ; các tội ấy tùy nhẹ nặng hành hình đủ 16 ngục . Hành đủ rồi, giải qua Bát điện tra tội khác nữa .
Trong đời thiếu chi vị thuốc, nỡ nào giết vật sống mà làm thuốc, trị bịnh thiệt ở bất nhơn . Còn như uống hồng diên, nhau rún đồ dơ trong mình đàn bà, như ăn thịt người, thì cái miệng cũng như một thứ uế trược kia dẫu có làm lành tụng kinh niệm chú đã không linh, mà càng thêm tội, nên án ấy không dung . Nếu ai nghe khuyên nầy, mau mau chừa lỗi, nguyện cữ sát sanh, lại phóng sanh được một trăm vạn mạng mỗi ban mai súc miệng niệm Phật cho nhiều, đến khi mãn phần, Phật sai Tịnh nghiệt sứ giả đem đèn soi cho tiêu hơi uế mới đặng .
Nếu ai lấy xương cốt kẻ chết thiêu, hoặc thây con nít chết mà làm thuốc, hoặc lấy sọ người bán mà làm vị thuốc có kẻ ác kiếm xương người tới cả gánh, chắc thì làm đồ khí dụng, mục thì tán ra bột pha đồ . Hầm các vật dụng thì dầu có công gì, trừ cũng không đặng, thà hành tội ấy công nọ để trừ tội khác, dư sẽ cho hưởng kiếp sau . Còn bây giờ hành các ngục rồi, rốt giải qua vua thứ mười đặng cắt tay khoét mắt, chặt tay chưn, hớt môi miệng mũi, đầu thai làm kẻ tật nguyền, thậm chí hai tật mà trừ tội ấy . Nếu ai còn sống biết tội, phải thề nguyền ăn năn, không dám phạm nữa, hoặc phải thí hòm mà đi liệm thí nhiều xác, sau chết đeo đính bài, trên đính bài ông Táo có chấm một điểm mực làm dấu, xuống đây mới khỏi hành hình .
Có năm thất mùa đói lắm, tới nỗi kẻ sống đói quá ăn thịt thây ma . Nếu ai ngất ngư hấp hối còn chút hơi thở mà nỡ lòng cắt thịt nấu ăn, hoặc làm nhưn bánh bao, bánh in mà bán cho người ăn, ở lòng độc như vậy bị hành xây vần 16 cửa ngục nầy đủ 49 ngày, thì cho Thập -điện ghi vào sổ, rồi chạy tờ cho Nhứt điện đem tên vào bộ nữa, cho đầu thai lên làm súc vật chết đói, cho thấy đồ đổ trước mắt mà nuốt không vô, phải chịu đói tới chết .Tội này không phước nào trừ được, cũng không đặng đầu thai làm người mà trả quả . Còn kẻ ăn lầm, biết rồi mà còn ăn nữa, phạt đầu thai làm súc vật sưng họng đói lắm mà ăn không đặng, nhịn cho tới chết . Nếu biết lầm mà không ăn nữa, thì chế cho bố thí năm đói mà trừ (như thí lúa gạo tiền bạc cơm cháo hoặc nước gừng, nước trà), được như vậy đã tiêu hết tội trước, lại trả phước nhãn tiền và kiếp sau .
Ba điều trên ấy là quan văn, quan võ với các phán quan điện nầy hội nghị hai điều, còn Địa -ngục thứ tư (chúa ngục) nghị một điều, là ba điều, trẫm cũng cho viết theo sau, dưng Thượng đế, nhờ ân chỉ phê cho và thăng thưởng các viên hội nghị .
Lại truyền chỉ dụ : Thế gian làm điều dữ, chư thần đã nghị tội hành phạt rồi .
Hỡi còn việc quân lính, việc công vụ, lễ nghị, chế riêng điều lệ nhỏ, các khoảng ấy điều y thao luật của nước nào chế, thì trị theo luật nước nấy . Nếu chúng nó chối mà đổ tội cho kẻ khác, tức thì phải tra minh mà trị tội y luật . Các cửa âm ti y chỉ dụ '.
27 tháng ba nhằm ngày vía trẫm, ai ăn chay day mặt lạy về phía bắc, thề nguyền ăn năn chừa lỗi, làm lành in cuốn Ngọc -lịch cho đời coi mà cải ác, sau khỏi hành các ngục nầy '.



Đại Bi Chú
 
NoiVoiDauGoi Date: Thứ Ba, 17 Apr 2012, 9:01 PM | Message # 24
Colonel
Group: Users
Messages: 176
Status: Tạm vắng
VUA BÌNH -ĐẲNG NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ TÁM

Làm lành hưởng phước :

Kẻ giàu có trai tăng bố thí cho thầy tu, được phước lộc .

Làm các điều dữ mắc tội :

1. Bất hiếu, cha mẹ sống không nuôi, cha mẹ thác không chôn, hoặc hồi cha mẹ còn sống làm cho cha mẹ ưu phiền bất bình, hoặc làm điều phạm phép, cho cha mẹ kinh hãi, đều bị xe cán .
2. Ở quấy với người ơn của mình, hoặc chắp cây chiết chi, đem nhánh nầy chắp qua gốc cây kia, đều bị xắt ngang lưng .
3. Nói tục -tĩu về việc phụ nữ, bị kéo lưỡi mà cắt .
4. Khi người nghèo, dua bợ giàu sang bị mổ bụng móc tim .
Ngục nầy có thành Uổng tử để giam hồn tự tận (giết mình).
Bình Đẳng vương đền tại đáy biển chánh tây, khám lớn là Đại Nhiệt não đại địa ngục, rộng 500 dặm do tuần, có 16 ngục nhỏ :
1. Ngục xa băng, xe cán .
2. Ngục mộng hoa, chảo đậy ngột .
3. Ngục tối quả, lóc thịt tận xương .
4. Ngục lao khổng, bóp mũi, bóp họng .
5. Ngục tiển thiệp, hớt chót lưỡi .
6. Ngục thường thinh, nhà tiêu .
7. Ngục đoạn chi, chặt tay chơn .
8. Ngục tiền tạng, nấu đồ lòng .
9. Ngục chích tủy, nướng mỡ xương .
10. Ngục bát trường, móc ruột .
11. Ngục phần tiêu, đốt trái thận .
12. Ngục khai đường, mổ ức .
13. Ngục hoạch hung, sả ngực .
14. Ngục phá đảnh náo xỉ, bửa đầu xeo răng .
15. Ngục phê cát, bằm xắt .
16. Ngục cang xa, chĩa sắt đâm .
Những con bất hiếu, cha mẹ còn không nuôi, cha mẹ thác không chôn, hoặc làm cho cha mẹ hay là cha mẹ chồng hết hồn, giựt mình, phiền hờn, rầu buồn, nếu không ăn năn chừa lỗi, ông Táo ghi vào sổ tội thứ nhứt tâu Thiên -tào cho bớt lộc bớt tuổi, cho tà quỉ làm điên khùng, thác rồi còn bị hành hình các ngục khác, giải đến cửa nầy ngưu đầu mã diện xách giò quăng vô khám lớn, rồi dẫn lại các ngục nhỏ hành hình cho đến kiếp, mới giải qua cửa thứ mười cho đầu thai làm súc vật . Nếu ai thấy Ngọc lịch mà tin, mỗi năm vía trẫm là ngày mồng một tháng tư, ăn chay thề nguyền chừa tội lỗi, sớm tối nguyện với ông Táo, xin ăn năn chừa lỗi, đến mãn phần ông Táo đề chữ Tuân trên trán, hoặc chữ Thuận, chữ Cải dầu hồn xuống từ Nhứt điện đến Thất điện có tội chi khác đều giảm phân nửa và khỏi phải giải qua điện nầy, đi luôn qua Cửa điện tra có đốt nhà, hoặc tính mưu thầm hay không . Rồi giải qua Thập điện cho đầu thai làm người tử tế .

Thượng đế có chỉ dụ: "Nếu ai ăn năn chừa lỗi, in Ngọc lịch cho thiên hạ coi mà hồi tâm, thì sau thác xuống đi luôn từ Nhứt điện thẳng tới Bát điện khỏi hành các ngục . Tới cửa điện tra tội phước nếu không tội thì giao qua Thập điện cho đầu thai nhà giàu sang mà hưởng phước lâu dài ."

Còn Huyết ô trì phía sau điện, mé bên tả . Sãi vãi tại thế gian giảng sái rằng : "Đàn bà sanh đẻ có tội, sau bị sa Huyết ô trì". Ấy là nói sai lắm ! Sự đó tại trời sanh còn làm tội là nghĩa gì, dầu đàn bà đẻ mà thác, cũng không tội nhơ uế chi hết . Tội là vầy: Đẻ chưa đầy tháng mà xách nước, lội sông, vô bếp, giặt quần áo dơ, phơi hứng tam quang, các tội ấy về chủ nhà (người lớn trong nhà) chịu ba phần còn bảy phần đích thân nàng ấy chịu . Ao Huyết ô để phạt gái dâm dục sau bàn Phật, trước chỗ thờ thần, hoặc không cữ giao hiệp bốn ngày kị nhụt thần trong mỗi năm, là 14, rằm tháng năm, mồng ba tháng tám, mồng mười tháng mười, nội bốn ngày đêm ấy, mà ăn nằm thì tại dương thế đã mang bịnh, hoặc chết rắp, hồn xuống đây còn bị lăn lội dưới ao ấy lâu ngày . Hoặc sát sanh vấy máu trong bếp, hoặc bàn thờ, hoặc vấy máu vô kinh sách, hoặc đồ đựng cúng tế, cũng bị sa Huyết ô trì . Trừ ra có người thân nguyện cữ sát sanh lại phóng sanh cho vong hồn, lạy Phật tụng kinh cầu mới khỏi .

 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 17 Apr 2012, 9:02 PM | Message # 25
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
VUA ĐÔ THỊ NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ CHÍN

Làm các điều lành được hưởng phước :

1- Mùa đông thì nước gừng, mùa hè thì trà nước, có phước .
2- Đưa đò thí, con cháu thi đỗ hiễn vinh.

Làm các điều dữ mắc tội :

1- Đi tới tiền làm chùa sửa chùa quan thếp Phật, mà ăn gian, hoặc rủ người đậu tiền khắc bản kinh, hoặc in kinh, ăn gian, hoặc bán mà thủ lợi, đều bị quăng trên núi cao .

2- Bắt ếch, nhái, lươn cá, thuốc cá, bắt chim, ăn thịt trâu chó ngựa, hay sát sanh bắt rùa rắn, vô cớ mà hại vật, đều bị quạ xé thây ăn gan tim, rắn đục tai, niệng mũi .

3- Phân vợ rẽ chồng người, nói đâm thọc cho ruột thịt xa nhạu Vẽ hình tục tĩu, làm thuốc tráng cho tà dậm . Hoặc đặt đồ huê tình, hoa-nguyệt cho sanh thói dâm . Hoặc đập chó . Các tội ấy đều bị chó vật chết, xé thây ăn thịt tim phổi .

Đô thị vương đền tại đáy biển tây nam, khám lớn là A tì đại địa ngục, rông 8 trăm dặm do tuần đều bao lưới sắt, lập riêng 16 địa ngục nhỏ :

1- Ngục xao cốt chước thân, đập xương đốt mình .
2- Ngục sưn cân lôi cốt, rút gân nghiền xương .
3- Ngục nha thực tâm can, quạ ăn tim gan.
4- Ngục cẩu thực trường phế, chó ăn ruột phổi .
5- Ngục thân tiện nhiệt du, mình, tưới dầu sôi .
6- Ngục não cô bạt thiệt, bạt xỉ, nỏ đầu, kéo lưỡi, nhổ răng.
7- Ngục thủ não vị điền, con nhím khoét sọ ăn óc .
8- Ngục chưng đầu, quái não, nấu dầu, nạo óc .
9- Ngục dương súc thành hải, dê cụng bấu .
10- Ngục mộc hiệp đảnh, ta nỏ nát sọ .
11- Ngục mạ tâm, móc tim mà xay.
12- Ngục phị thang tâm thân, trấn nước sôi.
13- Ngục huỳnh phong, ong vò vẽ đánh .
14- Ngục nghị chú ngao thầm, kiến đục tóp (thắng mỡ ra tóp cho kiến ăn.)
15- Ngục yết câu, bồ cạp chích .
16- Ngục tử xích độc xà toàn khổng, rắn đỏ độc chun cửu khiếu .
Phàm vua thế gian chế luật hình phạt, như tội nặng lắm xử lăng trì (chém rồi xả tư ), xử trảm (chém), xử giảo (thắt họng), hồn xuống chịu các ngục trước hành rồi, giải đến điện nầy, hoặc kẻ đốt nhà, nuôi xâu ngải, thuốc độc, phá thai, hút hơi rún cho bổ, nút tinh trai, hoặc vẽ hình tục tỉu, đặt thơ truyện ca huê nguyệt (thơ ân tình ) hay là bài thuốc mê, thuốc phá thai . Ai có phạm đều, thấy Ngọc -lịch thì ăn năn, thề chừa lỗi, không dám phạm nữa, nếu dâm thơ thì xé não, in rồi thì hủy bản, đốt sách, không truyền phương thuốc tà vạy nữa (thuốc tráng) thì sau xuống đây tha hành các ngục, giao qua Thập điện cho đầu thai làm người . Nếu nghe Ngọc - lịch mà còn làm các tội ấy, thì sau hành từ Nhị điện cho tới đây, đây trước hành bào lạc (xiềng tay chân vô ống cột đồng đốt đỏ, đẩy lên cháy thành than), huờn hồn lại giam vào ngục A tì mà hành theo 16 ngục nhỏ, rồi huờn hồn nữa, đâm gươm vô họng thấu tim phổi, giam hoài đợi các nhà bị hại trên thế gian khá lại, kẻ chết đầu thai hết, hoặc não bổn dâm thơ hết lưu truyền nữa, hoặc phương thuốc độc hết truyền, hoặc kiểu hình tục tĩu tuyệt hết, thì hồn phạm mới khỏi giam đặng đi đầu thai .
Nếu ai phạm các tội ấy, đến ngày vía trẩm là mồng tám tháng tư, ăn chay, day mặt về hướng bắc, vái nguyện chùa lỗi, mua thâu dâm thơ mà đốt, hoặc in Ngọc -lịch cho người, hết sức khuyên đời cải ác tùng thiện, đến mãn phần, ông Táo đề hai chữ ' Phụng hành trên trán, thì từ Nhị điện đến đây, tra công mà trừ các tội khác . (Nếu kẻ giàu sang có quyền thế cho bắt kẻ hung hoang hay đốt nhà chúng, hoặc cấm dâm thơ, hủy bản đốt sách dán yết thị cấm các việc hại đời ấy, thì cho con cháu nối đời thi đỗ làm quan . Nếu kẻ nghèo, dốt, phụ in Ngọc lịch khuyên đời sau đầu thai hưởng phước .
Vua Phong đô đại đế phán rằng :' Tay Bát điện có thành Uổng tử, ở phía hữu điện nầy (vì 2 đền gần nhau). Thế tục nói sái rằng :' Ai bị thác oan, thì hồn bị cầm thành Uổng tử '. Đời nghe lưu truyền lâu, cũng tin là thiệt ! Sao không xét cho đủ lý , người đã thác oan, cầm ngục nghĩa là gì ? Cho đi thong thả chớ không cấm cố, song nán đợi kẻ giết mình xuống Âm phủ, hành tội trước mặt hồn oan trước cho hết tức, rồi mới cho đi đầu thai Còn thành nẩyđể giam những kẻ vô cớ giận lẩy mà giết mình, trầm mình thắt họng, uống thuốc độc vân vân, giam đỡ đây đợi hành tội chưa đặng đầu thai chớ không phải các hồn bị người giết Uổng -tử . Nếu kẻ liều mình vì sự trung hiếu tiết nghĩa, hoặc quân lính vì nước mà tử trận, các bực ấy kẻ đáng thành thần thì hiển thánh, kẻ còn tội lỗi, không đặng thành thần, thì đã cho nguyên hình mà đi đầu thai, có đâu giam cầm thành nầy mà chịu bó buộc thảm khổ hay sao ?



Đại Bi Chú
 
NoiVoiDauGoi Date: Thứ Ba, 17 Apr 2012, 9:02 PM | Message # 26
Colonel
Group: Users
Messages: 176
Status: Tạm vắng
VUA CHUYỂN -LUÂN NGỰ ĐIỆN THỨ MƯỜI

Làm các điều lành được phước :

1. Nhà giàu sang thí kinh lành, hoặc thí Ngọc -lịch phước lớn .
2. Tụng kinh, tụng cảm -ứng tu hành niệm Phật, giàu sang sống lâu .

Làm các điều dữ mắc tội :

1. Hãm hiếp, dụ trẻ thơ mà ăn của, đều bị xay ra bột
2. Không kỉnh giấy chữ, rủ ăn trâu, chó, phát làm hành khất
3. Không kính người lớn, dạy khuyên điều phải mà chẳng vưng lời, hoặc thầy bảo học trò trọng giấy chữ, đều bị đá đè .
4. Không phải cúng ông bà, nuôi cha mẹ mà sát sanh . Hoặc mưu kế lường gạt ăn gian . Bày kiện thưa báo đời . Hoặc nghề võ đánh độc cho người chết . Các tội ấy đi ngang cầu Nại -hà bị té xuống sông cho rắn mãn xà cua đinh ăn thịt .
Chuyển -Luận -Vương đền tại đáy biển đông, ngay rún trái đất, có làm cầu bằng vàng, cầu bằng bạc, cầu ngọc, cầu bằng đá, cầu cây (cầu ván) và cầu Nại -hà, cộng sáu cái cầu .Các điện giải hồn đến, xét tội phước cho đầu thai các phương thế gian, định giàu sang hèn khó, sống lâu thác yểu, đều ghi sở rõ ràng mỗi tháng chạy tờ về Nhất điện ghi sổ rồi nạp cho vua Phong đô đại đế .
Luật Âm phủ, phàm tứ sanh là loài đẻ con, loài đẻ trứng, loài dưới nước, loài biến hoá lộn kiếp, những loài không chân cẳng, hoặc hai giò, 4 chân, nhiều cẳng, các vật ấy chết rồi hoá ra con tích (mà chết một kiếp nữa) xoay vần như cối xay, hoặc số một năm nửa năm, hoặc sớm mai sanh chiều chết, đổi dời biến hoá mạt kiếp, không định số, là loài phải bị giết cho hết kiếp, cho đầu thai các nơi mà trả quả . Mãn năm cũng phải trình sổ ấy cho vua Phong đô đại đế xem .
Phàm kẻ học nho có đọc kinh Diệc, các sãi, mấy thầy tu có tụng kinh niệm chú, mà phạm tội nhiều quá, tuỳ bắt hồn đến các điện, cũng chưa hành đặng, phải giải đến đền trẫm vẽ hình và biên tên vào sổ Đoạ lạc danh sách . Rồi giao cho Mạnh bà ở đài Ứ Vong, đổ thuốc mê, cho đầu thai chết trong bụng, hoặc sanh ra một đôi ngày mà chết hoặc hơn
trăm ngày mà chết, hoặc một hai năm rồi chết, đặng cho quên hết kinh chú, rồi Nhứt điện bắt hồn tra tội mà hành Nếu ai công quả bằng nhau, hoặc dư quá chút đỉnh, thì định cho đầu thai làm trai, làm gái, xấu tốt, khoẻ cực, giàu nghèo, đều giao Mạnh bà cho uống nước mê (lú) rồi mới đầu thai .
Trẫm hằng kêu tên mà cho đầu thai làm người, nhiều kẻ phụ nữ khóc lạy rằng :' Còn thù lớn chưa trả đặng, nên không muốn đầu thai, thà chịu làm ma đói (ngạ quỉ), Trẫm hỏi rỡ, thì chúng nó kể ra : hoặc con gái đồng trinh hoặc con tiết phụ, bị các trò tốt trai háo sắc, hoặc tham của các nàng ấy, lập kế dỗ dành, làm mặt nhơn nghĩa, nói tiếng ân hậu, mà tư tình cho được ; kẻ nói dối chưa vợ, thề sẽ cậy mai đến cưới, hoặc gạt tớ gái, hứa sẽ lập làm thiếp mà lấy chơi phá trinh rồi bỏ, hoặc hứa nuôi mẹ già trọn đời, hoặc hứa nuôi con ghẻ . Các phụ nữ vì tin mà mắc, té ra hết của, thất tiết, mà chẳng đặng chồng ! Sao lại bán rao cho cha mẹ anh chị hành hà, xóm giềng đàm tiếu, tức mình hổ thẹn mà liều mình, hoặc tức tối thất tình phát bịnh mà chết ! Nay nghe đứa phụ tình đi thi khoa nầy chắc đậu, nên xin ở lại đợi tới khoa mà báo oán đòi mạng, ngặt nó chưa tới số, hoặc phước đức tổ phụ nó còn nhiều, xin cho lên phá nó hồn mê, thi chẳng đậu, hoặc cáo với Văn Xương đế quân phạt nó phải rớt (mới ra sự đổi tên có đứa khác đậu thế) đợi tới số sẽ xin lên vật hồn báo oán, các vụ ấy trẩm tra rõ oan ức, thì cho tờ nó tới Nhứt điện cáo . Nếu ai ăn chay ngày vía trẫm la 17 tháng tư, thề nguyền tin Ngọc lịch mà ở, và đem bài này mà giảng cho các trò nghe mà đặng giữ mình, thì người giảng ấy trọn đời khỏi thủy tai hoả hoạn, khỏi việc qua quan hình phạt .
Còn sở luân hồi rộng bảy trăm dặm do tuần, trên dưới xung quanh đều có rào sắt và bao lưới phép, chia ra 81 chỗ, mỗi chỗ đều có nhà mát, các phán quan thơ lại, để bàn ghế biên chép . Ngoài rào sắt có 108.000 đường dương trường (nhỏ như ruột con dế) quanh co đi thông lên các nước .Chia ra sáu ngã (lục đạo) luân hồi, loài người có hai : 1. giàu sang, 2. khó hèn, trong ngoài đều sáng . Còn bốn ngã tứ sanh, là : Thai sanh, loài đẻ con (thú bốn cẳng). Noãn sanh, loài đẻ trứng có hai cánh . Thấp sanh, loài ở dưới nước, như cá, tôm cua ốc, rùa, trạnh, lươn, chạch, ếch nhái vân vân . Hoá sanh là loài tằm hóa nhộng, sâu lộn bướm, sùng hoá bồ xè, đuông hóa kiến dương, quăng hoá muỗi, kiến mốc mọc cánh, vân vân . Bốn loài ấy đường ở trong tối đen như sơn, ngó ra ngoài sáng như thủy tinh, như hai ngã loài người vậy . Các phán quan thơ lại kêu tên nhìn mặt rõ ràng cho luân hồi sáu ngã, một mảy không sai . Các phán quan thơ lại, đều là người hiếu đễ, cữ sát sanh, phóng sanh, tu hành, nên phong chức thần, mà coi sở luân hồi ấy . Coi năm năm công bình không sai thì đặng lên chức, nếu trể nải, hoặc lộng quyền, hoặc để tội trốn, thì bị phạt giáng chức, nhỏ thì bị đày .
Phàm kẻ bất hiếu, hoặc sát sanh nhiều quá, bị các ngục hành rồi, giải đến đây, sai quỉ sứ lấy nhánh đào đập chết, hoá ra con tích, cho đội lốt tứ sanh đi đầu thai trả quả .
Phàm cầm thú : cá, loài trùng (tứ sanh), đầu thai muôn ngàn kiếp đã mãn tội, thì loài hóa sanh được làm thấp sanh, thấp sanh trở lại noãn sanh, noãn sanh trở lại thai sanh, ba đời mà không giết hại mạng vật, thì được đầu thai làm người . Tại đây cũng làm sổ, gởi qua Nhứt điện phê, rồi cho uống thuốc mê nơi Mạnh bà, rồi đầu thai lên thế gian các nước .

 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 17 Apr 2012, 9:02 PM | Message # 27
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
LỜI VÃNG SANH CỦA PHẬT

Trẫm đem vào đây cho đời tỉnh lại .
Trên đời hay sát sanh, nên bị đao binh hại :
Báo oán giết một thân, thiếu tiền thiêu tới trại .
Mình đào hang ổ kia, nó phá vợ con lai .
Oan trái trả xảy vần, lóng tai nghe Phật giải :
Thịt, mua lừa khúc béo, cá, chắc lựa con tươi .
Y phục kén phần nhứt, ruộng vườn chọn vẹn mười .
Phóng sanh thì tiếc của, lảng Phí chẳng nhường người .

Đến thác tay không nắm, một mình tội mấy mười !



Đại Bi Chú
 
NoiVoiDauGoi Date: Thứ Ba, 17 Apr 2012, 9:03 PM | Message # 28
Colonel
Group: Users
Messages: 176
Status: Tạm vắng
MẠNH -BÀ NƯƠNG CON BÀ Ứ -VONG

Thần Mạnh Bà sanh đời tiền Hán, hồi nhỏ học sách nho
lớn tụng kinh Phật . Không nhớ sự đã qua, chẳng mơ việc sẽ đến . Cứ lo khuyên người cữ sát sanh và ăn chay như mình . Không chồng tới 81 tuổi, tóc bạc mà mặt còn tơ . Bởi họ Mạnh nên kêu là Mạnh -Bà (bà họ Mạnh). Sau bà lên núi tu tới thành . Qua đời hậu Hán nhiều người biết kiếp trước, nhớ mạy đi nhìn bà con xưa, lại trí hóa nhiều, nói lậu sự Âm -phủ . Bởi cớ ấy, Thượng -đế phong Mạng -Bà lên chức Ứ -vong nương nương, là bà thần cho uống nước mê (tục kêu cháo lú), ở đài Ứ -vong nơi âm -phủ, trước đền Thập -điện ; đài ầy mới lập rộng lắm, cấp thơ lại quỷ sứ cho bà sai . Lấy vị thuốc của thế tục, chế ra như rượu, có đủ mùi ngọt đắng cay chua mặn, cho các hồn sẽ đầu thai đều uống, cho lú quên các việc kiếp trước, lại cho mỗi hồn có vài ba phần tật, như nhớ cười lo giận sợ, nhểu nước miếng, đổ mồ hôi, sổ mũi, khóc, khạc nhổ . Người lương thiện, cho thêm thông minh, tỏ tai sáng mắt, mạnh khoẻ ; kẻ làm dữ cho tới tinh thần, trở ra bịnh yếu phạt lần, làm cho người biết cải ác tùng thiện .
Đài Ứ -vong ở trước đền Thập -điện, ngoài sáu cái cầu, cao lớn như nhà khách trong chùa (phương trượng) xung quanh 108 căn, phía đông có đường rộng một thước bốn tấc . Trong các căn đều để bình chén mà đãi các hồn uống nước rồi đi đầu thai . Miễn có uống bao nhiêu cũng đặng . Hồn nào nghịch mạng không uống, quỉ sứ trói giò lại, thọc ống đồng vô miệng mà đổ nhiều nước mê, ực rồi mới mở trói đỡ ra ngoài đường, xô lên cầu tre nổi, dưới sông nước suối chảy đỏ lòm, ngó thấy bên mé có gành đỏ núi gie mé sông đề bốn hàng chữ phấn trắng, nét lớn lắm, bốn hàng chữ như vầy :

[center]Vì nhơn dung dị tác nhơn nan,
Tài yếu vi nhơn khũng cánh nan !
Dục sanh phước địa vô nan xứ :
Khẩu dữ tâm đồng, khước bất nan .


Thích nôm :

[center]Xưa dễ làm người, nay khó bì,
Mong làm người nữa khó nhiều khi,
Muốn sang phú quí không chi lạ :
Lòng miệng như nhau chẳng khó gì


Các hồn coi rồi, hoặc đọc rồi, có hai con quỉ cao lớn ở mé biển nhảy ra tới mặt nước : một quỉ đội mão đẹn, bận áo gấm, tay cầm giấy viết,vai mang gươm trường lưng đeo còng xiềng, trơn cạp mắt tròn vo cười ngất, ấy là quỉ Huợt vô Thường ; còn quỉ kia mặt dơ chảy máu, mình bận áo cổ giữa trắng, tay xách bàn toán, vai vác túi gạo đeo đính bài trước ngực, châu mày nhăn mặt thở ra than dài, ấy là quỉ Sanh hữu Phận Hai quỉ xô các hồn nhào xuống khe nước đỏ mà đầu thai . Kẻ có tội nhiều mừng đặng đầu thai làm người . Kẻ có công chưa đủ siêu thăng, thì tức và khóc rằng . Tu chưa đúng bực nên phải luân hồi cõi trần nữa ! Các hồn như say như mê, nhập vào xác con nít trong bụng, hai chơn đạp cái nhao, chung ra khỏi mình mẹ . Lâu ngày tham mùi ngon, không thương mạng vật, xa cách tánh lành, phụ ơn trời phật rộng thương, chẳng lo thác hiền chết dữ, thân sau thể nào, thì cũng làm hồn ma mang thây nữa !
Bài nầy là thơ lại ở đài Ứng -vong, viết rõ dưng Thượng đế xin cho để sau Ngọc lịch cho đời hiểu (Nhậm tấu).
Vì Thập vương làm não rồi, giao cho các phán quan chép lại vẽ hình kỹ càng, có đề họ tên thuật tích, dưng cho Địa tạng vương xem lại ngày 30 tháng bảy . Qua mồng ba tháng tám Địa tạng với Phong đô Thập điện chư thần đồng dưng cho Thượng -đế phê chuẩn rồi, song chưa có ai xác phàm xuống Am -phủ mà trao Ngọc lịch đem về truyền lại thế giạn .
Qua cuối đời Tống Nhân - tôn (nước Liêu niên hiệu vua Thái Bình) nhằm năm Canh ngũ, ngày mồng chín tháng chín (trùng cửu trùng dương), Đạm Si đạo nhơn (Kinh Ngô là thầy tu nước Liêu,Hồ tăng) ở gần núi, ngày trùng cửu, lên đỉnh núi dạo chơi, xảy thấy một tấm bia đá, chạm 32 chữ cổ tự như vầy :

Vô vi đại đạo, thiên tri nhơn tình .
Vô vi yển minh, quỉ kiến nhơn hình .
Tâm ngôn ý ngữ, quỉ văn nhơn thinh .
Phạm cấm mãn dinh, địa thâu nhơn hồn .


Thích nôm :

Đạo cả thinh không trời biết lòng,
U minh thần quỉ thấy người ròng .
Nói thầm, suy nghĩ, thần nghe hiểu .
Tội nặng thâu hồn, đất bắt vong .


Xảy thấy phía trong thắp đèn vàng, trước cửa điện có treo tấm biển 4 chữ :' Xuất sanh nhập tử ' (nghĩa là : đầu thai thì đi ra, thác rồi hồn trở về đó). Đạm Si đương coi, xảy thấy đồng tử áo xanh kéo vào đơn trì (sân sơn son đỏ) quì lạy, rồi thối lui đứng trước thềm . Xảy thấy Thập vương kéo vào, đọc lời chúc ngày vía Phong đô đại đế và dưng bổn Ngọc lịch . Phong đô đại đế xem rồi, truyền văn võ các phán quán, đòi các quỉ sứ ngưu đầu mã diện mang lông đội sừng đều đến chầu, đứng tám hướng .Truyền phán quan đọc bổn Ngọc -lịch một bận . Các quỉ sứ lạy tạ ơn tâu rằng :' Nếu ngày sau chúng tôi được đầu thai, hễ thấy Ngọc lịch nầy thì thề nguyện y theo cho đặng siêu độ '. Xảy thấy hào quang chiếu sáng, các phán quan cai trị thành Uổng tử và ao Huyến Ô, đều đem bổn sổ đến dưng và tâu rằng : ' Từ năm Thượng đế phê chỉ, cho ban phát Ngoc -lịch đến nay, bởi chưa có dịp đem lên Dương gian, nên chúng tôi, tra kỹ những phạm dư trăm ngục, có nhiều hồn khi còn sống hay giảng nhơn quả trong chốn đông người, hoặc giữa chợ đông, hoặc ngả ba ngả bảy, có người nghe tội phước mà hồi tâm . Chiếu theo luật Ngọc - lịch, cũng là khuyên người chừa lỗi, đáng ân xá tội nhỏ, cộng 50.480 hồn khuyến thiện, giảng quả báo . Nên thập vương hội nghị ân xá bọn ấy, định vào sổ đầu thai, tùy theo tội ít tội nhiều cho vào đường phú quí nhỏ, hoặc tầm thường . Kẻ tội nhiều cho làm người khó hèn, hoặc quan quả cô độc (quan là không vợ, goá vợ ; quả là goá chồng ; cô là mồ côi ; độc vô hậu không con, độc mộc đến già), đáng cho uống nước mê mà đầu thai, khỏi hành hình nữa, nên dưng sổ cho Đại đế xem '. Phong đô đại đế xem qua khen phải .
Xảy nghe báo rằng :' Có Phật Quan -Âm Bồ -Tát giáng hạ '. Phong đô đại đế với Thập vương đồng ra chào mừng . Quan -Âm mới xuống thì hình phụ nữ, có Thiện tài theo hầu, Long -nữ cầm phướng . Đến khi Đại -đế Thập -vương ra chào mừng thì Quan -âm hoá ra hình ông Tiêu Diện đại sĩ (mặt xanh lưỡi đỏ), mình cao mười sáu thước mộc, truyền chỉ rằng : Ta phụng chỉ Thượng -đế, y lời tâu của Địa Tạng với Thập vương chư thần, xin ban Ngọc - lịch năm đó, cho thế gian ăn năn, nguyện tu chuộc tội, khỏi hành địa ngục : nay cho hồn phạm đầu thai, trẫm rất vui lòng . Lại nghe vời đặng Đam Si mà trao Ngọc lịch, về dạy thế gian cải ác tùng thiện . Trẫm ao ước có người tin Ngọc lịch, truyền giảng mà khuyên đời, chừa lỗi làm lành như mình, được đông người sửa lòng như vậy, thì núi đạo ao huyết cũng bỏ không, các địa ngục càng ngày càng trống, thì người khuyến thiện thành chức : Trí huệ dẫn thiện diễn kiếp Phật ' (vì Phật Trí huệ đem lành khỏi tội).
Đại đế Thập vương với các thần thành hoàng (thần trong đình) đồng chắp tay nói theo rằng :' Vị khuyến thiện đáng thành chức Phật ấy '.
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 17 Apr 2012, 9:03 PM | Message # 29
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Quan âm nói :' Nếu người tu ở thế thấy Ngọc lịch mà diễn dịch ra cho người dốt đàn bà con nít dễ hiểu, người ấy thành công đức nhơn thứ pháp thắng Phật ', (Phật công đức nhơn xét tài năng).
Các vị ấy cũng chắp tay nói theo rằng :' Đáng thành Phật '.
Quan âm nói :' Nếu ai thấy Ngọc lịch đi đứng nằm ngồi cũng cám mến ơn trời, rèn lòng thanh tịnh, khuyên giảng độ người ăn năn làm lành đặng năm điều thiện, sẽ được làm bạt tiến cho vong hồn tiên nhơn thân quyến . Lòng công bình muốn cho người đặng phước như mình, quyết khuyên dạy nhiều người tu hành, làm bạt tiến cho phạm hồn được đầu thai, địa ngục phải trống, thì người ấy thành : Cứu khổ tiêu huệ Phật '. (Phật Cứu khổ nạn, ơn khắp nơi).
Các vị hết thảy đều chắp tay nói theo rằng :' Đáng thành
Phật '.
Khi ấy Phong đô đại đế phán rằng :' Bởi Địa tạng vương muốn siêu độ các phạm hồn nên truyền xét hồn nào hồi ở thế có biết ăn năn chừa lỗi, thì ân xá khỏi hành các ngục . Chư thần đã vưng chỉ, Ngài lại truyền Thập vương hội làm Ngọc lịch, dưng xin phê nơi Thượng đế . Nhờ ơn Thượng đế phê cho và có chỉ dụ sửa các khoản ... rồi đây Trẫm sẽ dạy . Bởi bấy lâu chưa gặp ai đức hạnh, nhục thân đến cõi U-minh, mà trao Ngọc lịch, đem về Dương gian khuyến thế . Nay Đạm -Si đến dưới thềm, xứng đáng truyền kinh Ngọc lịch . Như vậy nay đã có người rồi các phán quan thơ lại đem cuốn Ngọc lịch, viết thêm lời Quan âm phụng chỉ mới truyền, với chư thần truyền dạy, biên thêm đủ điều và bảo Đam -Si ghi sự tích mình gặp truyền Ngọc lịch vân vân, cho đời hiểu cội rễ . Còn khi trước có chiếu Thượng đế chỉ dụ sửa các khoản :
1. Các văn biểu tâu xin phê chuẩn, đều bỏ đừng biên vì rộn ràng e đời khó hiểu .
2. Các vị thần với Thập vương đề tên họ thiệt, và thuật lý lịch tích mình vì làm sao mà thành, khoản ấy cũng bỏ, không cho đời biết sự tích làm chi, cứ đề nội tước (chức) như mỗ Bồ tát mỗ đế, mỗ điện mỗ vương, phán quan, thơ lại, để trống mà thôi, không cho đời biết tên họ . Ví dụ : Phong đô đại đế viết Diêm la vương viết . Đề chữ viết, bỏ họ tên, như phán quan viết vân vân, phải chấm câu vòng câu theo lời nói, cho đời dễ hiểu, e ít học khó phân câu . Cứ y chỉ như vậy, các phán quan viết lại, không nên làm sái . Còn mấy bài trẫm bảo thích nghĩa, Dương gian nói sái nói lầm như Huyết ô trì . Uổng tử thành, thập bát tằng địa ngục vân vân, ngày giáp thìn tháng ba, năm nhâm ngũ, trẫm có dưng sớ, Thượng đế cho biên thêm vào Ngọc lịch . Thôi cứ vậy bôi sửa đi '.
Khi ấy Thập vương cầm viết, điện nào sửa theo điện nấy, rồi đưa cho phán quan thơ ký chép tinh lại . Khi ấy Đạm Si quỳ dựa bàn án mà xem các phán quan chép tinh lại . Xảy thấy Tiêu diện đại sĩ, hiện lại hình bà Quan -âm, cầm nhành dương liễu châm bình nước cam lồ rải xuống ba lần, rồi đằng vân bay lên cao hết thấy .
Còn Thập vương cũng từ tạ lui về các điện . Phong đô đại đế bãi chầu, ngự vào trong .
Lúc này các phán quan chép các lời Quan âm, sao Ngọc lịch, biên các lời chư thần và đọc cho tôi viết từ chữ :' Thời thiên hạ thái bình canh ngũ niên ... tới chữ chúc tất ', cộng 129 chữ . Rồi giao cho các vị viết thêm đủ điều, mới trao cho tôi mà dặn rằng :' Người biết mặt với họ tên chư thần đã nhiều, nay trở về Dương gian, xin đừng nói lậu tên họ anh em chúng ta, e người đời biết có tổ tiên thân thích làm phán quan thơ lại dưới âm phủ, cơn nào nó có bịnh trọng, không lo làm phước cho mau mạnh, nó lại làm nhăng sát sanh cúng tế, đốt sớ điệp, cầu tổ tiên phò hộ cho thêm tội với chúng ta . Vả lại Thượng đế chỉ dụ cho Đại đế tại điện này với Thập vương chư thần, còn phải bôi hết ên họ lý lịch, quê hương sự tích thay ! Huống chi chúng ta là phán quan, thơ lại ? Bởi lòng người đời khó lường (khó độ) lắm, e khi mượn kế sanh sự nữa, thì người với chúng ta khó mà khỏi tội lỗi, Xin nhớ lời dặn đừng quên ?' Tôi thích huyết thề nguyền, không dám nói lậu, lại ghi thêm các lời phán quan thơ lại dặn cho đời hiểu . Nếu tôi đặt điều mà giả mạo lời thần phật, trời đất thánh thần há dung sao ?
Nội đêm trùng cữu ấy, Đạm Si đạo nhơn ghi lời bạt .


Đại Bi Chú
 
NoiVoiDauGoi Date: Thứ Ba, 17 Apr 2012, 9:04 PM | Message # 30
Colonel
Group: Users
Messages: 176
Status: Tạm vắng
LỜI BẠT CỦA VẬT -MÊ ĐẠO -NHƠN

Tôi hiệu là Vật -Mê đạo nhơn (người tu, thầy tu tiên), tháng sáu, năm Mậu Thân, đi dạo qua tỉnh Tứ -xuyên, huyện Song -lưu, dọc đường gặp thầy tôi là Đạm Si tôn giả (Hồ tăng sãi nước Liêu . Tôi hỏi thăm thầy ở đâu ? Thầy tôi trả lời rằng : Ta ở đất Luân hồi sanh tử (sống thác xây vần) ải Nhơn quỉ khứ lai (người ma qua lại) nghĩa là đi lạc xuống Âm phủ mà về đây . Ta nói cho ngươi rõ : những kẻ ở thế gian được phép đến mấy ngày vía Thập Vương, ăn chay cầu nguyện chừa lỗi cũ, cải ác tùng thiện, cứ lạy hướng bắc (chỗ Ngọc đế), nguyện chừa lỗi cũ, không dám phạm nữa, làm lành mà chuộc tội, sau thác hồn khỏi hành hình nơi các địa ngục ; ấy là ân xá giảm tội . Tại thế gian nhiều án chạy khỏi chối được chớ xuống âm phủ không lọt một mảy lông, không than cũng chẳng phép chuộc tội . Quí tại còn sống ăn năn làm lành mà trừ tội mới đặng . Ngặt người đời chẳng xét, tại cái thiện thì làm người, tâm ác thời làm vật . Song kẻ phụ nữ trăm người còn biết ăn năn làm lành một hai người . Chớ đàn ông ngàn người, may có một người cải ác ! Có nhiều khi gần chết mà chưa biết ăn năn, thì phải chịu hành nơi địa ngục !
Nay nhờ ơn Địa tạng vương bồ tát truyền Thập vương dọn Ngọc lịch, xin chỉ Thượng đế phê cho thế gian, biết ngày ăn năn nguyện làm lành chuộc tội, lại truyền bổn Ngọc lịch cho ta . Ta khuyên đời phải biết : có phước mới đặng làm người, còn sống, rán ăn năn lành lành kẻo muộn . Ngươi có lòng khuyến thiện, nay ta trao Ngọc lịch cho ngươi sao ra truyền cho đời biết '. Ta quì lạy lãnh cuốn Ngọc lịch thầy ta lần lần bay lên cao . Nên ta sao ra cho đời, ai khắc in ra lưu truyền cho đời khỏi tội thì mình được phước . Khuyên ai phạm tội mau chừa, không phạm thì rán mà giữ . Đừng đợi thác rồi, mới muốn sống lại mà tu không đặng .

VẬT MÊ ĐẠO NHƠN (ghi ký)

Mười ngày vía Thập vương, đều lạy hướng bắc :

Nhứt điện Tần quảng vương mồng 1 tháng 2
Nhị điện Sở giang vương mồng 1 tháng 3.
Tam điện Tống đế vương mồng 8 tháng 2.
Tứ điện Ngũ -quan-vương 18 tháng 2.
Ngũ điện Diêm-la-vương mồng 8 tháng giêng .
Lục điện Biên-thanh-vương mồng 8 tháng 3.
Thất điện Thái -san-vương 27 tháng 3.
Bát điện Bình -Đẳng -vương mồng 1 tháng 4.
Cửu điện Đô-thị -vương mồng 8 tháng 4.
Thập điện Chuyển -luân-vương 17 tháng 4.
Và 14, rằm, 16 tháng 5, mồng 3 tháng 8, mồng 10 tháng 10
ăn chay ngủ riêng như trên . Vía 10 vua, nội 4 tháng 1, 2, 3, 4.
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 17 Apr 2012, 9:04 PM | Message # 31
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
THÁNH ĐÀN TRAI KỲ GIỚI KỲ
(cấm phòng)

Các vía lớn, ăn chay, hoặc ngủ riêng, khỏi tội đặng phước . Tuy không ăn chay mà ngủ riêng cũng quí hơn . Tháng nào nhuần thì theo tháng trước : Tháng giêng : Mồng 1 vía Di Lặc, Thiên-Lập, ngày cúng trời . Mồng 3 vía Tôn chơn -nhơn, tổ thuốc và Hát chơn nhơn, ông tiên . Mồng 6 vía Định -chơn -Phật . Mồng 8 ngũ điện, Giang- đông thần . Mồng 9 vía Ngọc -hoàng thượng đế . 13 Lưu -mãnh tướng quân . Rằm vía Thượng -nguơn, Thiên -quan đại đế . Hựu -thành Tịnh -ứng chơn quân . Từ mồng 8 đến rằm, các vị ấy đi dẹp yêu quái, ai ăn chay, ngủ riêng, tụng kinh, có phước hơn mấy ngày thường thập bội, 19 Khưu -trường Xuân, ông tiên, cũng tổ thuốc ông đặt chuyện Tây-du . Tháng hai : Mồng 1 vía Nhị - điện, Thái dương, Câu-trận . Mồng 2 vía Thổ địa chánh, Tử -đông Văn -xương (Tụng Bổn nguyện, Bảo sanh). Mồng 4 Táo tướng quân . Mồng 6 Đông-Huê đế quân . Mồng 8, Trương đại -đế, Tam điện, Thích -Ca xuất gia (tụng Kim cang) 13 vía Các -chơn -quan, tổ thuốc, Rằm vía Thái, thượng lão -quân (tụng Cảm ứng). Tinh -trung Nhạc nguơn-soái -17 vía Đỗ -tướng -quân . 18 Tứ -điện . 19 Quan -âm (tụng Phổ -môn, Cứu -khổ). 21 vía Phổ -hiền bồ tát, Thủy -long Thánh -mẫu nương -nương . 25 vía Huyền -thiên thượng -đế thánh -phụ Minh chơn -đế .
Tháng ba : Mồng 1 vía Nhị điện . Mộng 3 vía Huyền thiên thượng đế (tụng kinh Báo ân cho cha mẹ ). Mồng 6 vía Thượng lão tướng công, Nhạng hương . Mồng 8 Lục điện, 13 Trung ương ngũ đạo . Rằm Hạo thiên, Huyền đàn, Lôi đình, 16 vía Chuẩn đề Sơn thần, 18 Hậu thổ nương nương, Trung nhạc . 20 vía Tử tôn nương nương (bà chúa thai sanh). 23 Thiên hậu nương nương 27 vía Thất điện, 28 vía Đông nhạc đại đế, Khương hiệt (ông thánh chế chữ).
Thánh tư : Mồng 1 Bát -điện . Mồng 4 Văn thù bồ tát . Mồng 8 Thích -ca Phật tổ, Cửu điện, Doãn -chơn -nhơn . 14 Lữ -tổ, Thuần dương, Rằm Thích -Ca thành (tụng Kim -cang). 17 vía Thập -điện ... 18 Tử -vi đại -đế . 20 Nhãn -quang thánh -mẫu . 26 vía Chung -san tướng công . 28 vía Dược -vương cổ Phật .
Tháng năm : Mồng 1 Nam -cực đại -đế . Mồng 5 Địa -lạp (cúng đất). Ôn -ngươn-soái, Đặng -thiên quân . Mồng 7 vía Châu -thái -úy . Mồng 8 Nam phương ngũ -đạo 11 vía Đỗ -thành -hoàng (cai trị các thành -hoàng). 12 Bỉnh -linh -công . 13 vía Quan thái tử . 14 rằm, 16, ba ngày kị thần (cấm phòng). 17 Trương -thiên-sư . 20 Phùng chơn -nhơn . 29 Hứa oai hiển vương .
Tháng sáu : Mồng 4 chư Phật giáng . Mồng 6 Thôi -phủ -quân . Mồng 10 Lưu -hải -thềm đế quân . 13 Tỉnh -tuyền Long -vương . 19 Quan -âm thành đạo 23 vía Quan -đế, Vương linh-quan . Hỏa -thần . 24 Lôi -tổ . 26 Nhị -lang 27 Thiên -xu tả tướng (châu tử).
Tháng bảy : Mồng 7 Đạo -đức -lạp (cúng thần tiên), Ngưu -lang Chức -nữ . 12 Trường -chơn, Đàm chơn -nhơn . 13 Đại -thế chí bồ tát . Rằm Trung -nguơn, Địa quan đại đế . Linh -tế chơn quân . 18 Diêu -trì Tây -vương -mẫu nương nương . 19 Trị -niên thái -tuế (An giao). 21 Phổ -am tổ sư, Thượng nguơn đạo hoá . Đường chơn -quán . 22 Tăng phước tài thần, 23 Thiên -xu thượng -tướng chơn -quân (Gia -cát). 24 Long -thọ -vương bồ tát .30 Địa -tạng -vương bồ -tát (U -Minh giáo chủ). Tháng tám : Mồng 1 Thần -công Diệu -tế Hứa -chơn -quân . Mồng 3 vía Táo -quân (mồng 3 với 27 Bắc -đẩu giáng hạ phải cữ)
Mồng 5 Lôi -thinh đại -đế . Mồng 10 Bắc -nhạc đại -đế . 12 Tây -phương ngũ đạo Rằm thái -âm triều nguơn (tụng Thái -âm), 18 Tửu -tiên (Lý -thái -Bạch). 22 Nhiên Đăng Cổ Phật . 23 Phục -ma phó -tướng Trương -hiên -vương (ông Trương). 24 Táo -Mẫu (bà Táo .)
Tháng chín : Mồng 1 Nam đẩu giáng hạ (Từ mồng 1 đến mồng 9, 9 sao). Mùng 3 Ngũ ôn . Mùng chín Cữu thiên huyền nữ . Phong đô đại -đế . 16 Cơ thần . 17 Kim Long tự đại lương, Hồng ân chơn quân . 23 Tát chơn nhơn . 26 Ngũ hiển linh quan . 30 Dược Sư Phật .
Tháng mười : Mồng 1 Dân tuế lạp, Đồng hoàng . Châu chơn quân . Mồng 3 Tam mao ứng hoá chơn quân . Mồng 5 Đạt ma sư tổ . Mồng 6 Thiên tào chư tư, Ngũ nhạc Ngũ đế giáng hạ . Mồng 8 vía chư Phật hội niết bàn, phóng sanh có phước thập bội . (Nếu ngày mồng 8 tháng 10, làm một tội nặng bá bội ngày thường). Rằm Hạ nguơn Thủy quan đại đế, Đậu thần : Lưu sứ giả . 20 Trường hư Tịnh thiền sư . 27 Bắc cực Tử vi đại đế .
Tháng mười một : Mồng 4 Đại thánh chí thánh Văn tuyên vương (Khổng tử). Mồng 6 Tây nhạc đại đế . 11 Thái Ất Cứu khổ thiên tôn . 17 A di đà Phật (tụng Di đà). 19 Nhựt quang thiên tử, Cữu liên bồ tát . 23 Nam đẩu giáng hạ, Trương tiên, 26 Bắc phương ngũ đạo .
Tháng chạp : Mồng 1 Tiên phật giáng hạ (tụng kinh phước hơn nhiều). Mồng 8 Vương hầu lạp, Trương anh Đế, Thích Ca thành Phật (tụng Kim cang). 16 Nam nhạc đại -đế . 20 Lỗ ban . 21 Thiên du thượng đế . 24 Tư mạng Táo quân chầu trời (tối 23 cúng đưa trước). 29 Hoa nghiêm bồ tát . 30 Chư Phật giáng thế xét lành dữ .
Mỗi tháng mồng 8, 14 ; rằm, 23,29, 30 Bắc đẩu giáng hạ, ăn chay tụng kinh .
Tùng nhiên hòa thượng ở chùa Thiên thai đặt bài khuyên thế .
Người đời chẳng tin nhơn quả báo ứng, nên có kẻ số thọ mà yểu, số giàu mà nghèo, tướng làm quan mà thi rớt ! Sách Bửu giám nói :' Lành thì trả lành, dữ thì trả dữ : nếu chưa trả, tại ngày chưa đến '. Lại có bài thơ rằng :
Trời sanh khó dối bởi không tây (tư -vị).
Mới tính thần hay nạp sổ nầy .
Lành dữ rốt rồi đều trả quả .
Chẳng qua đều kíp với đều chầy .
Kinh Nhơn quả nói ;' Phỏng kiếp trước dữ lành, coi đời nầy hoạ phước . Độ kiếp sau hoạ phước, tại đời nầy dữ lành '. Lại nói rằng :' Dầu làm dữ mấy kiếp, cũng trả cho mình '. Kinh Niết -bàn nói :' Quả báo có ba cắch ! 10 Hiện báo, làm lành dữ đời nầy, trả phước họa cũng nội đời nầy ; 20 Sanh báo : kiếp trước làm, trả kiếp nầy, đời nầy làm, trả đời sau ; 30 Tốc báo : mới làm lành dữ, trả phước hoạ nhãn tiền, trước mắt tức thì '. Phải biết trời đất không tư vị ai, tại mình làm lành dữ nặng nhẹ, nên trả mau chậm khác nhau . Người đời khó hèn, điếc câm đi nhót, gãy tay, tật nguyền bịnh trời cho, đói lạnh, đều tại kiếp trước hưởng xài quá lẽ, làm dữ phạt nội đời ấy chưa hết kế tới số chết, nên đầu thai kiếp nầy phải phạt thêm cho đủ tội, Như vậy mà không tin nhơn quả báo ứng làm sao ?
Người đời những kẻ không tin địa ngục, đến gần chết hay thấy ma quỉ, hoặc nghe tiếng binh khí, xiềng tỏa mới tin có quỉ thần địa ngục, liền van vái cầu thần . Té ra đèn giữa gió, gần tắt, ăn năn muộn sao kịp, khó trốn quỉ Vô thường . Quí tại ăn năn cho sớm, tỉnh lại mà tu, gần chết mới sợ vô ích .
Đời Tùy vua Khai hoàng, có quan tự thừa Triệu văn Xương chết đi sống lại nói rằng :' Hồn xuống âm phủ thấy Châu Võ đế bị xiềng ba lớp tại phòng, kêu Xương lại mà nhắn rằng :' Khanh về tâu với Tùy hoàng đế rằng : các tội trẫm cãi lẽ xuôi hết, còn một tội hủy Phật nặng lắm, mau làm phước bố thí, tụng kinh mà cầu cho trẫm khỏi tội ,' Xương ra ngoài thấy một người dưới hầm phẩn ló đầu lên, hỏi ai đó ? Người ấy đáp rằng :' Ta là Bạch -Khởi, tướng mạnh đời Tần '.
Sách Danh thần ghi :' Kinh Công có tên con Phương dữ lắm, xúi Kinh Công làm nhiều điều trái lẽ . Đến Phương thác, Kinh Công mơ màng thấy Phương mang gông đứng dựa cửa . Kinh Công sửa nhà làm ra kiểng chùa, bố thí tụng kinh cầu Phương khỏi tội '. Lấy sách nho đó làm chứng, đủ tin Ngọc lịch, thì khỏi khổ phần hồn, Ông Tư mã Ôn công nói :' Trên có Thiên đường . Người quân tử thác rồi, lên Thiên đường, dưới có Địa ngục, tiểu nhân thác rồi hồn sa Địa ngục .' Sao gọi không Thiên đường Địa ngục ?



Đại Bi Chú
 
NoiVoiDauGoi Date: Thứ Ba, 17 Apr 2012, 9:04 PM | Message # 32
Colonel
Group: Users
Messages: 176
Status: Tạm vắng
Đoan sơn đại tiên là ông Vương chương, đặt kinh thế lục rằng :' Thiệt quả có Địa ngục . Bởi người tính lành, thì thuộc dương sáng, nên khí thanh lên thiên đường . Còn lòng tính dữ, thuộc âm tối nên khí trược xuống Địa ngục . Diêm quân tra hỏi, hành tội mổ bụng rút ruột, đốt cháy nấu dầu là tại lòng chứa dữ '.
Người đời không tin thác rồi đầu thai . Như kẻ không con, cưới vợ bé nhiều cũng vô ích, vì không thai nghén hoặc có nghén bị tử phúc trung, hoặc chết theo mẹ, không thì nuôi lớn chưa kịp có con mà chết yểu, thì cũng vô hậu, những kẻ ấy thiệt là vô phước lắm . Nếu vợ chồng có con sum hiệp đến già, tuy khó hèn cũng là có phước nhiều ít mới đặng vậy .
Sách danh thần nói :' Mẹ ông Phạm -tổ -Võ, lúc gần sanh ổng, chiêm bao thấy người cao lớn xưng mình là Đặng -Võ tướng quân đời Hán, thức dậy sanh con trai mới đặt tên Tổ -Võ . Đến lớn ở thuần lắm, nên đặt tự Thuần -Phu '.
Còn sách Tự -Loại, sách Mông -Cầu, có ghi tích Dương Hộ sanh ra, mà nhớ chiếc vòng kiếp trước . Bảo Tịnh nhớ cái giếng kiếp trước . Con gái Hướng Tịnh chết non . rồi đầu thai lại nữa, nàng nói chuyện kiếp trước không sai . (Con ranh con lộn mà nuôi được ). Ngươi Văn Thẩm sống lại nhập vào xác khác . Những tích ấy đều tại sách Nho, sao không tin luân hồi đầu thai kiếp khác .
Phàn người lành, đầu thai nhà giầu sang có đức mà hưởng phước . Công quả bằng nhau đầu thai nhà tầm thường . Công ít quả nhiều, đầu thai nhà rủi ro, hèn khó mà trả quả . Như trong Ngọc lịch nói :' Thử lòng kẻ ấy, còn làm dữ nữa, không biết ăn năn mà làm lành, Thác Địa ngục làm con Tích, đầu thai làm thú vật, nếu về hoá sanh lộn mãi, hết trông làm người '.
Bà Diệu Huệ chơn nhơn (bà thân ông Văn Xương) nói :' Con người ở đời, sống thác không nhứt định, ở tạm rồi đi, như trăng tròn khuyết, như hoa nở tàn . Ngày nay mới sanh là hồn chết kiếp trước lộn lại . Nếu thân trước chưa thác, thì hồn ấy có lộn vào xác nầy mà sanh ra đâu . Nếu ngày nay đến chết mà biết mình tội nhiều, thì trông chi đầu thai tử tế .
Người đời chẳng tin thác rồi đầu thai làm thú vật . Sách Nho biên sự đầu thai ấy rất nhiều, chẳng phải một tích . Sử Tùy thơ, Lý sĩ Khiêm nói :' Ông Cổn là cha Địa Võ, hoá làm con cua đinh ba cẳng, gọi là con ba ba, Ngươi Đỗ Võ hóa làm đề Quyên là con quốc . (Nên chim quốc tên là Đỗ Võ Đỗ Quyên). Bao Quân hóa rồng . Ngưu Ai hóa cọp, Bành Sanh hóa heo rừng . Như Y hóa chó . Huỳnh Mẫu hóa vịt, như càng thay lớn lắm . Tuyên Võ hóa trạch (cua đinh, tục kêu là cá giải). Đặng Văn hóa trâu . Từ Bá hóa cá . Kim Hạ hóa quạ, Thơ Sanh hóa rắn '. Các điều đó biên nơi sách Nho, sao mà không tin ?
Đức Thánh Khổng -tử nói :' Sanh ra đến già phải thác, làm người chẳng sống đời, nếu theo dữ bỏ lành, sao khỏi làm loài khác '. Kinh Lăng Nghiêm nói :' Người thác làm dê, dê thác làm người '. Phổ Am tổ sư đặt bài kệ rặng :' Súc sanh bổn thị nhân lai tác, nhân xuất luân hồi cổ đáo câm, Bất yếu phi mao tinh đái giác, khuyến quân hưu sử súc sanh tâm '. Nghĩa là : người lộn súc sanh cũng tại tâm, xưa nay người vật chuyển luân thầm . Muốn không đội gạc mang lòng xấu, khuyên chớ làm theo dạ thú cầm .
Ông Tịnh Trai học sĩ nói .' Thông minh bất năng địch nghiệp, phú quý, khởi miễn luân hồi '. Nghĩa là : Khôn lanh khó chữa tội, phú quý cũng luân hồi .
Ông Hồng Mai nói :' Hay coi thọc huyết heo, làm thịt dê, sau gần chết la như tiếng heo dê kêu vậy, có khi chết rồi đầu thai làm chim, cho người mua mà thả . Nếu đàn bà hay coi sát sanh dê heo lắm, có khi đẻ ra đầu dê, hoặc mình rắn, hoặc trứng như trái cầu (đẻ bọc) '. Cứ theo lời ấy, người ta còn đẻ súc vật côn trùng, hoặc đẻ trứng, huống chi thác rồi đầu thai làm súc vật, mà gọi không lẽ . Bởi luân hồi mà trả nợ thường mạng, là nhơn quả xoay vần . Khuyên đời đừng gọi mắt chưa thấy nên chẳng tin, cứ làm dữ mãi (tin tại phải lý, lựa chờ mắt thấy, đợi mắt thấy đà chết rồi còn gì ! ).
Xưa có kẻ hỏi thầy Trình -tử rằng :' Phật nói chết rồi đi đầu thai nữa, sự ấy thấy thiệt chăng ? Thấy Trình -tử nói :' Sử ấy nói có nói không cũng khó hiểu . Song xét lời đức thánh Khổng -tử dạy rằng :' Vị tri sanh, yên trí tử ' (chưa biết sự mới sanh đâu biết sự thác rồi), do một câu ấy thì đủ hiểu rồi '. Coi Trình -tử và ông thánh đời Tống ; mà chưa dám gọi không luân hồi đầu thai . Còn xét lời nói đức thánh Khổng -tử, đâu biết việc thác, thì sự luân hồi đầu thai không phải huyễn .
Ông Châu -liêm -Khuê tự Mậu -thức, là thầy hai ông Trình -tử, Trình -Hi, Trình -Hạo, ( Y Xuyên với Minh Đạo ). Khi ấy ông Châu -liêm -Khuê hỏi thầy Huỳnh -Long-Nam thiền -sư rằng :' Chẳng hay đạo Phật có dạy sự nhiệm mầu riêng hơn đạo nho chăng ? ' Huỳnh -Long Nam thiền -sư nói :' Thầy hãy xét các câu sách nhà nho của thầy như đức Khổng -tử nói :' Triêu văn đạo, tịch tử khá hỉ ' Nghĩa là 'Sớm mai nghe thấu mùi đạo, chiều thác cũng đành '. Xét đạo ấy nghĩa là chi ? Còn ông nhan -tử không đổi sự vui, là vui việc gì ? Xét ra lý hai câu ấy, lâu lâu mới biết hiệp cái nhiệm mầu của đạo Phật, chớ không chi lạ mà hỏi '.
(Đạo là thông hiểu sự phải, chắc ý mà làm, chẳng hồ nghi chi hết, vì biết số mạng trời định, cứ phải mà làm, tố nào theo tố nấy, chẳng phải rán cượng cầu mà đặng, nên đức Khổng -tử nói :' Nếu cầu đặng sự giàu, tuy ra sức mệt nhọc, làm việt hèn hạ như kẻ đánh xe, mà đặng giàu ta cũng rán chịu cực chịu nhục mà làm cho giàu . Nếu tại số trời định, có cượng cầu cũng vô ích, thì thà an phận mà theo tố, là chỗ ưa của ta '. Nên ông Nhan -tử thông mùi đạo, cứ giữ đức hạnh học hành sửa mình gọi là vui theo tố bần tiện, chớ không rầu buồn sự nghèo khó, nên sau ngày mãn phần làm chức Tu -văn -Lang tại Âm phủ cũng đồng liêu với thầy Tử -Hạ . Đức thánh Khổng -tử cũng nói :' Thực sơ phạn, ẫm thủy, khúc hoăng nhi chẩm chi, lạc tại kỳ trung hỉ . Ăn cơm rau, uống nước lã, co tay làm gối nằm, ngài cũng vui vậy, là tại biết đạo, biết mạng, tố nào theo tố nấy .' Quân tử vô nhập, nhi bất tự đắc '. Người quân tử không gặp cảnh nào mà chẳng vui, bởi vậy ngài mới thành thánh . Người đời không biết đạo, lòng tham vọng tưởng, cượng cầu cực khổ, không lợi lại bị hại, mau chết mà mắc tội nhiều, hại tới thân kiếp sau và để họa cho con cháu .
Người đời xem Ngọc -lịch mà nửa tin nửa nghi, chưa dám đoán chắc là tại học chưa đủ lý ; té ra gặp phước mà bỏ qua . Nếu hiểu nhơn quả đời trước làm lành dữ, đời nay chịu phước họa . Đời nay làm lành dữ, thì kiếp sau chịu phước họa mà còn nghi chi nữa ? Nay nhờ ơn trời, nhậm lời Thập vương chư thần, cho truyền Ngọc lịch đủ bằng chứng khỏi nghi, cũng như tích Lâm -tự -Kỳ sống lại, ghi lại cuốn Hồi -dương nhơn -quả thì mau ăn năn làm phước chuộc tội nếu đợi gần chết ăn năn sao kịp ?

 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 17 Apr 2012, 9:05 PM | Message # 33
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
TÍCH TRUYỀN NGỌC LỊCH MÀ CỨU HỒN MẸ

Tỉnh Tứ Xuyên, thân Dậu đường, ông Viện- cẩn- An mãn phần, để một trai lại, tên là Dức- Sơ mới bảy tuổi. Vợ Cẩn An là Thiệu- thị thương con ốm yếu, nghe lời họ bày phép bổ nguơn , mỗi ngày dùng gà mập, nấu lấy nước thịt gà làm canh cho con ăn cơm. Nên mua gà nhiều lắm, đào trùng dế, nuôi cho mập đặng nấu cho con ăn. Dức-Sơ 15 tuổi Thiệu- thị bịnh ghẻ đau nhức cùng mình, như dế
cắn gà mổ, mà cũng còn nhắc đầy tớ gái, làm gà cho con ăn. Đức-Sơ hiểu ý liền
cản cấm không cho làm gà nữa. Thiệu thị đau bảy năm, gần chết làm gà gáy , dế kêu, cào rách mình mà chết ! Đức-Sơ khóc kể vì mẹ thương mình, nên sát sanh mới bị quả báo, liền thề cữ sát sanh Cách một năm có nàng Ning-Cô là chị con nhà bác, gả cho Tiền bị đẻ mà chết. Hồn xuống Nhựt-điện, vua xem bộ phán rằng :' Nàng nầy tội nhiều, đáng bị sản nạn, giao qua Nhị-điện hành hình '. Phán quan tâu rằng :' Viện-ninh-Cô có khuyên cha mẹ chồng đừng đốt cây khô nhiều kiến, đã ba lần. Lại khuyên chồng khắc in van giới sát
cho người 5000 tờ và phụ in kinh Quan-âm phóng sanh văn 3000 tờ. Táo quân tâu Thượng-đế cho sống thêm 30 năm nữa. Vua Nhứt-điện đứng dậy phán rằng :' Lành thay !' Liền sai kẻ áo xanh cầm phướng đưa hồn về. Ra tới cửa ngõ đỏ, có thắp đèn vàng, nghe tiếng kêu rằng :' Ninh-Cô cứu ta với !' Ninh-Cô ngỏ thấy thiếm là Thiệu-Thị đầu tóc chôm bôm, mình máu lội bộ, chạy theo khóc rằng :' Cháu sống lại nói cho con ta hay, rằng ta bị khổ dưới âm-phủ bảo làm phước mà chuộc tội cho ta, nếu khỏi tội, ta về cho chiêm bao mách bảo trả lời. Xảy thấy quỷ tóc đỏ cầm chĩa đâm họng Thiệu thị mà dẫn đi, Ninh cô sống lại, thuật chuyện... Đức sơ hay, liền lạy Phật làm chay, tụng kinh tới 19 năm mà không thấy chiêm bao. Cưới vợ là Thi thị, cũng cữ sát sanh. Sau thấy kinh Ngọc Lịch, Đức Sơ nguyện sao tả cho người đặng chuộc tội mẹ. Mới tả được 120 bổn lẻ, cho mới được 108 cuốn. Nhằm niên hiệu vua Càn-long trào Thanh, là năm canh ngũ, đêm rằm tháng giêng, chiêm bao thấy Thiệu thị về vỗ lưng con mà khen rằng :' Con thiệt có hiếu. mẹ ra khỏi ngục, nhờ phát Ngọc lịch 49 người hồi tâm, vua đà tha tội, lại cho về mách bảo con hay, hồn mẹ được về ở tại mã, giờ tý ngày 18 nầy, sẽ đi đầu thai hưởng phước. Còn con cũng đặng sống lâu nữa '.

Đức Sơ hỏi :' Cha tôi bây giờ ở đâu? ' Thiệu thị nói : ' Đầu thai đã lâu, lại chú giải kinh Nhơn quả với Thiệu thơ, nên thi đậu làm quan và mạnh khoẻ '. Đức Sơ hỏi :' Ở tại xứ nào? ' Thiệu thị không nói, xơ Đức Sơ thức dậy. Đức Sơ thuật chuyện cho vợ nghe...Thi thị nói :' Tại mình mơ tưởng sao tả Ngọc lịch nên chiêm bao thấy vậy '. Sáng Đức Sơ dọn đồ ăn bưng tế mã mẹ và đốt giấy áo, vàng bạc, vái rằng :'Nếu mẹ cho con thấy chiêm bao nữa, thì con mới tin chắc '. Đêm ấy, Đức Sơ thấy Thiệu-thị về điểm mặt Thi-thị mà mắng rằng :' Mầy ghét chồng sao Ngọc-lịch nên mầy xé năm cuốn, thiếu chút nữa mà hại ta ! Lại nói cho chồng không tin điềm thiệt, mầy sẽ mắc họa bây giờ '. Đức-Sơ giựt mình dậy hỏi vợ, sao mình xé 5 cuốn Ngọc lịch. Thi thị nói: "Đừng có nói yêu nói ma, có ba điều không đáng tin lắm : 1. Cữ sát sanh, không cho đồ sống vô nhà, như sãi vãi một thứ; 2. Đêm nào ngày nấy, thầy sãi tụng kinh hơn hai mươi năm mà cũng còn mắc tội dưới âm phủ ! Giá gì sao mấy bổn kinh mà phước nhiều vậy? Còn tin là nghĩa gì? 3. Nói tôi xé 5 cuốn, sao mình không nghĩ? Mình viết rồi cất vô tủ khóa lại, tôi làm sao mở đặng mà xé, còn tin nỗi gì? Chẳng phải thiệt hồn mẹ về mách bảo đâu ! Ấy là mình vọng tưởng mà thấy bậy, e không bao lâu, sẽ điên cuồng mà chớ !" Đức Sơ nghe nói lưỡng lự, vì cũng phải lý dễ nghe. Đêm 17 qua ứng mộng bên nhà em
Thi thị và ứng mộng nhà cháu là Ninh-Cô, rồi ứng mộng dâu con mà mắng rằng :' Mồng sáu tháng bảy năm ngoái Châu-phụng-Cô là gái xóm nầy vào nhà ngồi chung với mầy mà thêu giày, mầy có lấy một cuốn Ngọc lịch để trong rổ may. Đêm sau mầy giận chồng mầy không cho Phụng-Cô vô nữa, nên
mầy xé 5 bổn Ngọc lịch. Bữa sau em mầy là Thị-Phúc đến thăm, thấy kinh rách, năn nỉ xin về đóng lại dán lại viết vô mà cho người, Âm phủ đã ghi phước cho Thị-Phúc. May sao con ta để vô tủ mà khóa, phải không thì mầy cũng xé nữa ! Nay lại chối lức đặt chuyện ba điều không đáng tin, tội già làm nặng lắm. Táo thần với Thổ địa đã chịu cho tà quỉ vô nhà hành mầy chạy đâu
cho khỏi họa !' Nói rồi xô đổ bàn để đồ trang điểm một cái rầm ! Vợ chồng giựt mình thức dậy ! Đức -Sơ hỏi vợ tin không ! Thị-thị nói : Ai tin thì gọi có, ai không tin thì gọi không '. Xảy thấy một đống khói đen bay vô cửa phòng ! Thị thị rùng mình, ngó chồng mà nói rằng :' Mình tả thêm ít cuốn nữa, thà tin là có, chớ gọi là không '. Đức Sơ biết vợ có xé kinh thiệt, nên mới nói như vậy. May mẹ đã đầu thai, nên tin chắc, thôi cậy sãi tụng kinh nữa, quyết lòng tả Ngọc lịch làm phước.
Đêm ấy Thi-thị phát óng, lưng vai đau nhức như đánh như dần. Rước thầy thuốc coi mạch. Thầy thuốc nói :' Ấy là âm độc làm ghẻ ác, phần thím có thai, nên không dùng thuốc nóng mà trị, thế phải chịu phép !' Đức Sơ rầu lắm. Kế em vợ là Thị Phúc ghé. Ninh-Cô cũng đến thăm, đồng thuật chuyện chiêm bao, bảo Dức-Sơ van vái. Đức Sơ vào bếp, vái ông Táo, nguyện tả một trăm bổn Ngọc lịch mà cầu cho vợ mạnh. Thi thị đương nóng mê, vùng dậy quì dưới đất, lạy khan mà nói rằng :' Từ rày sắp lên, tôi tin Ngọc lịch, tình nguyện bán hết đồ nữ trang mướn tả Ngọc lịch, cho người mà chuộc tội '. Xảy thấy ông đội mão thất tinh, bận áo đen, đuổi đống khói đen dưới giường lăn ra bay ra mất. Thi-thị bớt nóng hết sưng lưng vai (chứng phát-bối). Bữa sau sanh con trai, mẹ con mạnh khoẻ. Nội trong hai tháng, vợ chồng mướn nhiều người tả đủ một trăm bổn Ngọc-lịch cho người. Bởi vợ chồng cám ơn thần, nên biên sự tích vào đây mà khuyên đời, không dám giấu sự lỗi.



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 24 Apr 2012, 1:47 AM | Message # 34
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
BỞI CHÊ NGỌC LỊCH BỊ PHẠT NHÃN TIỀN

Phan ngưỡng Chí là học nho, không tin Ngoc lịch, viết bậy vô mà kiêu ngạo. Phê tại câu :' Đâu thấy hồn ma mang gông '. Đề ba chữ son rằng :' Thị chi chỉ '. (rất phải lắm). Bởi mực mấy bài từ Nhứt điện tới thắt điện. Tại Ngũ điện lấy son gạt tréo. Trên câu nói :' Uống rượu lảng phí, ' nó đề hai chữ son lởn. ' Khả tiếu ' (Tức cười quá !). Chỗ Thập điện nói câu :' Đàn bà con gái bị học trò gật nên thuận theo thất tiết... ' Nó đề II chữ mực : ' Phụ nữ tự kỉ tầm tử, dữ nam tử hà thiệp?' (Tại phụ nữ liều mình, đàn ông có can cớ gì ?' Chỗ nói đầu thai, nó đề hai chữ son :' Loạn họa !' (nói bậy !) Chỗ Mạnh bà, mấy câu ấy, nó chấm mực vài hàng. Trên bốn chữ ' Khổ căn nan đoạn ' ( còn đầu thai cõi trần cực khổ ) nó khuyên son trết ! Tới câu :' Làm hồn ma mang thây nữa,' nó khuyên son 9 khuyên. Từ ấy sắp sau, chỗ bôi chỗ gạt tréo, cho tới chỗ câu : ' Hào quang chiếu sáng, Quan âm giáng hạ,' nó vùng phát điên. Nửa đêm nó mở cửa chạy ra phố chợ , hai tay chống đất, bò càng, lật phao tay đổ máu, trầy đầu gối lả giò, bò một hồi làm như bị trói cẳng, mọp đó la lớn rằng: ' Bớ con ơi ! ! Mau đem cuốn kinh Ngọc lịch ra đây, đặng đưa cho lối xóm, đem cúng trong chùa Tây Nhạc đại đế '. Con nó về lấy kinh trao cho xóm, trở vô thấy nhà phát hỏa, cóng cẳng chạy ra không kịp nên bị chết thiêu ! Nó nóng họng chạy về chữa lửa, thấy vợ nó là Hoăng thị lõa thể (trần truồng) chạy ra, Ngưỡng Chí mắc cở nói với xóm rằng : ' Người đời đừng bắt chước tôi ở độc nhiều năm, nay thấy Ngọc lịch, còn không tin mà chừa lỗi, lại phê ngạo nhiều câu, nên bị trời phạt nhãn tiền độc quá ! ' Nói rồi lửa cháy tới, cứng cẳng chạy không đặng, phải bị chết thiêu. Bầy chó nhảy vô kéo thây ra, xé ăn tới xương cốt ! Xóm coi thấy phê trong Ngọc lịch như vậy, ai cũng rùng mình ! Mới biết tại tội nặng quá, nên trả lẹ lắm ! ! ! Còn vợ nó mắc cở trốn xứ nào bặt tin không biết !



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 24 Apr 2012, 1:48 AM | Message # 35
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
GANH GHÉT MUỐN DẸP NGỌC LỊCH BỊ BÁO NHÃN TIỀN

Tại xứ Tây hương, chùa Thổ cốc (ông Trương), có một sãi, tên Đạt Viễn, đặng cuốn ngọc lịch, cầm qua am Thuần dương mà coi với đạo -sĩ (thầy pháp) tên Quán-Tiên. Hai thầy coi tới chỗ thầy chùa thầy pháp ăn tiền tụng mướn mà tụng sót, thác sau phải vào sổ Bổ kinh mà tụng bổ, vân vân. Lại coi tới chỗ luân hồi, nói thầy chùa thầy pháp có tội nhiều, các ngục hành hình không đặng, phải cho uống thuốc mê, đầu thai tử phúc trung, hoặc chết yểu nhiều kiếp, cho lú quên hết kinh chú, rồi mới hành hình, vân vân. Đạt -Viễn nói : ' Chúng ta nhờ cậy tụng kinh mướn mà khá, nếu Ngọc lịch lưu truyền nhiều chỗ, thì nghề làm ăn chúng ta phải ế ! Dầu xé đốt Ngọc-lịch cũng không hết đặng, biết tính làm sao? Quán-Tiên nói : ' Tôi biết cầm cơ thỉnh tiên. Thầy sẽ bảo các sãi rủ người ngoài, hoặc bổn đạo đến coi thỉnh tiên. Tôi làm bộ cơ lên, viết chữ nói phá Ngọc-lịch thì chúng hết tin '. Đạt -Viễn đi khoe cùng nói tại am Thuần-dương (Lữ-đồng -Tân) thỉnh tiên linh lắm, ai cầu hỏi việc gì, thì đến mà hỏi, hoặc xin toa thuốc xin bùa, thần tiên cũng cho '. Thiên hạ nghe nói lưu truyền lần ra, nên ngày nọ nhiều người đến am Thuần-dương coi đạo -sĩ thỉnh tiên tới dưng hương chật trong chật ngoài. Quán-Tiên làm bộ lập bàn xông cơ, lúc đỏ đèn niệm chú, phun nước đốt bùa... Một lát cơ lên, đồng bưng cơ, thầy lại coi, viết chữ trên mâm cây vuông đổ cát. Quán-Tiên kêu ai biết chữ lên coi chữ tiên viết, Người biết chữ lên đàn, coi thấy trong mâm cát có bảy chữ lớn rằng : ' Ngô Thuần-dương tổ-sư chí hỉ ' và chín chữ nhỏ : ' Phàm nhơn khấu vấn giả, tốc tốc lai vấn '. (Nghĩa là : Ta là Thuần-dương tổ-sư đến rồi. Ai hỏi sự chi, mau lên mà hỏi). Ai nấy nghe đọc như vậy, thì rùng rùng lên đàn. Quán-Tiên nói : ' Đừng lại đông lắm, hỏi rộn không nên, vô từ người mà hỏi tử tế '. Đạt -Viễn quì lạy vái lớn rằng : ' Chẳng hay trong đời việc chi quí hơn hết, xin tổ-sư chỉ dạy Cơ viết nhiều chữ nhỏ như vầy :
' Thứ nhứt kính đạo -sĩ (thầy pháp) thứ nhì trọng thầy chùa, Đạo -sĩ dâng sớ, cầu đặng sống lâu. Hòa-thượng tụng kinh siêu-độ, đưa vong hồn về Tây-phương. Duy có một chuyện không nên nghe, là thứ Ngọc-lịch bảo ăn năn chừa lỗi làm lành mà trừ tội ! Có đâu dễ như vậy ! Nhiều người tin khắc bản lưu truyền mà gạt kẻ dốt phải lầm ! Nếu ai gặp Ngọc-lịch thì xé mà đốt đi, thì đặng phước lớn '.

Người coi đọc rồi, lấy giấy chép ra chưa rồi bài ấy. Xảy thấy hào quang xanh lét chiếu vô đàn, Quán Tiên rùng mình té xuống đất, Đạt Viễn cũng nhào theo. Người chép bài ấy, đứng dựa bàn Lữ tổ, trợn mắt hét lớn rằng : ' Ta là Liễu tiên đây ! Vưng lịnh tổ sư truyền dạy cho đời rõ : Bởi vì người đời vô phước làm dữ không ăn năn. May nhờ trời nhậm lời Thập vương các thần tâu, ban phát Ngọc Lịch cho Đạm Si đem về, truyền người đời xem mà chừa lỗi, không dám phạm nữa, lời thần tiếng Phật tiên thánh khuyên răn. Thượng đế truyền chỉ Đô thành hoàng mỗi ngày canh phân phiên các du thần ngày đêm soi xét nhơn gian lành dữ. Nay có thầy chùa là Đạt Viễn, thầy pháp là Quán Tiến, dám ganh ghét Ngọc lịch, lên cơ mà giả nói gạt đời. Tội hai đứa ấy đáng đọa địa ngục hành tội cho đến kiếp rồi giam ngoài ngục A tì, không đặng đầu thai. Nếu ai ghét Ngọc lịch, mà không tin, cũng phạt như Quán Tiên Đạt Viễn vậy '. Nói rồi, ngó thấy cơ tự nhiên không ai vịn mà lên, viết 33 chữ như vầy :

Tâm bịnh tư tương tâm dược y.
Huyến nhục huân tính thiểu ngật ta.
Thơ trung tự hữu ba la mật.
Năng sử oan khiên tận thoát ly.
Ngô Liễu Tiên khứ dã


Thích nôm :

[center]Bịnh tâm, thời trị thuốc bằng tâm.
Huyết thịt ít ăn đặng phước thầm.
Ngọc lịch thánh thần tiên Phật dạy.
Độ đời khỏi đọa, hết mê lầm,
Ta là Liễu Tiên đi rồi


Người coi chữ sao chép rồi, bước xuống nói rằng : ' Hồi nãy tôi chép còn một ít chữ thì hết bài trước. Xảy thấy một ông mặt xanh môi đỏ, lên đàn, bảo tôi truyền lời Lữ-tổ dạy, rồi đằng vân bay mất ! '. Ai nấy hãi kinh về hết. Không biết Quán Tiên với Đạt Viễn đâu mất ! Cách vài bữa nghe nói Quán Tiên với Đạt Viễn hai người bầm mình la hoài cho tới chết, mới biết quả báo nhãn tiền lẹ quá ! Ghê thay ! !

KINH-TÍN -LỤC
(truyền Ngọc-lịch, được phước)

Người bị chết trôi, lửa cháy, trộm cướp, tai họa, đều đổ tại thời vận, không dè tại mình làm dữ mà ra. Bởi chẳng kiêng trời đất, không tin Tiên Phật Thánh Thần, bất trung, bất hiếu, bất nhơn, bất nghĩa, hủy hoại lúa gạo, bỏ xả giấy chữ nho, sát sanh hại vật, khoe mình hiếp người, mê đờn ca, đắm tửu sắc, theo bài bạc gian lận, nếu phạm các tội ấy, dẫu có khỏi tội dương pháp, thì cũng bị thần phạt mắc tai họa. Nếu in Ngọc -lịch, gặp ai cũng giảng tội phước quả báo, sau thác đã tiêu hết tội, mà còn sống bây giờ cũng được hưởng phước sống lâu. Nay mới nghe cái tích làm lành đặng phước đổi rủi ra may, kể ra sau nầy, đều việc nhãn tiền, thiên hạ có nghe có thấy.

Ông Huỳnh-phương-Châu ở huyện Đại hưng, trấn nhậm huyện Khúc Dương, làm quau giáo thọ, vợ cũng làm lành. Khi đương làm việc tại đó, khắc bản kinh Kim cang, kinh Cảm ứng, kinh Âm chất, in mỗi thứ vài ngàn bộ, vợ in Ngọc -lịnh vài ngàn cuốn mà cho người, phóng sanh chim cá không biết mấy muôn ngàn mạng. Sanh năm người con trai, đầu lòng là Thúc Lâm đậu Than hóa, còn bốn người kế là Thúc Kinh, Thúc Kỳ, Thúc Huyển, Thúc Tuyên đều đậu.

Mục-quốc-Duy ở huyện Ngộ, đậu Tiến sĩ trào Minh Thiên Khải, ở nhà không làm quan. Hay thỉnh nhiều thiện thơ (kinh lành), thấy Ngọc-lịch liền sao tả cho người thấy, có rách thì dán lại, năm thất mùa thì đâu đậu thí lúa, lúc thiên thời thí thuốc. Con trai là Huệ Viễn đậu Tiến sĩ trào Minh Thuận-trị, cháu tên Đồng đậu Trạng nguyên, Cảnh Tuyên đậu Truyền lô, Kế Nhượng đậu Tiến sĩ. Con của Đồng tên Tảo đậu Bảng nhãn, các chắt đều bổ Hàn-lâm, Tiến sĩ , nối đời làm quan, cũng nhờ bố thí.

Bành-nhất-Âm ở huyện Trường châu, gặp thất mùa thì thí lúa, thấy thiện thơ thì in. Con tên là Cần, sao tả Ngọc-lịch dư trăm mà cho người, thi đỗ Trạng nguyên, chắt là Khải Phong cũng đỗ Trạng nữa, bởi nhờ thí Ngọc lịch.
Từ trước Đình ở huyện Côn san, làm biện lại với quan Nghiêm văn Tịnh. Khi trấn nhậm tỉnh Chiết giang, dân bị nước lụt. Trước Đình nói nung cho ông Nghiêm văn Tịnh bố thí, cứu sống nhiều mạng. Còn làm phước điều nầy : Lúc trào Minh vua Sùng Trinh, bị loạn, giặc bắt vài trăm phụ nữ, gởi tại Trước Đình bảo giữ giùm. Từ trước Đình lén cho phụ nữ bạc tiền, mà thả đi hết, rồi lập thế đốt nhà mà phi tang, đem bản kinh Ngọc-lịch với gia quyến trốn qua ở huyện Thái dương mà lánh nạn. Thuở nay Từ trước Đình in Ngọc-lịch thí cũng nhiều lắm. Đến thái bình, con trai lớn là Từ kiền Học thi đỗ Thám hoa, làm tới chức Thượng thơ , con giữa là Bĩnh Nghĩa cũng đậu Thám hoa, làm tới chức Thị lang, con út là Nguơn Văn làm tới Thiên quan chủng tể. Năm người con của Từ kiền Học là Thọ Cốc, Huỳnh Thọ Mẫn Thọ, Từ Bình, Từ Tuấn đều thi đậu.

Thái bội Lan ở Hồ-châu, ở hiếu đễ (thảo thuận), tiện tặn cho dư mà bố thí, hay thí thuốc cho nhà nghèo, con côi đàn bà góa cậy mượn thì chẳng tiếc. Nếu phụ nữ hoặc trẻ thơ làm mất đồ không dám về nhà, thì cho mà thường lại. Hay cho kinh Ngọc lịch, 84 tuổi không bịnh ngồi xếp bằng mà mãn phần. Lối xóm thấy có Tiên đồng Tiên nữ mời Bội Lan lên xe. Cháu là Khải Tôn, chắt là Thăng Nguơn đều đỗ Trạng.

Hùng triệu Đãnh ở huyện Nam-xương, làm thầy thuốc thuở 19 tuổi. Coi Ngọc lịch thấy khoản dung y hại người bị vào Hụơt -đại địa - ngục nên giữ mình trị bịnh kỹ càng và giảng cho thầy thuốc khác nghe nữa. Mình đã in thí, lại rủ nhiều Người, Phàm trị bịnh không nài cực khổ. chẳng luận giàu nghèo Nếu kẻ nghèo không có sậm, cũng tán nhỏ mà cho không. Nhà giàu thưởng bao nhiêu tiền, đều tùy cơ bố thí cho kẻ khó. Gặp năm thất mùa, thì đi bộ coi mạch chẳng nỡ làm tốn tiền xe người. Vợ cũng hiền đức, thuận theo ý chồng, mùa đông bận áo vải cũng không phiền. Đến 80 tuổi, nhằm ngày sanh Triệu-Đãnh, xảy thấy thinh không hiện ra một bức lụa đỏ, thông giữa căn nhà để chữ vàng rằng :
Phụng thiên đế mạng, Hùng-triệu-Đãnh phó Phước-kiến tỉnh thành hoàng tử nhậm '. (Vương chỉ thượng đế phong, Triệu Đãnh làm thành hoàng tỉnh Phước-kiến)
Cách ba bữa mùi hương đầy nhà. Triệu Đãnh tắm gội, thay y phục mới, ngồi xếp bằng mà mãn phần, con cháu thi đậu nhiều đời.

Trung-mạnh-Cầu làm quan Án-sát trấn tỉnh Hà-Nam, tánh ở thanh liêm có ân oai nhơn chánh. Có khắc bản Ngọc lịch, Âm-chất, văn giới sát của Liên-trì đại sư (nay đem chung vô Ngọc-Lịch rồi). Tánh ghét họa hình tục tĩu, bài thuốc tráng dương, bài thuốc phá thai và đồ nghề bài bạc. Nếu gặp thì hủy hết, ai cáo thì được hưởng. Năm nào thất mùa dân đói thì thí lúa, cho tới xứ khác nữa. Vợ cũng cầm đồ mà phụ với chồng in Ngọc-lịch và thiện thơ. Những kẻ nghèo bệnh đều nhờ ơn hai ông bà. Sanh năm trai đều thi đỗ làm quan.
Trương-xuân-Phố nhà giàu mà cần kiệm như nhà nghèo thấy thiện-thơ thì bảo con cháu sao tả cho người. Tánh ở thuần hậu, con cháu hay tả kinh, sau thi đậu tới đời chắt.

Tỉnh Chiết-giang phủ Hàng-châu, Từ-văn-Kỉnh làm đại thần mà hay giảng kinh sách tam-giáo, in Ngọc-lịch, có khắc thêm Kỉnh-tín-Lục là các bài nói trước đó mà cho đời. Mẹ ngày nào cũng niệm Phật Quan-Âm. Năm đói thời thí lúa. Sau con làm tới Chủng-tể, các cháu thi đỗ làm quan.

Trần-thị là họ lớn tại huyện Hải-ninh lập trại hàng thí quan khách, thí thuốc, thí đất cúng, tối trời thấp đèn ngoài đường đi, thí Ngọc-lịch. Con cháu thi đậu, nổi danh tỉnh Chiết-giang.
Tại tỉnh Chiết-giang, phủ Hàng-châu, có bốn họ đại phú là : họ Quan, họ Uông, họ Tôn, họ Triệu, đều nối đời nhơn đức bố thí nên giàu bền không cổi. Họ Quan, cha con thi rồi, về lo giải thiện-thơ, kế nghe báo, cha con đều đậu. Còn họ Uông tới đời nay còn thí thuốc Tử Hà, giàu hoài không cổi. Họ Tôn thí Ngọc-lịch và các thiện-thơ. Họ Triệu thí quan quách quần áo, Bốn họ ấy giàu bền, lại phát quan, là nhờ bố thí làm phước.



Đại Bi Chú

Message edited by LongTracAn - Thứ Năm, 26 Apr 2012, 2:56 PM
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 24 Apr 2012, 1:49 AM | Message # 36
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Lưu-học-Triều ở huyện San-âm, năm Bính Thân, trào Càn-Long dắt gia quyến đến kinh đô đợi bổ ra làm quan. Dọc đường gặp đàn bà bận áo đỏ, nói : ' Hồi tôi còn sống, muốn in Ngọc-lịch một trăm bộ, bị ông cản trở hại tôi bây giờ mắc tội dưới Âm-phủ '. Lưu học-Triều hãi kinh nhìn lại, là nàng họ Trịnh vợ của người đầy tớ cũ. Đi tới kinh phát bịnh, hay thấy hồn nàng họ Trịnh đến gây hoài. Vợ là họ Khương hay sự ấy, vái in hai trăm bộ thí cho họ Trịnh. Lưu-học Triều vùng nói : ' May nhờ ơn Phật tôi được siêu độ '. Nghe in vọng nàng họ Trịnh ! Khương thị càng tin, lo in lập tức cúng tại am cô vãi. Cách nửa tháng, hai vợ chồng đồng thấy nàng họ Trịnh về lạy tạ rằng :' Nhờ ơn in Ngọc-lịch, tôi đặng đầu thai, Diêm vương chia phước cho bà phân nửa, sau gặp nhiều sự may '. Lưu-học-Triều thức dậy, liền mạnh.

Cầu-phục-Sơ ở tỉnh Nam-kinh là người chí hiếu với cha mẹ, Vợ chết, có con là Đại Vinh cũng có hiếu. Tánh Phục-Sơ không tin có quỉ thần địa ngục. Ngày kia đi buôn bán đặng cuốn Ngọc-lịch đem về, cha con coi với nhau, cha gọi nói huyễn nên bỏ dẹp trên gát ! Con là Đại Vinh mộ lắm, muốn kiếm bản in ra lưu truyền, sợ cha quở nên không dám. Phục-Sơ bịnh nặng, ngó thấy nhiều con quỉ dị hình tới phá, bèn kêu con mà than rằng : ' Nay mới biết có quỉ ma địa ngục, ăn năn xưa không tin Ngọc-lịch mà ở theo ! Đại -Vinh nghe nói, liền vái in ba trăm cuốn mà lưu truyền, cầu cha mau mạnh. Phục-Sơ nghe quỉ nói :' Ông Táo đã đề hai chữ Thuận Tuân trên trán Phục-Sơ, không bao lâu sẽ có chiếu chỉ Ngọc đế đến, chúng ta trốn trước cho mau, kẻo nữa bị quở '. Phục-Sơ liền mạnh.

Hạ-kiến-Mô tự Hữu-kiều, ở huyện Tiền-đường, thuật chuyện chiêm bao rằng :' Năm Mậu Dần ta dạy học tại nhà họ Cao, Lúc tháng tư, ta soạn sách cũ trên gác, gặp cuốn Ngọc-lịch, coi rồi thì xét lẽ dạy thì phải, song không chắc thiệt sự như vậy. Nhưng mà thấy lời nói rẽ ròi, tuy kẻ dốt đàn bà nghe cũng dễ hiểu, vậy là một lẽ chánh, khuyên đời làm lành răn dữ như sách nho. Vả lại giá in cũng rẻ nên vái in thí một trăm cuốn. Cách vài ngày xem lại, thấy nhiều lời nói quái gở, mình là người học nho, không lẽ nói cho ai nghe. Nghĩ như vậy nên tính lại không in Đã gần đi thi, không rảnh đâu mà suy xét việc ấy. Vào thi nạp quyển rổi, về nhà ngẫm nghĩ mình đặt hai câu chưa êm, e khi phải rớt, nên trong bụng buồn bực, nằm mơ màng thấy một ông cao lớn, ăn mặc đồ xưa, gò má có triều, râu dài như hình ông Tô-đông -Pha vậy. Ta lấy não bài vở trong trường đưa xin xem thử đâu rớt. Ngài dạy rằng :' Ta biết tánh chàng đủ tài đức, khoa nầy chắc đậu còn ngại nỗi gì ! Song ngươi đã gặp Ngọc-lịch, sao không in mà cho thiên hạ ? ' Ta nhớ trực lại, thưa rằng :' Ngọc lịch e sợ không thiệt chăng ? ' Ông già nói :' Địa ngục dưới Âm phủ, là tại lòng người làm phạm các tội nơi địa ngục. Nếu lòng người chẳng phạm các điều ấy thì có địa ngục cũng như không. Mình thông lý sao còn chưa hiểu mà nghi không thiệt ? Mau in mà thí, đừng dụ dự hồ nghi nữa ? Ta thức dậy, chưa dám nói với ai. Thiệt tới kêu tên mới biết chắc đậu nên in một trăm cuốn và phụ thêm sự chiêm bao vô đây.

Tôi là Cao-Lan, tự Nhơn-Hòa ngày 11 tôi qua mừng cậu tôi là Hạ-hữu-Kiều thi đỗ. Cậu tôi thuật chuyện chiêm bao điềm lạ... và đưa bài tự thuật cho tôi xem, tôi cũng lấy làm lạ ! Khi ấy con tôi là Hiển Tăng có đậu ba bốn ngày mà không tốt. Đến rằm vợ tôi là Phùng thị, con gái tôi là Trinh-Khanh cũng có đậu nữa. Kế một tên học trò, một con tỉ tất cũng có đậu, tôi lấy làm hãi kinh ! Đêm ấy thắp hương đốt sớ chịu ăn năn chừa lỗi, nguyện in ba trăm cuốn Ngọc-lịch cho người và thả 30 muôn vạn cá. Vái rồi không đầy mười ngày mà bốn người mạnh. Còn Hiển Tăng yếu đuối nên chậm hơn, sau ra mũ lỗ tai rồi cũng mạnh. Lấy làm lạ điều nầy : vợ tôi đậu rựng mọc, mà mọc không đặng, thầy thuốc sợ nhập vô làm khổ, kể từ tôi đốt sớ ba ngày, ra mồ hôi ba lần, rồi tiêu mất ! Nhờ ơn thần phò hộ bình an là vì vái in Ngọc-lịch mà linh nghiệm như vậy mới tin cậu tôi thấy chiêm bao là điềm thiệt, nên khắc thêm sự tôi vào đây, cho thiên hạ biết. Nhằm tháng 9, vua Gia-Khánh 23.

Kinh Ngọc-lịch lưu truyền đã lâu. Ông nội tôi là Văn-Kỉnh có khắc bản in thí, ai tin làm theo đặng gặp phước đều khắc thêm vào đây rồi. Năm ngoái Hạ-hữu-Kiều thấy chiêm bao, in một trăm bộ. đưa cho tôi một cuốn, tôi động lòng muốn in thêm, ngặt lúc không dự, Năm nay thi đỗ, thân hữu lễ mừng, tôi đều lấy mà in một trăm cuốn và khắc thêm lời nầy vào đây. Từ-Chương ở huyện Tiền-đường, ghi tháng mười, năm Kỉ-Mảo Năm Mậu-Dần, Hạ-hữu-Kiều làm chức Hiếu liêm, qua Tô-châu cho tôi một bổn Ngọc-lịch, tôi coi tới câu : ' Địa ngục là tại lòng.' Tôi ngẫm nghĩ ra lý quả báo. Qua năm Kỉ-Mão cháu lớn tôi bịnh nặng tôi vái in Ngọc-lịch cầu cho cháu mạnh, thiệt quả đặng sống. Tháng hai năm nay, con trai lớn tôi là Lượng-Dần đau chứng yết hầu gần chết, tôi vái trời xin cho con mạnh, thì in Ngọc-lịch phái liền. May ra mồ hôi mà mạnh đổi họa ra phước, nên cám ơn trời phật thánh thần. Khi trước tôi gởi cho bằng hữu qua Hàng-châu in ba trăm bổn nữa, có khắc in thêm khoản nầy cho các nơi khác. Kinh nầy đáng kính, nên tôi ghi vài lời xin các vị thiện tâm rán rủ in ra khuyên đời, thì đặng phước nhiều lắm. Khi ấy niên hiệu vua Đạo Quang năm thứ nhứt là Tân-tị, tháng tám. Cát-võ Điền hiệu Du -nhuận đương ngụ ở Tô Châu đề.

Niên hiệu Dạo-Quang năm Quí-Tị, mùa thu, tôi là Phan-quang Thọ ở sông Tiền đường, bởi em bạn dì tôi là Châu-phước-Tăng, Táo-thủ-Tăng khắc bản khuyên tiếc lúa gạo, trọng giấy chữ, lại tính khắc Ngọc lịch in cho đời. Tôi nói : ' Sự địa ngục là u minh, không đáng tin. Vả lại muốn lượm giấy chữ đà tốn hao, khắc bản tốn nhiều, vô ích '. Hai anh em nghe tôi nói thôi làm. Qua mồng ba tháng giêng, năm Giáp Thân (năm sau), tôi chiêm bao đến chùa Văn Xương đế quân, kêu tên thì vào hầu. Tôi vào quì lạy. Phán quan nói lớn rằng :' Ngươi đã chẳng tin thì thôi, sau cản người làm lành ? '
Tôi tâu rằng :' Thuở nay tôi không cản ai làm việc lành '. Phán quan hét lớn rằng : ' Ngươi quên sự cản khắc bản Ngọc-lịch sao ? Ngươi hãy nói nhiều chuyện nên trễ đậu tú tài đã mười năm và chết nhiều đời vợ ; nếu còn nói điên như vậy, thì thấy chết yểu ! Như biết ăn năn, nguyện khắc bản kinh, khuyên đặng ngàn người chừa lỗi làm lành sắp lên, thì tiêu tội trước, mà được phước sau '. Ta giựt mình thức dậy, mồ hôi dầm mình ! Song còn nghi mộng mị không chắc. Vả lại nhằm dịp Tết, bằng hữu rủ chơi bời, nên chưa lo khắc bản. Qua 27 tháng sau, ta thổ huyết hai búng, mệt xỉu ! Thấy phán quan khi trước, mặt giận nạt rằng : ' Ngươi mới ăn năn rồi cũng quên nữa, nay họa đến rồi ! Bữa sau tôi kêu hai người em mà nói các điềm ấy nguyện ăn chay bảy ngày, mướn nhiều thợ khắc rút, mười ngày rồi bản nầy, khắc thêm sự mình in luôn cho người, xin thiện nam tín nữ rán khuyên đời ăn năn hoặc vẽ ra bức Thập điện theo trong kinh mà treo trên vách, ngó thấy mà giựt mình, năng coi năng đọc Ngọc lịch mà sửa lòng chừa lỗi, làm lành lâu ngày thì có phước. Nếu chẳng tin. e phải bị gương tôi. Phan-quan-Thọ ở huyện Tiền-đường đề.
Tiên Phật hay nói nhơn quả, còn kẻ học nho hay chê là dị đoan ! Sao chẳng xét ? Thích là Phật, đạo là tiên tuy dạy khác đạo Nho của thánh song cũng dạy người làm lành như nhau, nên tam giáo như một. Tôi xem hết cuốn Ngọc-lịch, ý dạy cũng như sách Nho, mà nói rành rẽ dễ hiểu, không cần văn chương đối đáp, miễn cho đời dễ hiểu mà ở thì hơn, tới đám đàn bà con nít cũng nghe chung đặng nữa. Người đời ít kẻ văn học nên bảo ở nhơn nghĩa trung hiếu thì mấy ai hiểu thấu mà làm, chi bằng Ngọc-lịch nói sự báo ứng, làm điều chi được phước, ở làm sao thì mang họa, người thấy giựt mình mà hồi tâm. Mới coi thì là lời khuyên răn, xét kỹ thiệt dạy đường đạo đức, phải là gìn lòng sửa nết cho nên người trung hiếu nhơn nghĩa chăng ? Như vậy thì công lớn lắm, có phải thua sách nho đâu ? Niên-hiệu Gia-Khánh 22 là năm Dinh-Sửu, mùa xuân ghi lời bạt (không để tên).



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 26 Apr 2012, 2:57 PM | Message # 37
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
KHUYÊN PHỤ ÍT LỜI
(cũng không đề tên)
Lành dữ người đã làm, phước họa trời không vị. Biết lành đáng làm mà không làm, sao phải người lành. Biết dữ đáng chừa mà không chừa, thiệt là tội dữ. Sự quả báo ai mà không hiểu ? Sao lại không làm phải can tâm làm quấy mà chịu trầm luôn ! Người đời nhờ cơm mà sống nếu có hơi muốn thiu, thì đem đổ, có khi đạp . cơm cháo cũng không sợ tội. Nếu kẻ ăn mày, đặng cơm cháo thiu ấy mà ăn, cũng sống đỡ một lát. Đồ ăn ngon vào bụng thì hóa đồ dơ, sao lại chê cơm nguội ! Huống chi kẻ làm ruộng gần bên lúa gạo cực khổ trăm bề, mình có mà ăn, lại hủy hoại như vậy, tội biết chừng nào ? Họ ăn mì hay đổ nước, sao không nghĩ đồ vụn, cũng là cơm cháo, nếu chừa cặn, thì tôi tớ nó đổ nơi chỗ dơ ! Nếu không ăn nước, thì vớt mì vụn mà ăn cho hết . Nếu huỷ -hoại cơm cháo vật thực thái quá, e bị Lôi -công . Kinh nói cữ sát sanh, hoặc phóng sanh, là nói vật lớn : còn ta nhắc vật mọn cho đời nhớ . Người hay nuôi chim, như chim quyên nhồng sảnh keo két cưỡng sáo, các loài chim hay ăn trùng dế cào -cào, châu chấu v .v ... thường ngày phải bắt vật các ấy mà nuôi nó kêu nó nói cho êm tai mà thôi, chẳng kể giết không biết mấy muôn ngàn mạng vật mọn mà nuôi nó, trong lương tâm đành đoạn hay sao ? Còn người gọi ốc là rẻ nên hay ăn song thiếu chi vật rẻ tiền, mà phải ăn ốc ? Một bữa ăn hơn vài trăm mạng ! Đáng lẽ đã cữ, lại mua ốc mà phóng sanh, đặng chuộc tội trước . Còn ăn cá là thường, song những cá nhiều trứng, nếu trứng cá tươi, chưa vấy muối, để lâu cũng còn nở . Sao không dặn kẻ nấu ăn, nếu làm cá gặp trứng thì lấy bao đất mà bỏ xuống sông, mình nhín ăn một đũa mà phóng cả ngàn mạng cá con (ấy là lời ông Lữ đồng Tân giáng cơ có dạy). Phóng sanh thế ấy khỏi tốn tiền mà phước lớn lắm . Nếu vì một miếng ăn mà chết trăm ngàn trứng cá sao đành, dầu vật mọn cũng vậy .

KHUYÊN ĐỪNG MÊ TỬU SẮC TÀI KHÍ

Rượu chớ uống nhiều, nhiều thì say, say thì hư việc cả .
Sắc chớ ngó nhìn, nhìn thì mê, mê thì mắc tội đầu .
Bạc chớ tập đánh, đánh thì tham, tham thì thâm vốn liếng .
Giận chớ làm dữ, dữ thì đánh, đánh thì bị lao tù (củ).
(Phủ) : Kiêng rượu không say, giữ tánh thường .
Đừng mê hoa nguyệt, chẳng tai ương,
Không theo bài bạc, còn gia sản .
Giận tức mà dằn, hoạ khỏi vương (Hành tố).

TÍCH NGƯỜI KHÔNG TIN GIÁNG CƠ

có người kia thấy thỉnh cơ thì không tin, nói bày đặt lên giả . Lúc đó cơ lên xưng Ngọc -Hổ tiên sanh . Va cười ! Cơ viết bài thơ 8 câu, va thất sắc, quì lạy . Cơ nói nàng ấy đã thôi ở lầu xanh, có chồng rồi, ngươi đặt thơ gởi âm phủ có lục bài thơ , ta thấy làm án nặng, viết cho ngươi sửa nết, y hoảng, vì mới đặt não chưa gởi mà thần tiên hay . Năm sau y thác . Tám câu thơ y sau đây: Tử quỉ bay hoảng khóc tàn canh .
Đoái lại Chương đài cụm liễu xanh .
Hoa nở có kỳ tằm ruột đứt,
Mây tan không ngỡ bướm hồn đoanh (giấc điệp)
Nhớ chừng ngõ phớt xô khuôn cửa .
Quá chén cười mơn nựng bức tranh .
Còn ấp tì bà năm trước chẳng ?
Tầm Dương tình cũ trả lời rành ?

BÀI THỜ KẾT :

Trần làm gia chánh sách nêu danh :
Hành thiện tu tâm tại học hành .
Tố vị giàu nghèo dùng phải tố .
Thanh liêm phận sự giữ cho thanh .
Phước nhiều bởi dạ làm lành lắm .
Đạo cả nhờ kinh giảng nghĩa rành .
Nhơn đạo xong rồi tiên đạo có .
Kỳ công chừa quá bước mây xanh .

PHỤ DỊCH

LỜI TỰA DƯƠNG-PHÁP -TRÌNH IN KINH NGỌC LỊCH

Quan-đế giáng bút tại đàn nhà Dương-pháp -Trình, bảo in Ngọc lịch phải thêm 20 khoản hựu tội của Lữ Tổ xin phép Đại -Sĩ với Địa tạng mà giáng cơ và có các tiên giáng .

LỮ TỔ PHỤNG SẮC GIÁNG BÚT

và chú giải 20 khoản
Ta là Thuần -Dương đặt 20 khoản xin ân xá, nhờ Quan-âm Địa -Tạng nhận lời tâu lại, nên truyền chỉ cho ta phải phụng chỉ Thế -tôn Như lai truyền dụ 20 xá khoản . Nếu ai lương thiện, làm theo 20 khoản ầy, thì thành Phất tiên thánh, hiền . Nếu kẻ dữ, thấy 20 khoản nầy, thề cải ác, ở theo điều lệ đây, thì khỏi luân hồi trả quả . Ta giáng bút sau đây :

1. HIẾU : Con có hiếu với cha mẹ là điều lành trước hết, học trò có hiếu thì thi đỗ . Nếu ai bất hiếu thì trời phạt khốn khổ, tai nạn, chết tật bịnh, chết yểu (chết cách dữ). Dầu người tu tam giáo cũng vậy, hiếu thì siêu, bất hiếu thì đoạ . Sự hiếu đã hết lòng phụng dưỡng, biết có cha mẹ chớ không biết có mình, phải cung kỉnh chịu lụy thiệt tình cho song thân đẹp ý . Nếu cha mẹ bất bình thì con mang bất hiếu .

2. KỈNH : Kính sợ trời Phật thánh thần, nên không dám làm việc quấy, lòng kiêng sợ là kỉnh, không phải lạy cúng là kỉnh . Như kỉnh kiêng phép nước, không dám phạm phép luật, chớ không quì lạy .

3. TRUNG : Như tôi ra trận, liều mình trả ơn chúa . Còn quan gián nghị can vua không tiếc mạng . Quan Trấn thanh liêm, thương dân, mảng lo việc nước mà quên việc nhà, vì hết lòng hết sức . Tôi tớ phải hết lòng trung với chủ nhà . Bạn bè trung tín với chủ tiệm . Người thay mặt trung với chủ . Còn như tá điền lo lúa ruộng, dân lo xâu thuế nước, cũng gọi là trung (hết lòng).

4. NGHĨA : Là sự phải lẽ, không làm trái lẽ, chẳng dám quên ơn, không làm việc quấy . Xử cho phải nghĩa là quân tử .

5. THỦ : Giữ bổn phận bền chí cho qua thời, không vì nghèo nàn mà đổi tiết, Phải thủ thân vì trọng, không dám làm cho hư thân thể mình, thủ khẩu không dám nói tổn đức .

6. NHẪN : Nhịn dằn thì được phược khỏi hoạ . Như Lâu sư Đức, Trương công Nghệ, Lưu Khoan . Nếu không nhịn, thì chẳng hoà .

7. ĐOAN : Ngay thẳng, một sự ngay thẳng thì không tội . không nhập bọn tà vạy, cứ chánh trực công bình, sẽ thành thần thánh .

8. PHƯƠNG : (Vuông) : Ở có mực thước, làm việc vuông tròn .

9. NHƠN : Ở có nhơn là hay thương xót, chẳng nỡ hại người hại vật, mình no mà người đói không đành, hay làm ơn phước .

10. HẬU : Ở có hậu, thì không vong ân bạc ngãi, không khắc bạc ai hết . Người có ân hậu là người hiền lành lắm .

11. BẤT KIÊU BẤT TRÁ : Chẳng kiêu chẳng gạt : giàu cũng không khoe khoang, giỏi cũng không kiêu ngạo . Châu-công là bực thánh, làm ngự đệ mà còn chẳng dám kiêu . Kiêu như Thạch -sùng, giàu cũng mắc họa . Còn không dối thì là chơn thiệt, chẳng gạt ai, chẳng thất ngôn thất tín thì khỏi phạm vọng ngữ, chơn thiệt mới thành .

12. BẤT THAM BẤT SÂN : không tham không giận, Tham thì sanh giận, giận thì sanh dữ, nên tam giáo đêu cấm hai điều ấy . Qang-âm nói:

Sân thị tâm trung hỏa, năng thiêu công đức lâm,
Dục hành bồ tát đạo, nhẫn nhục hộ chơn âm .


Thích nôm :

Giận thiệt lửa trong lòng, như thiêu hết đức công .
Muốn theo bồ tát dạy, dằn nhịn dạ như không.


13. BẤT KHÍ BẤT VÕNG : Không dối, không ngang . Không dối thì lòng công, không ngang thì khỏi phạm thượng, giữ tánh khiêm nhường .

14. BẤT TÀ BẤT DÂM : không vạy, không tà dâm . Lòng không chánh là tà, không phải thê thiếp mình, mà muốn là tà dâm (dâm ác) chẳng nên thấy sắc tốt mà sanh lòng tà dâm vọng tưởng .

15. TƯƠNG THÂN TƯƠNG MỤC : Thương nhau, hòa nhau . Lòng thân là tưởng không ghét ai, hòa là không gây tung với ai . Coi bốn biển như một nhà, coi thân ai như thân này . thương người như thể thương ta .

16. ĐỒNG THIÊN ĐỒNG THÀNH : Mình lành khuyên người làm lành, mình thiệt tình, khuyên người thiệt tình cũng hết lòng thành như mình .

17. HÓA KỶ HÓA NHƠN : Sửa mình cho thành đức, rồi lo dạy người sửa người đặng đức hạnh như mình, không tiếc công dạy .

18. HÓA ĐẠO HÓA NGHĨA : Giữ theo đạo luân hồi, xử cho phải nghĩa,
hay trượng nghĩa giúp người, nhứt là bằng hữu sửa lỗi nhau .

19. QẢNG KHUYẾN QUẢNG HÀNH : Rộng khuyên, rộng làm . Mình khuyên người làm lành làm phải, mà mình cũng làm ơn làm phước cho nhiều .

20. VÔ PHI, VÔ THỊ : Không sanh việc thị phi . Nếu lòng ở công, không phân người phân ta, nói người phải mình quấy, thì không sanh việc thị phi .
Nên giữ được 20 điều ân xá thì siêu .



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 26 Apr 2012, 2:58 PM | Message # 38
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
ĐỊA -TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT GIÁNG BÚT
(Tựa Công-quá-cách)
Người đời không cho con học chữ nho, nên không thông đạo lý. Cứ tưởng cúng chùa dưng hương là lành, rước sãi thầy tu tụng kinh làm chay thì siêu độ vong hồn đặng ! Các điều ấy có phải làm lành làm phước đâu ? Làm lành là làm phải lý, lại khuyên người làm phải, thì trời xuống phước. Ta thấy người đời ở với cha mẹ không hiếu gì, cha mẹ mãn phần thì nói : ' Sa địa ngục rồi ! Phải rước sãi làm siêu độ ! ' Các sãi bày ra làm mị, như gởi kho vàng bạc, phá ngục, bong đầu phướng đặng tiếp dẫn vong hồn lên Tây phương. Có lẽ gì thọc cây tre mà phá đặng địa ngục ? Nếu quả như vậy, thì kẻ giàu sang làm dữ, thác rồi con cháu rước đông sãi tụng kinh niệm Phật thì vong ra khỏi ngục sao ? Người hiền lành mà nghèo, không tiền rước sãi làm như vậy, thì không ra khỏi ngục sao ? Như vậy trời đất cũng vị nhà giàu mà hà hiếp nhà khó hay sao ?
Còn như Phật ở Tây phương, công đâu mà vị nhà có tiền phải cứu vớt ? Tâm là Phật, tâm là thiên đường, lòng lành thuận lòng trời thì cầu vong khỏi tội, lòng chẳng lành nghịch lòng trời thì cầu không đặng. Nếu không làm phước cứ mỗi ngày rước thầy tụng kinh cầu siêu hoài, Phật muốn cứu cũng không lẽ cứu được. Ta cũng là Phật lẽ đâu không hiểu phép. Làm lành tuy không cầu Phật mà Phật cũng phò hộ. Nếu làm dữ, có lạy Phật cho đến sói đầu, cầu cũng không đặng. Ta khuyên đời nghe lời ta, cứ ở theo luật Công quá cách, đừng làm các điều dị đoan trái lẽ, tuy chẳng cầu ta cũng độ vọng, không cần rước sãi.

VĂN-ĐẾ BÁ-TỰ-MINH (GHI TRĂM CHỮ DẠY ĐỜI)

Quả dục tinh thần sảng Dục ít tinh thần khoẻ.
Đa tư huyết khí suy, Lo nhiều khí huyết phai.
Thiểu bôi bất loạn tánh. Vài chung khôn loạn tánh.
Nhẫn khí miễn thương tài. Một nhịn khỏi hao tài.
Quí tự tân cần đắc. Sang tại siêng năng, đổ.
Phú tùng kiệm ước lai. Giàu nhờ tiện tặn dai.
On nhu chung hữu ích. Dịu mềm sau có ích.
Cường bạo tất chiêu tai, Hung dữ sẽ mang tai.

Thuận xử chơn quân tử.
Khiêu toa thị họa tại.
Am trung hưu sử tiễn.
Qai lý Phóng ta ngai.
Dưỡng tánh nghi tu thiện
Khi tâm mạt ngật trai,
Nha môn hưu xuất nhập
Hương đảng yếu hòa hài.
An phận thân vô nhục.
Nhàn phi khẩu vật khai.
Thế nhơn y thử khuyến.
Nạn thối phước tin hồi.
Khéo xử nên quân tử,
Xui mưu rấm họa thai.
Chốn thầm đừng bắn lén
Cảnh nghịch giả ngây hoài.
Tánh tốt gìn tam thiện.
Lòng gian uổng thập trai.
Nha môn đừng kiện cáo
Làng xóm chớ chê bai.
Bổn phận nương cơ tạo.
Thị phi lấp lỗ tai.
Lời nầy ai giữ đặng.
Nạn khỏi phước lâu dài.

ĐƯƠNG -THỦ TRAI -KỲ
(một năm ăn chay 61 ngày vía lớn)

Bốn ngày tháng giêng : mồng 1 , lệ tế trời và vía Phật Di -Lạc, (vái...) Mồng 8 vía Ngũ -điện Diêm La Vương (vía ăn năn làm lành như mồng 1). Mồng 9 vía Ngọc-hoàng thượng đế (bái cải quá...) Rằm Thiên quan đại đế.
Sáu ngày tháng hai : Mồng 1 vía Nhứt điện Tân -quáng vương (nguyên y Ngọc lịch ). Mồng 2 vía Thổ địa chánh-thần. Mồng 3 vía Tử -đồng Văn -xương đế quân. Mồng 8 vía Tam điện Tống đế vương (vái...). Rằm vía Thái thượng Nhạc nguyên soái (tụng Cảm ứng). 19 Quan-âm, (tụng Phổ môn Cứu khổ, Cao-vương).
Sáu ngày tháng ba : Mồng 1 vía Nhị -điện Sở-giang-vương (vía...). Mồng 2 Chơn -Võ Huyền thiên thượng đế (nguyện tụng kinh Báo ân). Mồng 8 vía Lục điện Biện -thành -vương (vái...). Rằm Lôi -đình đại tướng. 16 vía Chuẩn -đề Bồ -tát. 27 Thất điện : Thái sơn vương, 28 Đông -nhạc đại -đế.
Năm ngày tháng tư : Mồng 1 Bát đẳng vương (vái...) Mồng 8 Cửu điện Đô thị vương (vái...) 14 Lữ Tổ Rằm Thích -ca Như -lai (tụng Kim -cang). 17 Thập -điện Chuyển -luân xương (vái...)
Sáu ngày tháng năm : Mồng 1 Nam-cực tiên ông. Mồng 5
Lôi đình Đặng thiên quân, 11 Đô-thành - hoàng . 13 Quan Thái tử, (14, rằm 2 ngày cấm phòng).
Bốn ngày tháng sáu : Mồng 1 Rằm 19 Quan-âm thành . 23 Quan đế Linh quan .
Bốn ngày tháng bảy ; Mồng 1 ngày sóc . Rằm Địa -quang đại đế . 18 Diêu-trì Tây vương mẫu . 30 Địa tạng vương (vái ...).
Bốn ngày tháng tám : Mồng 1 Diệu -tế chơn-quân, Mồng 3 Táo -quân (tụng kinh ...) Rằm Thái âm hoàng hậu (tụng thái -âm). 24 Táo mẫu (bà Táo) tụng kinh ông Táo).
Bốn ngày tháng chín : Mồng 1 Nam-đẩu . Mồng 9 Phong đô đại đế, 13 vía Mạnh -bà . Rằm ngày vọng .
Năm ngày tháng mười : Mồng 1 Đông-hoàng đại -đế . Mồng 8 Niết bàn (phóng sanh). Mồng 10 ngày cấm phòng . Rằm Thủy quan đại đế . 30 Châu tướng quân (ông Châu).
Bảy ngày tháng mười một : Mồng 1 ngày sóc . Mồng 4 Khổng tử thánh nhơn . Mồng 6 Tây nhạc đại đế . Rằm ngày vọng . 17 A Di Đà Phật (tụng Di Đà). 19 Thái dương (tụng kinh Thái dương), 23 Trương tiên (Phàm vía này, vía Linh quan Thái tử, ông Châu, vía ông Quan đế, đều tụng kinh ông ; Minh thánh Vĩnh Mạng).
Sáu ngày tháng chạp : Mồng 1 ngày sóc . Mồng 8 Thích ca . Rằm ngày vọng, 23 đưa ông Táo chánh vía 24, 30 chư Phật giáng thế .
Tháng nào thiếu, 29 thế 30 . Tháng nhuần tính theo tháng trước .
Nếu ai ăn chay vía trước nhiều không nổi, thì giữ chay nầy .

BÀI SÁM HỐI QUÁ, TIÊU TỘI NHỰT KỲ

Trần -huyền -Trang là thầy Tam-Tạng thỉnh kinh Tây-phương về, có dưng sớ cho vua Đường Thái -Tôn, mỗi tháng có một ngày nhằm giờ lay sám hối cho nhằm hướng chư Phật hội nghị . Vái nguyện ăn năn chừa lỗi cữ và nguyện làm phước mới cho tiêu tội . Chẳng phải lạy không mà trừ tội đặng . Phật cho hối quá tùng thiện .
Tháng giêng, tảng sáng ngày mùng 1, lạy hướng nam 4 lạy, vái .' 2, mùng 9, 5 giờ sáng, lạy hướng nam 4 lạy, nguyện . ' 3, ' 7, tối 10 giờ, lạy hướng tây 4 lạy, tháng 4, mùng 8, tối 10 giờ rưỡi lạy hướng đông 4 lạy, nguyện '
' 5, ' 3, mặt trời lặn, lạy hướng đông 4 lạy, '
' 6, ' 7, tối 10 giờ rưỡi lạy hướng nam 4 lạy, '
' 7, ' 6, mặt trời lặn, lạy hướng đông 4 lạy, '
' 8, ' 8, đứng bóng , lạy hướng nam 9 lạy, '
' 9, ' 9, đứng bóng, lạy hướng nam 9 lạy, '
' 10, ' 1, đứng bóng, lạy hướng nam 9 lạy, '
' 11, ' 3, đỏ đền, lạy hướng tây 9 lạy, '
' chạp ' 3, mặt trời lặn, lạy hướng tây 9 lạy, '

Ngày ấy ăn chay niệm thầm : Nam mô A-di-đà Phật, đặng lấy câu lạy mấy câu . Chừng lạy, thắp nhang ba cây, căm trên hương, nhắc ghế (bàn) để ngay hướng đó, có đèn cũng đủ, à quả tự ý, không ngơ cũng được . Bận áo dài, đứng chắp tay iệm 6 chữ Di-đà 100 câu, ít nữa 10 câu . Rồi vái tên họn mình gày nay nguyện cải ác tùng thiện . Ở theo Công-quá -cách, cầu êu tội cũ, mà nhờ phước trời Phật thánh thần cho, rồi lạy y số . ân hương, dẹp bàn ghế, niệm Phật . Làm được như vậy ba ăm, thì cảm động bề trên, trong nhà bình an, tai qua nạn khỏi, làm hoài chung thân, sống được phước, thác khỏi tội . Cũng như lặt bàn lạy vía Thập -vương, lạy Thập -vương cứ hướng bắc .

VĂN-XƯƠNG ĐẾ QUÂN GIÁNG CƠ DẠY CẦN GẤP

Ta đã thấy chiếu chỉ Thượng -đế ban cho Bắc -đế (Huyền hiên Thượng -đế) nội tháng chạp, dẫn âm binh đi tra xét tội bất hiếu mà phạt, có hiếu thưởng phước, là xét các mồ mả tử tế, thì là coi con cháu là tên họ gì mà lo cho cha mẹ ông bà, thì hưởng phước lộc thọ gọi là thưởng thiện (hiếu). Nếu mả nào hoang lạnh, tồi tệ, bỏ bê thì tra ra con cháu bất hiếu, thì phạt tai hoạ, bịnh hoạn, nghèo khổ thác yểu . Tùy theo hư nhiều ít ; mà hạt nặng nhẹ . Tại con cháu không biết cội rễ, nên phạt gia đạo hông an . Vì Huyền -thiên thượng -đế là giáo chủ việc báo ân, nên in thưởng có hiếu và phạt bất hiếu . Nên ta cho đời hay trước là giữ .



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 26 Apr 2012, 2:58 PM | Message # 39
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
KHẮC BẢN NGỌC -LỊCH, THỈNH TIÊN CHO TỰA

Lữ Tổ giáng bút :

Người đời làm dữ thái quá, nhờ ơn Địa -tạng truyền chỉ Phong-đô, Thập -vương dọn Ngọc -lịch, xin chỉ Thượng -đế, ban phát trung giới cho người ăn năn chừa lỗi, làm phước đền tội . Lúc đời Tống, nhằm nước Liêu niên hiệu Thái -bình năm Canh-ngũ, sãi nước Liêu là Đạm Si lãnh về, giao cho Phạm nhứt Chơn là Vật Mê đạo -nhơn truyền cho đời . Sau ta đã dọn 20 khoảng xin chỉ ân -xá, giáng bút đem vào sau Ngọc -lịch . Thượng -đế truyền chỉ các thành hoàng mỗi ngày Canh-thân sai du thần đi xét những người tin Ngọc -lịch ăn năn chừa lỗi làm lành, thì cho tiêu tội, ai khắc bản in thí thì cho phước, có bịnh hứa in mà cầu tiêu bịnh lượng theo số mà cho . Bất luận cầu việc chi, cũng cho nguyện in thứ Ngọc -lịch cho nhiều thì đặng . Nay khắc bản thêm, xin ta cho tựa ta nói thêm ít lời . Sự thiên -đường địa -ngục rõ ràng, đừng nghi không có, cứ làm dữ mà mang khổ . Y theo Ngọc -lịch, ăn năn chừa lỗi, làm lành làm phước chuộc tội, công lớn thì theo tiên Phật thánh thần, dư phước đức con cháu được hiển vinh miên viễn . Lành ít sau khỏi sa địa -ngục, đầu thai hưởng phước . Khuyên đời chớ hồ nghi .

LIỄU -TIÊN GIÁNG CƠ TỰA CHÓT

Thượng -đế cho tựa kinh nầy là Từ -ân Ngọc -lịch, nghĩa là như lịch ngọc thường ngày xem, ban ân xá, tha tội kẻ ăn năn . Nếu làm một phước cho trừ hai tội cũ . Làm dư phước thì Táo -quân tâu thưởng nhiều sự may, vân vân .

HỒI -DƯƠNG BIÊN HOẶC

Trào Thanh Nhơn -quả Hồi -dương,
Tự -Kỳ tâu hỏi, Minh -vương phán rành :
Là vua Nhứt -điện U-minh (Tần -quảng -vương)
Dạy việc tu hành chỉ nẻo siêu thăng :
' Ngũ -luân là đạo lẽ hằng,
Tam cang, huynh đệ, hữu bằng năm phe,
Thảo, ngay, chồng bảo vợ nghe,
Anh em yêu mến bạn bè thiệt tin .
1. TRUNG : Làm quan trung với triều đình,
Quên nhà vì nước, quên mình vì dân,
Công bình chẳng vị tư ân,
Xứng ngôi chức phận, vẹn phần thanh liêm .
Còn như dân dã trọn niềm :
Lo xong xâu thuế, giữ nghiêm luật điều .
Gìn lòng trung tín mến yêu,
Không lời phạm thượng, giữ điều tôn quân .
Khuyên người noi đạo Ngũ -luân,
Sửa nền phong hoá, dạy lần ngu ngoan .
2. HIẾU : Cha con đứng giữa tam cang,
Đạo làm cha mẹ, dạy đàn trẻ thơ .
Đừng cho hoang đảng bạc cờ,
Nông thương nghề nghiệp, thi thơ học hành .
Cưng hư thời uổng công sanh,
Dạy nên là việc tu hành với con .
Làm con chữ hiếu vuông tròn,
Một lo thi đỗ, tông môn rỡ ràng .
Hai lo thần tĩnh mộ khan,
Giàu ra công khó, nghèo càng dưỡng nuôi,
Kính thờ cha mẹ đồng vui,
Hết lòng hết sức, lo nuôi lo đền .
Thần mình cha mẹ gầy nên,
Giữ cho toàn vẹn, như đền cù lao .
3. HÒA : Thứ ba chồng vợ làm sao ?
Chồng ra xử thế, vợ vào tề gia .
Giàu nghèo cũng ở thuận hoà,
Xướng tuỳ phải đạo, vào ra giữ lời .
Phần chồng dạy vợ ở đời,
Làm dâu vẹn thảo, đãi người trọn ân .
Bạn dâu hòa thuận mười phần,
Bà con yêu dấu, xa gần ngợi khen,
Lòng chồng chớ ở bạc đen,
Nhan sắc là hèn, đức hạnh là hơn .
Chớ mê tiếng quyển tiếng đờn,
Cũ vong mới chuộng, đèn hơn trăng lờ .
Đàn bà giữ vẹn một thờ,
Tháng đợi năm chờ, chồng chúa vợ tôi .
Kinh chồng, hiền đức vô hồi .
Sắt cầm hoà thuận, đắp bồi gia cang .
4. ĐỄ : Thứ tư huynh đệ yêu đương,
Ấy là chữ đễ, cũng ngang chữ hoà .
Thịt xương một chỗ mà ra,
Anh dầu bị khổ, em đà chẳng an .
Em may anh nở lá gan,
Anh mà đau nhức, em càng xót xa .
Anh em yêu mến thuận hoà,
Mẹ cha đẹp ý, ông bà mát gan .
Mồ côi càng chạnh trăm đàng,
Nhìn xem thủ túc, mơ màng xuân huyên .
Thương anh như mến cha hiền,
Nếu phiền huynh đệ, như phiền mẹ cha .
Anh em ai dẫu bất hòa,
Bị người đánh chửi, cũng ra binh liền .
Bởi vì thiên hiệp tự nhiên,
Anh em cha mẹ căn nguyên tại trời .
Trời xanh không thế đổi dời,
Khó tìm cha mẹ, không rời anh em .
Vợ, con, người chọn mắt xem,
Nối đây dễ quá, sanh thêm khó gì ?
Ấy là nhơn hiệp lạ chi,
Chớ khinh huynh đệ mà vì vợ con .
Mẹ cha anh chị vuông tròn,
Anh em bực nhứt, vợ con bực nhì .
5. TÍN : Thứ năm bằng hữu trọn nghì .
Giúp giùm sửa lỗi, yêu vì khuyên nhau .
Nội nhà ngộ biến lòng đau,
Có khi bằng hữu giúp nhau được toàn .
Việc nhà khó nỗi trở đang,
Có khi bằng hữu giúp cang đặng hòa .
Vậy nên chỉ tín đừng ngoa,
Càng lâu càng mặn, rán la rán giùm
Chọn người tài đức yêu dùng,
Khuyên lơn làm phải, chung cùng giúp nhau
Năm điều vẹn giữ trước nhau
Tu ròng ngũ đạt, đạo mầu nhứt tâm
Năm điều giữ vẹn chẳng lầm .
Thì là hành đạo phải tầm kiếm đâu ?
Trẫm đà truyền đủ đạo mầu,
Người khuyên thiên hạ rán tu cho thành,
Ấy là chánh phép tu hành,
Tại gia cũng đủ bao đành xuất gia .
Gái trai lớn bé trẻ già,
Sang hèn giàu khó đều là phải tu .
Gồm tam giáo : Thích, Đạo, nhu (nho),
Ai tu cũng đặng người tu thời thành .
Làm người tùy sức tu hành,
Cảnh nào cũng vậy lòng lành bấy nhiêu .
Tuy giàu, nhưng khó chẳng kiêu,
Dầu nghèo như khá, chẳng điều gian hung,
Ở đời biết xét hay dung,
Trị nhà nhẫn nhịn, đủ dùng tu thân,
Sự nào mình phải mười phần .
Xét ra còn lỗi một phân sửa liền .
Việc chi người quấy cả thiên,
Tìm ra lẽ phải không phiền chấp chi .
Siêng làm ra của khó gì,
Biết lo tiện tăn, mấy khi nghèo nàn .
Gốc là Hiếu Đễ giữ ràng,
Thảo cha kính mẹ, yêu đang ruột rà .
Ở đời phương tiện mới là,
Người lo chẳng tiện, ta thà giúp phương .
Làm lành là gốc thiên đường,
Tùy cơ bố thí chánh phương tu hành .
Trọn đời như vậy là lành,
Công đầy quả đủ thì thành chẳng ngoa .
An chay niệm Phật thêm lòa,
Bằng không cũng đặng theo khoa thánh thần .
Tự -Kỳ còn ngại tâu rằng :
' Khó bề bố thí, vì thân nghèo nàn ! '
Tần -quảng -vương phán rõ ràng,
' Nhiều phương bố thí, lắm đàng tế nhân .
Trừ ra túng ngặt cơ bần,
Mình đành thí của, cứu lần gian nguy .
Chớ như đói khát một khi,
Bữa cơm bát nước, tốn gì bao nhiêu ?
Người đời lo sợ chít chiu,
Mình khuyên bớt ngại cũng đều tế nhân .
Người mê lầm lỗi cõi trần,
Mình khuyên tu niệm đặng phần siêu thăng .
Giúp điều phương tiện bủa giăng,
Ra công, mỏi miệng, cũng bằng thí thiên .
Người gây tụng, kẻ thù riêng .
Giải hòa thôi kiện, răn khuyên hết rầy .
Tuy nghèo thương chúng chẳng khuây,
Cũng là bố thí lựa chi có tiền '
Tự Kỳ còn ngại tâu liền :
Sãi gọi tu thiền, niệm Phật ăn chay '.
Đức vua Tần Quảng phán ngay :
' Bày ra niệm Phật ăn chay sửa lòng
Ăn chay không ích Thế tôn (Thích -ca).
Công chi với Phật, mà hòng ỷ chay ?
Dẫu cho niệm Phật đêm ngày,
Ích chi cho chúng, rằng hay tu hành ?
Phép tu gốc tại làm lành,
Đừng vương việc dữ thời thành xưa nay
Dẫu cho niệm Phật ăn chay,
Tránh làm lành dữ, tội đày đọa sâu .
Mới giam mấy sãi chẳng lâu,
Hòa thượng khẩn cầu, niệm Phật ăn chay !
Lòng chẳng tịnh, tánh không ngay,
Đời niệm Phật, ròng chay cũng cầm .
Ngũ luân tu nhứt chẳng lầm,
Chay bố thí, niệm thầm thứ hai
Trí tại tâm, chẳng tại tài,
Lòng chay khó lắm, miệng ngoài có chi
Một đồng nhà khó thí đi,
Phước ấy dám bì giàu thí một phiên
Giàu sang một bữa chay tuyền,
Cũng bằng nhà khó chay liền một trăng .
Vì suy chỗ khó làm căn,
Khó mà làm đặng, thiệt bằng lòng tu '.



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 26 Apr 2012, 2:59 PM | Message # 40
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
GIÁC MÊ DIỄN CA

Từ mở mang trời đất những nay,
Cũng có cuộc tang thương canh cải .
Ngươn ba ngươn tuần huờn dựng lại .
Hội mười hai cho đủ mới rằng .
Cõi hồng trần còn hỡi lăng xăng,
Người lành phải chịu bề cay đắng,
Chữ tam đạt thì lòng phải gắng,
Muốn lên bờ phải thác bến mê,
Học Phật gia niệm chữ từ bi,
Tu tiên đạo giữ câu cảm ứng .
Trung thứ này cho là bằng chứng,
Phật Thánh Tiên tam giáo một lòng,
Dọn chông gai đường cả mới thông,
Chịu tân khổ gọi là thượng trí
Người trượng phu phải gìn tam qui,
Đứng anh hùng đừng bỏ cửu tư,
Đạo tiên thiên lập đảnh an lư,
Hạng cũng có trong hư ngoài thiệt .
Tánh tòng bá phải y một tiết,
Nếu đổi dời khổ đọa trầm -luân .
Nhắn với ai qui giới phải tuân,
Một phen khổ muôn đời thong thả,
Nợ tiền khiên buổi nầy phải trả,
Nợ trả rồi vật ngoại thảnh thơi
Mặc dầu trong trời đất vui chơi,
Năm hồ rộng thần tiên thú lạ .
Muốn nên mình phải bền chí cả,
Công cho dày thì quả mới cao .
Dốc lòng đền chín chữ cù lao,
Hành chánh đạo dương danh hậu thế .
Ấy vậy mới tứ ân bất phế .
Hỡi đạo người đừng bỏ nghĩa nhơn,
Làm sao cho tiệp thủy đăng sơn .
Chữ Hầm cốc cùng ông Tương -Tử,
Công danh lợi thì mình phải xử .
Cuộc phù hoa nhắm cũng cheo leo,
Tần -Thỉ -Hoàng tiếng hỡi còn nêu,
Thâu lục quốc phàn sơ khanh sĩ,
Núi Thú -dương Di -Tề danh để .
Giữa một lòng tiết nghĩa mà thôi,
Làm chi Tần -Ngụy cao ngôi,
Thanh sử tạc muôn đời cho tệ .
Đậu yên sơn ngũ chi đơn quế,
Bởi vì chàng cải quá tự tân,
Người đời lấy đức tu thân,
Đừng học thói vua Tần mà bất nghĩa,
Trắc ẩn chi tâm tùng thiên lý,
Nỡ lòng nào giết vật cho đành .
Người úy tử vật lại tham sanh,
Gẫm người vật máu xương không khác .
Thấy thửa sống không đành thửa thác,
Lời Mạnh -kha sách để hẳn hòi,
Xin hiền lương xét lại mà coi,
Sao là phải, sao là chẳng phải .
Sách có câu quá nhi tất cải,
Tử -Lộ xưa nghe lỗi thì mừng,
Võ -Vương làm thiên hạ chi quân,
Còn phải văn thiện ngôn tắc bái,
Nói ra thì tai nghe cũng trái,
Bởi vì nhơn sự cách thiên cơ .
Việc thị phi tai phải làm ngơ,
Học Nhan -tử đai cơm bầu nước .
Đạo muốn cao tỏ đường sau trước,
Cách chỉ mành nào có xa đâu .
Cõi nam đà mở rộng cửa lần,
Đèn trí huệ hào quang chói chói,
Thuyền bát nhã nghinh ngang bốn biển .
Nước ma ha rửa sạch ba lòng,
Rượu Quỳnh hoa mời khách tây đông .
Ngựa không bóng rước người Nam Bắc,
Máy sau lưng xảy bày trước mặt .
Nửa hông nồi nấu khắp non sông .
Muốn cho thấy đặng chủ nhơn ông,
Non vô ảnh âu tâm mới hãn,
Trong hang thần đừng cho gián đoạn,
Độc mộc kiều có gã Quỳnh nương,
Cõi nê hoàn mua rượu Quỳnh tương
Đặng một chén uống thời bất lão,
Việc tu hành phải suy mùi đạo .
Nếu bơ thờ quả vị khó trông,
Tiếng đờn thì tai lóng cho thông,
Chơn như thể giai không ngũ uẫn,
Thập tam ma khuyên đừng lấp lửng,
Gươm huệ mài trừ nó mới an,
Giảng cho thông tứ cú kim -cang,
Thời mới thấy bổn lai diện mục,
Tuy sắc thân hỡi còn ở tục,
Lòng cho riêng mới gọi là thần,
Ai còn mang những thói tham sân,
E khó nỗi luân hồi lục đạo,
Hoạ phước vô môn nhơn tự triệu,
Muốn hi hiền phải liễu phàm tâm,
Đạo Như-Li vô thượng thậm thâm,
Biển cho lặng minh châu mới hiện,
Ngọc cửu khúc gắng công giồi huyện,
Tầm thư hùng hái nước non nam .
Mười hai giờ quyền hộ phải tham,
Thiên giao thời pháp luân thường chuyển .
Rồng trên non cọp kia xuống biển .
Đầy ba xe chở những vàng ròng,
Làm sao rằng lôi phục thiên phong .
Buôn sáu hiệp thâu vào lại gắn .
Thuốc ba phẩm công phu luyện chính
Muốn đơn thành văn võ phải toan,
Ai dốc lòng đến núi linh san
Đóng sáu cửa cho bền then khóa .
Cửu cửu ma thử lòng vàng đá .
Ấy mới rằng biết giả biết chơn .
Thầy Huyền -Trang tiệp thủy đăng sơn .
Trái tám mối Lôi Âm mới tới .
Lòng Bồ -đề không dời không đổi .
Tánh yêu ma còn tiếc nhục phòng,
Bởi chưng qui gới chưa thông .
Căn duyên nợ năm dây khó dứt,
Đạo muốn cao phải bồi chí đức,
Đạo đức toàn quỉ phục thần khâm .
Trời đâu có phụ đạo tâm,
Nghiệm kim cổ người lành mắc nạn .
Việc tu hành phải soi cho rạng,
Nếu không minh ắt chẳng đốc hành,
Đạo Phật Tiên có chí thì thành,
Người bao thuở thủy cầu chung đãi .
Nương phép thuyền mà qua khổ hải .
Sóng muôn trùng còn đoái làm chi .
Bền một lòng niệm chữ A-di
Sau cũng đặng thảnh thơi muôn kiếp .
Máy quang âm lẹ thoi như nhíp,
Người trăm năm chẳng khác chiêm bao .
Cõi bờ này sóng bủa lao xao,
Cuộc danh lợi gẫm như bọt nước,
Đọc sách kinh nhớ người đời trước .
Ông Thạch -Sùng giàu có muôn xe .
Qua đời này tiếng hỡi còn nghe,
Sao chẳng thấy mặt trường sanh thọ hưởng .
Hàn -Tín xưa là mưu thần chi tướng .
Cũng chưa nên mười mặt phô trương,
Người ở đời lấy đó mà răn,
Kim như thị cổ hà như thị .
Xử thế phải biết liêm biết sĩ,
Tu thân thời vô lự vô tư,
An một lòng mau ốc thảo lư .
Đừng học thói Triệu Tần mộ Sở .
Đường Huỳnh -Đạo trời đà rộng mở .
Khách Tây -du sớm nhớ quày đầu .
Kiếp duyên khương sáu vạn dư niên,
Dưng thiên mạng kíp truyền y-bát .
Sông Ai-hà khuyên người kíp thoát .
Khỏi lưới trần cực lạc cũng xinh .
Cuộc diêm -phù nhiều nỗi nhục vinh .
Không lại có, giàu sang dời đổi .
Thú thảnh thơi màu thoàn quen dõi .
Đất Bồ -đề sớm tối xuê-xoang .
Chữ Danh lợi, sao bằng chữ nhàn .
Cửa Bát nhã vào ra thong thả .
Trống Đại Hùng đà thâu ý mã .
Chuông linh sơn hỡi toả tâm duyên .
Ngọc mu ni há dễ khinh truyền .
Kinh Bạch tư dám đâu vọng triết .
Địch không lỗ có duyên mới biết .
Đờn không dây vô phước khó nghe .
Rượu đề hồ chứa để đầy ve .
Say một cuộc bất tri nhơn sự .
Ngâm chỉ huyền say cùng ông Lữ .
Đọc tỉnh mê say với ông La .
Kim huỳnh -đình rảnh đọc năm ba .
Vô bồng tháp buồn xem tạo hóa .
Ngó Nam lãnh vui màu tòng bá,
Nhìn Bắc Hà rùa cá lội vởn vơ .
Chốn Đơn phòng tỏ nỗi huyền cơ .
Mặc dầu kẻ ngộ cùng không ngộ .
Có duyên gặp tam kỳ phổ độ .
Muôn đời còn Tử phủ nên danh,
Ba ngàn công quả đặng viên thành,
Đơn thơ chiếu hiển vinh thiên tước .
Chín phẩm sen vàng khai thấy Phật .
Cữu huyền thất tổ đặng tiêu diêu .

THẬP NGOẠT CA

Hiệu đề thập ngoạt hoài thai,
Tam niên nhủ bộ ai ai cho tường .
Kể ra mỗi việc trăm đường,
Nghe thời phải gắng cho thường chớ sai .
Dặn dò già trẻ gái trai,
Tưởng ơn cha khổ, nhớ hoài mẹ lao .
Trước thưa anh chị nhậm ngôn,
Sau cùng thiện tín bát phương đạo tình .
Khá ăn chay niệm Phật tụng kinh,
Tuân qui giới đền ơn thiênđịa
Người trượng phu phải gìn chữ nghĩa .
Đứng anh hùng trung hiếu đừng sai .
Anh đừng quên thập ngoạt hoài thai,
Chị phải nhớ tam niên nhủ bộ .
Lòng tưởng tới cửu huyền thất tổ .
Dạ khăng khăng báo bổ song thân .
Làm sao cho báo đáp tứ ân .
Lo những cứu tam đồ chi khổ .
Ơn phụ mẫu sanh con quá khổ .
Mẹ đặt con vào dạ thêm lo .
Chín tháng trường chẳng dám ăn no .
Năm canh ấy ngủ không ngon giấc .
Chưn mẹ không rời dưới đất,
Dạ cưu mang lật đật dám đâu .
Tưởng chừng nào lụy nhỏ thâm bâu,
Chạnh nhớ đến ruột đau từ đoạn .
Việc sanh đẻ mẹ đà xuất hạng .
Tán loạn lo sanh tử không chừng .
Vì chậm sổ thời cha vái tưng bừng,
Bằng trì huỡn phụ vào bái tử .
Chốn ô uế đứng trong giường cữ,
Cúi đầu chờ con sổ cho mau .
Đến bây giờ phải nghĩ trước sau .
Ơn nghĩa ấy tương rau cũng đáng .
Huyết ô trì mẹ nằm một tháng,
Bởi vì con, thịt nát dạ càng,
Trên thời vầy nồi nước vung thang,
Nơi phía dưới lửa vây hừng hực .
Chịu cay đắng mẹ không than cực,
Đạo làm con phải nhớ sanh thành .
Thập ngoạt đà nhứt tử nhứt sanh,
Tam niên ấy ốm gầy mình mẹ .
Nuôi con trẻ không cho tiếng khóc,
Hễ khóc lên lật đật chạy quay
Công mẹ rày giặt rửa liền tay .
Vì con trẻ bao nài khai thúi .
Mới ngon giấc ỉa ra lụi hụi,
Cha đốt đèn mẹ lại rửa trôn .



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 26 Apr 2012, 2:59 PM | Message # 41
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
MƯỜI -CÔNG ĐỨC ẤN TỐNG KINH, TƯỢNG PHẬT

* Một là, những tội lỗi đã tao từ trước, nhe thì được tiêu từ . nàng thì chuyền thành nhe .
* Hai là, thường được các thiên thần ùng hộ, tránh được tất cả tai ương hoạn nạn, ôn dịch, nước, lửa, trộm cướp, đao binh, ngục tù,
* Ba là, vĩnh viễn tránh khỏi những quả báo phiền khổ, oán cừu oan trái của đời trước cũng như đời này .
* Bốn là, các vị hộ pháp thiện thần thường gia hộ nên những loài dạ xoa ác quỷ, rắn độc hùm beo tránh xa không dám hảm hại .
Năm là, tâm được an vui, ngày không gặp việc nguy khốn, đêm ngủ không thấy ác mộnh . Diện mạo hiền sáng, mạnh khoẻ an lành, việc làm thuận lợi, được kết quả tốt .
* Sáu là, chí thành hộ pháp, tâm không cầu lợi, tự nhiên y thực đầy đủ gia đình hoà thuận, phước lộc đời đời .
* Bảy là, lời nói việc làm trời người hoan hỷ, đến đâu cũng được mọi người kính mến ngợi khen .
* Tám là, ngu chuyển thành trí, bệnh lành mạnh khoẻ, khốn nghèo chuyển thành thịnh đạt . Nhâm chán nữ thân, mệnh chung liền được nam thân .
* Chín là, vĩnh viễn xa lìa đường ác, sanh vào cõi thiện, tướng mạo đoan nghiêm, tâm trí siêu việt, phước lộc tròn đầy .
* Mười là, hay vỉ tất cả chúng sanh trồng các cân lành . Lấy tâm cầu của chúng sinh làm ruộng phước điền cho mình . Nhờ công đức ấy đạt được vô lượng phước quả thù thắng . Sanh ra nơi nào cũng thường được thấy Phật, nghe Phép, phước huệ rông lớn, chúng đạt lục thông, sớm thành Phật quả .

ẤN QUANG TỔ SƯ DẠY :

Ấn tống Kinh, tượng Phật được công đức thù thắng như vậy, nên gặp khi chúc thọ, thành hôn, cầu phước, thoát nạn, sám hối, cầu tiêu trừ tặt bịnh, cầu siêu độ hương linh, hãy tinh tấn phát tâm Bồ Đề ấn tống, để trồng cội phước đức cho chính mình và thân bằng quyến thuộc .

ẤN TỐNG KINH

Chúng con góp lòng thành Tâm Ấn Tống 1000 cuốn Kinh Nhơn Quả, Nghiệp và Luân Hồi để cầu an và cầu siêu.

Nam Mô bổn sư thích ca Mâu Ni Phật
Nam Mô a Di đà Phật .
Nam Mô đương lai hạ sanh di lặc Tôn Phật .
Nam Mô Quang Thế Âm Bồ Tát .

Cầu An

Nguyện cầu hồng ân tam bảo . Thế giới Hoà Bình an lạc thịch vượng và Gia Hộ toàn thể thân bằng quyến thuộc Nội Ngoại, Ông Bà Cha Mẹ, Cô Chú Dì Dượng, Anh Chị Em con cháu Thân Tầm thường an lạc, Bồ đề tâm tân trưởng, Tu hành kinh tiến .

Cầu Siêu

Cầu nguyện Hồi hướng công đức đến bảy đời phụ mẫu và tất cả Chư Vong Linh đồng bào tử nạn khắp cõi hoàn cầu được siêu sanh tịnh độ .

Nam Mô đại nguyện địa Tạn Vương bồ tát Ma Ha Tát .

CÁC NGÀY KỶ NIỆM
(Tính theo Âm-lịch)

THÁNG GIÊNG

Ngày 1.- Vía đức Di-Lặc .
22.- Tổ Thập -Tháp (Phước -Huệ,chứng -minh Đạo sư Hội
Phật -giáo Trung-Phần) viên tích .
23.- Tổ Khánh -Anh (Thượng -thủ Giáo -hội Tăng-Già toàn
quốc V.N. niên khóa II . Pháp -chủ Gióa -hội Tăng -già
V.N. niên khóa II) viên tịch 30.

THÁNG HAI :

Ngày 8.- Vía Phật Thích -Ca xuất -gia .
15.- Vía Phật Thích -Ca nhập - diệt .
19.- Vía Phật Quán -Thế -Âm Bồ -Tát .
20.- Vía Đức Phổ -Hiền Bồ -Tát .

THÁNG BA :
Ngày 16.- Vía Đức Chuẩn -Đề Bồ -Tát .

THÁNG TƯ :

Ngày 3.- Tổ Tuệ -Tạng (Thượng -thủ Giáo -hội Tâng già toàn
quốc V.N. niên khóa I) viên tịch .
04.- Vía Đức Vân -Thù Bồ Tát .
15.- Vía Phật Thích -Ca Giáng -sanh .
20.- Bồ Tát Thích Quảng -Đức vị pháp thiêu thân
(nhằm 11-6-1963). 20.-

THÁNG SÁU :

Ngày 15.- Đại -Thích -Nguyên-Hương vị pháp thiêu thân
(nhằm 4-8-1963).
19.- Vía Đức Quán -Thế -Âm Bồ -Tát .
19.- Tổ Khánh -Hòa (Sơ-tổ Phong-trào Chấn -hưng
Phật giáo miền Nam) viên tịch .
24.- Đại -đức Thích -Thanh-Tuệ vị pháp thiêu thân
(nhằm 15-8-1963).
26.- Thích -nử Diệu -Quang vị pháp thiêu thân
(nhằm 15-8-1963).
27.- Đại -đức Thích -Tiêu -Diêu vị pháp thiêu thân
(nhằm 16-8-1963).

THÁNG BẢY :

Ngày 13.- Vía Đức Đại -Thế -Chí Bồ -tát .
15.- Lễ Vu -Lan Bồn .

30.- Vía Đức Địa -Tạng Bồ -tát .

THÁNG CHÍN :
Ngày 02.- Đại đức Thích -Quãng -Hương vị pháp thiêu thân
(nhằm 5-10-1963).
11.- Đại đức Thích -Thiện -Mỹ vị pháp thiêu thân
(nhằm ngày 27-10-1963).
19.- Vía Đức Quán -Thế -Âm Bồ -tát .
30.- Vía Phật Dược -Sư .

THÁNG MƯỜI MỘT :

Ngày 01.- Tổ Huệ -Quang (pháp chủ G.H.T.G.N.V. niên khóa I)
viên tịch .
07.- Vía Phật -A-Di-Đà .

THÁNG CHẠP :

Ngày 08.- Vía Phật Thích -Ca thành đạo .
08.- Tổ Vĩnh -Nghiêm (Thiên-gia Pháp -chủ Giáo hội Tăng -
già BV) viên tịch .

NHỮNG NGÀY TRAI

Thập trai : Mổi tháng mười ngày :
Mồng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 .
(nếu tháng thiếu thì kể cả ngày 27).
Lục trai : Mổi tháng sáu ngày :
Mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30 .

Tứ trai : Mỗi tháng bốn ngày :

Mồng 1, 14, 15, 30 .

Nhị trai : Mỗi tháng hai ngày :
Mồng 1, 15 .

Tam ngoạt trai : Một năm ba tháng :
Tháng giêng, tháng bảy, tháng mười .

*** Những ngày trai không nên dùng các món
gia-vị như : hành, hẹ, nên, tỏi, tổi tây v.v...

*** Người tu hành ăn các món này thì tụng kinh
trì chú không linh nghiệm và khiêu gợi dục tình,
sanh thêm các tánh hung dữ .



Đại Bi Chú
 
FORUM » TRUYỆN HUYỀN HỌC » TRUYỆN TÔN GIÁO » Hồi - Dương Nhơn Quả và Ngọc Lịch Minh Kinh (Của Giang-Triều - Viễn)
  • Page 1 of 1
  • 1
Search:


TỰ-ĐIỂN TRỰC-TUYẾN :

Từ Điển Online
Bấm vào dấu V để chọn loại Tự-Điển
Gõ Chữ muốn tìm vào khung trắng dưới đây:
Xong bấm GO