Thứ Năm
28 Mar 2024
3:38 AM
ĐĂNG NHẬP


Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

[ BÀI VIẾT MỚI · Forum rules · TÌM KIẾM · RSS ]
  • Page 1 of 1
  • 1
FORUM » TRANG PHẬT GIÁO » PHẬT-SỰ MUÔN NƠI » CƯ SĨ QUẢ KHANH (Tác giả bộ sách "Báo Ứng Hiện Đời")
CƯ SĨ QUẢ KHANH
saigoneses Date: Thứ Bảy, 23 Dec 2017, 8:02 AM | Message # 1
Lieutenant general
Group: Administrators
Messages: 505
Status: Tạm vắng


HỒI ỨC VỀ BUỔI ĐẦU GẶP HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA

(Cư Sĩ Quả Khanh)


Trước đây tôi tự nghiên cứu Phật pháp bằng cách xem sách HT Tuyên Hóa giảng và đọc kỹ “Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối” trong Kinh Lăng Nghiêm.

Tu hành chính là nương tựa vào chính mình. Trên con đường đạo, bạn muốn tìm một người dẫn đường, thì phải tìm người sáng đạo. HT Tuyên Hóa giảng “Kinh Lăng Nghiêm Thiển Thích” rất hay, bạn hãy tìm đọc. Hiện nay có nhiều người giảng Kinh Lăng Nghiêm, nhưng tôi xem thấy đa phần giảng không chuẩn, bởi bản thân họ không tu tốt, do họ còn ăn thịt, hút thuốc, uống rượu... Vì tu không viên mãn, cho nên không thể giảng viên mãn, chỉ có người tu hành rốt ráo mới giảng viên mãn.

Vì sao tôi khuyên các bạn nên xem HT.Tuyên Hóa giảng Pháp? Vì tôi tu không viên mãn, nên tôi không thể giảng viên mãn. Các bộ Kinh Phật HT.Tuyên Hóa giảng, bạn đọc xem thì có thể hiểu được.

Nếu bạn chưa rành về đạo pháp, thì rất cần xem những Kinh sách HT.Tuyên Hóa giảng... Người mới quy y cửa Phật, chưa biết tu hành thế nào, thì cứ y theo “Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối” mà tu tập hành trì, đó là quang minh đại đạo. Nếu tu hành đúng đắn, rất nhanh chứng đắc, không nhất tu cả đời mới chứng đắc, nhất là hiện nay.

Hồi chưa tu Phật, tôi thích ăn thịt thà, nhưng khi xem đến sách HT.Tuyên Hóa giảng, mới biết là không nên ăn thịt, nên tôi không ăn nữa. Mỗi đêm, tôi tu tĩnh tọa và hướng dẫn cả nhà tĩnh tọa khoảng một tiếng. Mọi người tĩnh tọa xong thì đi ngủ. Phần tôi thì nán lại đọc Kinh thư một chút.

Đêm đó, tôi đang đọc cuốn sách HT.Tuyên Hóa giảng “Kinh Kim Cang Thiển Thích”, thì bỗng chuông điện thoại reo vang, lúc đó là 0 giờ 10 phút, ngày 8/12/1993, khi đó tôi đang công tác tại Tân Cương.

Nghe chuông, tôi nghĩ: “Chắc là cấp trên gọi điện tới giao công tác cho mình đây!”, nên vội lấy thẻ làm dấu cuốn “Kinh Kim Cang Thiển Thích” rồi mới bắt điện thoại. Trong điện thoại là một cô tiếp tuyến viên chuyển làn điện thoại

Tôi nói:

- “Alô!”

Đầu dây bên kia im lặng một hồi, sau đó vang lên giọng nói của một người lớn tuổi:

-“Alô, có phải Dương tiên sinh không ạ?” (Lúc đó chưa có ai gọi tôi như vậy)

Tôi hỏi:

-“Thưa, là ai đó ạ?”

-“Tôi là Tuyên Hóa, ở Vạn Phật Thánh Thành ở Mỹ quốc...”

Chao ôi, tôi vừa nghe tên người gọi là lập tức đầu óc thức tỉnh liền. Vì sao ư? Vì khi bắt đầu nghiên cứu Kinh Phật thì tôi đã chọn xem sách của HT. Tuyên Hóa, cả nhà tôi đều đọc và trân quý sách của ngài, đều xúc động do thấy ngài giảng quá hay, quá tuyệt vời, nên thường tự hỏi thầm: “Ngài là bậc tái lai nào đây?”. Khi tôi vừa nghĩ thế, thì trong óc liền xuất hiện một vị mặc y phục trắng - chính là Bồ-tát Quán Thế Âm (do vậy tôi biết rằng Ngài chính là thị hiện của Bồ-tát Quán Thế Âm).

Giờ đây trong điện thoại lại vang lên: “Tôi là Tuyên Hóa...” thì hóa ra hóa thân Bồ-tát Quán Thế Âm đang gọi điện cho tôi rồi nên tôi vô cùng phấn khích

Tôi buột miệng nói:

-“Chào Sư phụ, ngài khỏe không ạ?”

Tôi vừa nói xong thì liền nghĩ: “Mình chưa lễ bái làm đệ tử của ngài, sao đã vội gọi là Sư phụ? Phải gọi ngài là Pháp sư mới đúng (HT. Tuyên Hóa giảng trong sách biết bao lần: Hễ gặp người xuất gia thì nên gọi Pháp sư) vì vậy tôi vội chữa lại như thế này:

-“Con kính chào Pháp sư!

-“Ông đang làm gì vậy?”

-“Con đang xem cuốn “Kinh Kim Cang Thiển Thích” của ngài giảng”

-“Ông đã xem qua các sách nào rồi?”

-“Dạ, con đã xem “Kinh Lăng Nghiêm Thiển Thích, Kinh Dược Sư Thiển Thích, Kinh Địa Tạng Thiển Thích, Lục Tổ Đàn Kinh Thiển Thích”...

-“Tôi giảng không có vấn đề gì chứ?”

-“Dạ tuyệt vời lắm Sư phụ! Ngài giảng hay quá. Nhờ xem ngài giảng mà con sáng tỏ thêm rất nhiều!”

-“Tốt lắm! Xem, đọc Kinh điển nhiều thì sẽ tăng trí huệ mà... À, tôi xin mời ông qua Mỹ một chuyến...”

-“Sư phụ, đợi lúc con có đủ điều kiện, con nhất định sẽ qua bái kiến ngài.”

Tuy nói vậy, nhưng trong lòng tôi nghĩ: “E rằng cả đời này mình khó thực hiện được...”, vỉ sao ư? Vì đi Mỹ tốn rất nhiều tiền, mà lúc ấy trong tay tôi đâu có tiền nhiều? Nhà tôi chỉ có 3 vạn đồng, vào thời đó trong nước tôi những gia đình có được 1 vạn đồng cũng là rất hiếm. Thế thì làm sao tôi có đủ tiền mà đi? Dù lương tháng của tôi cũng thuộc loại cao, nhưng tôi rất tiết kiệm, nhín nhút lắm mới để dành được 3 vạn, phần đó tôi để dành để chi cho con tôi là Quả Đạt sau này. Vì vậy, hiện tại nếu đi Mỹ, tôi không biết kiếm tiền ở đâu để mua vé máy bay? Mà cho dù đến Mỹ rồi thì cũng còn phải lo chi phí ăn ở và phải có tiền để cúng dường Sư phụ nữa... Thế nên tôi nghĩ: Cả đời này e rằng mình khó mà qua Mỹ gặp ngài...

Đang nghĩ ngợi như thế thì bên kia điện thoại nói:

-“Ông hãy sắp xếp qua Mỹ một chuyến nha, tất cả chi phí đều do tôi lo liệu !”

-“Chà, Sư phụ! sao có thể như thế được? Không phải ngài đã giảng trong Kinh sách: Người tại gia nên cúng dường người xuất gia ? Làm sao con có thể để ngài chịu tiền vé được kia chứ ?”

-“Tiền là ở nơi đại chúng, dùng cho đại chúng thì có gì là không thể? Mà Tiểu Vân khỏe chứ ?”

Nghe ngài hỏi về Tiểu Vân, tôi kinh ngạc mà giật hết cả mình, làm sao ngài biết tới tên gọi ở nhà của con gái tôi là Tiểu Vân mà còn biết rành số điện thoại của chúng tôi? Con gái tôi tên Dương Vân, nhưng ở nhà chúng tôi thường kêu nó là Tiểu Vân.

Chẳng đợi tôi nói câu nào, con gái tôi đang ngủ trong phòng, do bị cuộc trò chuyện của tôi làm cho nó thức giấc, nó bước ra ngoài đứng cạnh tôi, phụ tiếp điện thoại và nói:

-“Chào Sư phụ!”

-“Chào Tiểu vân, con biết tiếng Anh chứ?”

-“Dạ có ạ!”

Tôi ngồi trên ghế, cảm thấy xúc động nhưng cũng thắc mắc vô cùng: Vì sao Sư phụ biết chúng tôi mà liên lạc?

Sư phụ nói chuyện với con gái tôi xong thì bảo tôi:

-“Dương tiên sinh, sau này tôi sẽ gọi cho ông thường, chẳng biết ông có vui lòng tiếp hay không?

Tôi vội thưa:

-“Con rất vinh hạnh, thưa Sư phụ. Mà sao ngài có thể biết số điện thoại của con?”

-“Chà, số điện thoại của ông chẳng phải là để cho người ta gọi hay sao?”

Tôi không còn lời gì để nói nữa.

Từ hôm đó trở đi, mỗi ngày Sư phụ gọi cho chúng tôi ít nhất một lần, nhiều thì bốn lần, bao gồm cả nhờ... khám bệnh. Ngài bảo chúng tôi xem các đệ tử ngài, kể cả chúng đệ tử Mỹ quốc, thực ra có bệnh gì? là do nguyên nhân vì đâu? Đa số tôi đều giao cho Tiểu Vân, pháp danh của nó là Quả Lâm xem.

Trước đây có một cô gái ở nước ngoài, tìm chúng tôi khám bệnh, con tôi nói:

-“Cô không cần kể tình huống với chúng tôi. Cô cũng đừng sợ khi thấy chúng tôi biết hết những việc xấu cô đã làm. Có thể điều này khiến cô khó kham, nhưng việc phát tâm chân thành ăn năn sám hối sẽ giúp cô tiêu được tội nghiệp”

Quả Lâm giải thích cho cô ta hiểu bệnh cô phát là do nguyên nhân nào mà tạo thành. Cô ta hỏi làm sao Tiểu Vân biết được?

Nó đáp:

MUỔN NGƯỜI ĐỪNG BIẾT, TRỪ PHI MÌNH ĐỪNG NGHĨ, chứ không phải chỉ là TRỪ PHI MÌNH ĐỪNG LÀM

Bạn chỉ cần nghĩ thôi, là có người biết rồi! Tất cả việc chúng ta làm đều có: Người biết, Quỷ biết, Thần biết, Chư Phật, Bồ-tát biết ! Cho nên nếu chúng ta làm điều gì sai quấy hoặc sát sinh, làm những việc xấu đến khó thể mở miệng khai ra... thì sau khi minh bạch lý này rồi thì bạn hãy mau quỳ trước bàn thờ Phật nhà mình mà sám hối ngay đi. Sám hối từ rày: Thề không phạm lại nữa, được vậy thì tội nghiệp này liền tiêu. Nếu như không sám hối, nghiệp ác kia vĩnh viễn đeo theo, sẽ đến lúc gieo thống khổ cho bạn!

HT.Tuyên Hóa bảo tôi dẫn đến... 20 người đi Mỹ, đó là những người trong nhóm tu tập Phật pháp với tôi. Họ không phải là những người học Phật bình thường, mà đã hoàn toàn khai mở trí huệ. Sư phụ sẽ lo tiền cho chúng tôi qua để giúp Sư phụ, chứ không phải để du ngoạn, tính luôn cả bốn người nhà tôi.

Nhưng khi nộp đơn xin cấp thị thực thì kết quả chỉ có 1 mình tôi được phê duyệt!

Nhân viên Sứ quán Mỹ hỏi:

-“Một mình ông đi thăm Sư phụ là được rồi, mấy người kia đi theo làm gì ?”

Tôi rất giận vì họ cũng không cho cả người nhà tôi đi, còn nói là: “Nếu cả nhà ông đi qua Mỹ rồi ở bển luôn không chịu về thì sao ?”

Tôi trả lời:

-“Tôi qua Mỹ thăm Sư phụ rồi sẽ về!”

Thật tình, trong lòng tôi nghĩ: “Nếu không phải là đi gặp Sư phụ, thì cho dù Tổng thống Mỹ có mời, tôi cũng không đi”...

Khi qua đến Mỹ rồi, Quận trưởng Calitornia mời tôi đến chỗ ông dự tiệc... Sư phụ đồng ý cho tôi đi để biết các mặt của xã hội, nhưng tôi nói:

-“Sư phụ, con đến Mỹ có mục đích chỉ là để gặp ngài, đừng nói là Quận Trưởng mời, mà cho dù là ông Clinton đến mời, con cũng không đi !”

Thật vậy, khi đã thấm nhuần Phật pháp rồi thì đối với vạn sự thế thái đều thấy lãnh đạm.

Khi tôi đến nơi, ban tiếp tân dẫn tôi đi gặp Sư phụ ở tại lầu dịch Kinh.

Lúc này ngài đang ở tầng 3, nhưng đã vội xuống lầu, đứng đợi chúng tôi. Tôi lúc đó trong lòng rất bình tĩnh, không hề căng thẳng, dù xưa nay chưa hề gặp và nói chuyện trực diện với ngài.

Gặp Sư phụ, tôi quỳ xuống, khấu đầu ba lạy. Lúc đó, đứng xung quanh ngài là 5 vị Tỳ-kheo người Mỹ.

Chúng tôi vào thang máy để lên lầu, Sư phụ để tôi vào trước, tôi không khách khí, đi vào vì tôi biết ngài đã từng phát nguyện: Không đi trước người, nhất định đi sau người !

Tới nơi rồi, Sư phụ bảo thị giả:

-”Đem hành lý Dương cư sĩ đến gian phòng bên cạnh ta”

Đó là một thư phòng, tôi ngụ tại đây.

Tiếp đến, tôi qua phòng Sư phụ, ngài ngồi xếp bằng trên giường, tôi ngồi nơi băng ghế dài đối diện.

Bởi vì đây là lần đầu tôi đến Mỹ giao tiếp với ngài, hơn nữa tôi thầm cho ngài là Bồ-tát Quán Thế Âm, nên tâm tư rất xúc động.

Tôi ngồi đấy, ngài hỏi gì thì tôi đáp đó. Toàn là hỏi thăm chuyện quê nhà: hỏi tôi ở Thiên Tân thuộc vùng nào, địa phương nào. Tôi trả lời mà có cảm giác như đang trò chuyện cùng bậc cha mẹ hay với người rất thân thiết.

Được một lát, thị giả đến thưa:

-“Sư phụ, cho Dương cư sĩ đi dùng cơm”

-“Thôi, ông đi ăn cơm nhé”

-“Sư phụ, mời ngài cùng ăn”

-“Chúng tôi mỗi ngày chỉ ăn một bữa, ông hãy ăn một mình nhé”

Ăn xong, tôi ngồi nói chuyện với Sư phụ một chút.

Trời tối, Sư phụ bảo:

-“Bây giờ đi gặp bọn họ được rồi”

Tôi chẳng biết là gặp ai? Bởi lúc đến, tôi thấy chỉ có 5 thầy Tỳ kheo đang đứng, không thấy ai khác nên tôi nghĩ chắc là đi gặp mấy người này.

Tôi nói:

-“Dạ được”

Khi cửa thang máy mở ra, âm thanh mấy trăm vị đang niệm Phật vọng vào tai tôi. Lúc ở trong thang máy tôi không nghe thấy, vì cửa thang máy kín mít, nên không nghe thấy gì.

Tôi thầm nghĩ: “Ôi chao, phải gặp đông người như thế hay sao?” Thầm cảm thấy quá ngại.

Sư phụ dẫn tôi tiến vào Hội đường. Khi chúng tôi vào, mọi người đều đứng lên. Toàn bộ đối diện nhau, ở giữa có lối đi, phía trước là đài chủ tọa. chúng tôi đi từ hậu diện tiến ra trước.

Sư phụ vừa vào, tất cả biến thành âm thanh Phật hiệu. Tôi thấy trong đây phía bên hữu là Tỳ kheo ni đứng trước, mặc toàn hoàng y, rất đông. Ước chừng có 450 vị, phía sau toàn là nữ cư sĩ mặc áo tràng, đều là thành phần trí thức

(Trung quốc vào thời điểm 1993 các nữ cư sĩ Phật giáo đa số đều là thành phần ít học, còn người trí thức đâu ai mà chịu học Phật? Không giống như hiện thời: Nhiều lãnh đạo, cán bộ và các bác sĩ, tiến sĩ, thạc sĩ đều học Phật, nhiều giáo sư và sinh viên thuộc các đại học Thanh Hoa, Nam Khai, Thượng Hải, Phúc Đán... đều học Phật rất đông)

Phía bên tả tôi: Đứng trước là chúng Tỳ-kheo, phía sau là các nam cư sĩ.

Sư phụ đi thẳng lên trước, tôi nối gót theo sau, hội trường không khí khiến tôi xúc động...

Tôi thuở giờ ít đi tới chùa nên cái gì cũng đều không biết, không rành. Tôi học Phật chính là tự mình ở nhà xem và nghiên cứu kinh Phật, đọc sách HT.Tuyên Hóa giảng. Hôm nay lần đầu đến đây, tôi không nghĩ là bị bắt lên đài, chắc sẽ được ngồi phía dưới.

Ai ngờ Sư phụ bảo

-“Đi nào”

Tôi đành phải bước theo.

Sư phụ bảo:

-“Lễ bái nào”

Trên nền gạch không có thảm, Sư phụ khấu đầu xong thì tôi cũng lạy xong

Sư phụ nói:

-“Thượng đài!”

Lúc này tim tôi đập thình thịch, không còn cách nào khác, chỉ biết lên đài. Trên đài có mấy vị, phía bên này là hai Hòa thượng người Mỹ, còn bên kia là một vị làm phiên dịch cho tôi. Trước đây Sư phụ luôn ngồi ở giữa làm chủ tọa, nhưng bây giờ ngài lại ngồi dưới đài, sắp tôi ngồi trên đài, ở giữa. Hai chân tôi bắt đầu run, lần đầu tiên gặp phải cảnh như thế này...

Cư Sĩ Quả Khanh
Trích "Nhân quả phụ giải Lương Hoàng Sám - Tập 2" - Hạnh Đoan biên dịch


Message edited by saigoneses - Thứ Ba, 26 Dec 2017, 7:15 PM
 
saigoneses Date: Thứ Bảy, 23 Dec 2017, 8:07 AM | Message # 2
Lieutenant general
Group: Administrators
Messages: 505
Status: Tạm vắng

HÒA THƯỢNG TUYÊN HÓA GIỚI THIỆU VỀ CƯ SĨ QUẢ KHANH

(Bản ghi chép của Vạn Phật Thánh Thành)




Các vị Thiện tri thức, Chư vị đồng tu!

Mọi người tại Vạn Phật Thánh Thành phải hiểu vì sao mình tới đây. Thế giới này rộng lớn, nhưng vì sao chúng ta lại tụ hội cùng nhau ở đây? Chính là nhờ thiện căn chín muồi, nên nay chúng ta mới được tụ hội bên nhau để cùng chỉnh sửa mài giũa, cùng dũng mãnh tinh tấn tu không thối chuyển... để sau này vĩnh viễn giải hết mọi khổ đau. Tôi lúc nào cũng nhắc: “Chịu khổ là giải khổ, hưởng phúc là tiêu phúc”

Bạn gặp khổ nếu không chịu đón nhận thì khổ sẽ kéo dài mãi. Bạn có phúc thì không nên hưởng tận, như vậy thì phúc sẽ còn hoài.

Tôi thuyết pháp cứ nhắc mãi điều này, vì sợ quý vị quên. Chư vị phải ghi nhớ mấy câu này, thì khổ gì cũng có thể kham được, nhẫn được.

Tiếp theo tôi xin nói về cư sĩ Duy Ma Cật: Khi ông ta bệnh, các bậc A-la-hán chẳng ai dám đến thăm, bởi hỏi han gì đều bị ông quở. Hàng Bồ-tát cũng có nhiều người không dám đi. Cuối cùng chỉ có Bồ-tát Văn Thù đến, cùng ông bàn bí quyết tu, hai bên hỗ tương giải đáp. Ai chưa xem qua Kinh Duy Ma Cật thì hãy nghiên cứu đoạn văn này. Nếu xem rồi, thì nên đào sâu thêm...

Vì sao tôi nhắc đến cư sĩ Duy Ma? Bởi hôm nay, tôi đã mời được Dương cư sĩ từ Thiên Tân qua đây, ông tên Dương Tác Tướng, đã hết lòng nghiên cứu các sách Khai Thị và những bộ Kinh Phật tôi giảng. Không phải ông đã xem hết hoàn toàn, vậy mà: ông có thể thâm nhập kinh tạng và giáo hóa nhiều người thành công, ở Thiên Tân đã có hơn trăm người nhờ sự dẫn dắt của ông mà phát tâm tin Phật.

Tin Phật là chuyện rất bình thường, việc thu phục hơn trăm người đâu phải là chuyện gì to tát đáng nói, bởi chúng ta đi khắp nơi cũng có thể gom được mấy trăm người tin Phật, nhưng xét ra ở Trung Quốc, tuy nói là có tự do tôn giáo, nhưng chẳng tôn giáo nào dám công khai truyền bá... vì vậy mà việc Dương cứ sĩ hóa độ được hơn trăm người vào thập niên 90 lúc đó, có thể nói là một kỳ tích!

Nhóm người học Phật này thường tụ hội tại tư gia, cùng thọ giáo Phật pháp với Dương cư sĩ. Điều đáng nói là, dưới trướng hóa độ của ông đã có hơn hai mươi vị chứng đắc: Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mệnh Thông, Thần Cảnh Thông, nghĩa là họ đắc đủ các loại thần thông. Nhưng bọn họ vốn không phải là người xuất gia mà chỉ là người tại gia thôi, nhờ thành tâm, thành ý nghiên cứu thực hành Phật pháp, mà đắc được công phu kia.

Xin giải thích về ngũ thông:

1. Thiên Nhãn Thông: Người chứng được Thiên Nhãn Thông có thể nhìn thấy khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới rõ ràng như nhìn trong lòng bàn tay. Trong hàng đệ tử của Phật, Tôn Giả A Na Luật là bậc đứng đầu về Thiên Nhãn Thông.

2. Thiên Nhĩ Thông: Chứng được Thiên Nhĩ Thông thì có thể nghe được mọi âm thanh từ cõi nhân gian cho đến tận ba ngàn đại thiên thế giới, luôn cả các âm thanh của cõi trời.

3. Tha Tâm Thông: Đây là khả năng đọc được ý nghĩ của người khác. Tất cả những việc mà quý vị dự tính trong đầu, định sẽ thực hiện, thì cho dù quý vị chưa hề thổ lộ với ai cả, nhưng người đã chứng đắc Tha Tâm Thông vẫn có thể biết rõ.

4. Túc Mạng Thông: Người chứng đắc Túc Mạng Thông có khả năng biết được tất cả những việc - thiện cũng như ác - mà quý vị đã tạo tác trong các đời trước.

5. Thần Cảnh Thông: Cũng gọi là Thần Túc Thông hoặc Như Ỷ Thông. Chữ “Thần” chỉ cho một cảnh giới kỳ diệu không thể nghĩ bàn. Chữ “Cảnh” là chỉ cảnh giới. Còn chữ “Thông” có nghĩa là thông đạt vô ngại, Thí dụ, tuy bức tường chắn ngang gây trở ngại, nhưng nếu quý vị khoét một lỗ hổng thì sẽ được thông. Tương tự như thế, “bức tường” vô minh gây chướng ngại, (làm ngăn che ánh sáng quang minh tự tánh chúng ta), song nếu ta có thể dùng “gươm” trí huệ để phá vỡ bức tường đó, thì sẽ được thông suốt.

Vì vậy, khi nghe ai có trí tuệ, thần thông, bạn đừng vội cho họ là ma! Muốn biết có phải là ma không thì bạn hãy nhìn và quan sát xem: Họ có còn tham tài, tham sắc, tham danh lợi... hay không? Và nhớ lấy đây làm tiêu chuẩn để phân biệt !

Có 7 cách để quý vị nhận ra Tà sư:

1. Thầy cho phép nam nữ phóng túng tư tình tà dục, dùng đây làm mồi nhử để thu hút đồ chúng và gọi đó là phương tiện cứu thế gian.

2. Thầy khoe rằng mình có thể dùng bùa, chú, và thần tài... để giúp đồ chúng giàu có, cố ý khơi gợi lòng tham nơi họ.

3. Thầy khuyến khích giết chúng sinh, ăn thịt chúng sinh, còn tuyên bố rằng mình có thể dùng bùa chú để cứu những vong linh bị ăn kia.

4. Thầy biểu diễn những kiểu tu khổ hạnh kỳ dị, tự làm thương tổn mình để kích động tâm chúng sinh và nói làm vậy để chịu khổ thay cho chúng sinh.

5. Thầy dùng thần thông để thu hút những chúng sinh có lòng hiếu kỳ; xúi họ làm điều trái đạo

6. Thầy tự ý thêm bớt, sửa đổi các quả vị tu trong Phật Giáo, giải lệch lạc ý nghĩa: “Tín, giải, tu, chứng”... và tự phong mình là giáo chủ.

7. Thầy tự lập tông phái, xưng là giáo chủ trong khi bản thân không rành, chẳng có chút căn bản về giáo lý Phật.

Phải biết kẻ hủy diệt Phật pháp chính là đệ tử Phật, kẻ mặc áo ca-sa mà làm không đúng pháp, chứ không phải các giáo phái khác.

Trong Kinh nói rằng: Những biểu hiện suy tàn của thời kỳ Mạt pháp có thể nhận thấy ở khắp nơi.

Việc có người dùng tri kiến sai lệch của minh để phản đối kinh Lăng Nghiêm và tuyên bố rằng: “Kinh Hoa Nghiêm, kinh Viên Giác, kinh Pháp Hoa, kinh Địa Tạng, kinh A Di Đà”... và nhiều bộ kinh khác cũng như “Đại Thừa Khởi Tín Luận” đều là giả mạo... đây chính là hiện tượng của thời kỳ Mạt pháp.

Nếu không còn ai tu hành, không có người nào đọc, tụng và học thuộc kinh Lăng Nghiêm, thì đó là thời kỳ Mạt pháp.

Bởi trong kinh Lăng Nghiêm, có “Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối” (bốn lời dạy về tính thanh tịnh) giảng rõ về tứ trọng giới (Sát, Đạo, Dâm, Vọng) và “Năm mươi loại ma ngũ ấm”, chú giải rõ về Thiên ma, ngoại đạo rất cặn kẽ tỉ mỉ. Cả hai phần này đều nói rất rõ rằng: Khi nào không còn người giữ giới, thì lúc đó là thời Mạt pháp. Giới còn, tức là Phật pháp còn!

Bao năm nay tôi luôn chờ được nhìn cảnh Phật giáo đồ thanh niên làm rạng rỡ cho Phật giáo. Đợi đã lâu rồi. Bây giờ hiện có nhóm người ở Thiên Tân, vốn cùng tôi có duyên sâu, nên tôi muốn mời họ qua Mỹ.

Nhưng “việc tốt luôn gặp lắm dũa mài”... vì lúc đi xin thị thực giấy tờ, bị Đại sứ quán từ chối. Mặc dù gặp trục trặc như thế, tôi vẫn không nản lòng, cứ tiếp tục tìm cách, lo nghĩ cách tiếp... Cuối cùng cũng xin visa được cho 7 người và thỉnh được họ qua đây. Chuẩn bị khai mở “Đại hội Thảo luận Nghiên cứu Tôn giáo”, cùng thực hiện phương kế cứu đời, giúp nước, giúp dân... khiến chúng sinh ly khổ đắc lạc...

Việc này rất quan trọng, mỗi người chúng ta đều phải gánh trọng trách hộ vệ Đạo tràng, không nên thối tâm lười nhác. Quý vị Phải nỗ lực tinh tấn, tu cho thành tựu rồi mới có thể hoằng dương đạo pháp thật tốt.

Như tôi đã nói: Người ta ai cũng có ngũ nhãn. Nếu nghe vậy ắt sẽ có người hỏi: “Vậy sao tôi không có?”...

Không phải bạn chẳng có, mà do bạn không bảo hộ tâm tốt, không tu tốt mà thôi! Ai cũng có đủ ngũ nhãn, nhưng do mỗi người chúng ta chẳng biết tu trì, nên không nhận biết. Do vậy mà: “Người ta hễ tu thì thành Bồ-tát, A-la-hán, còn mình tu thì vẫn cứ là kẻ mắt mù”, vì không thể khai ngũ nhãn: (Nhục nhãn, Pháp nhãn, Huệ nhãn, Phật nhãn)... do không khai mở được nên mới hay nghi ngờ những người có thần thông.

Riêng nhóm người ở Thiên Tân do Quả Khanh hóa độ, có hơn hai mươi người đắc ngũ nhãn, chính nhờ họ quá thành tâm, quá tha thiết hành trì, hết lòng tôn kính Phật. Lúc nào họ cũng lo tu niệm miên mật, nên mới đạt được thành tựu tốt như thế...

Vậy thì dạng người nào mới không thể khai mở? Chính là kẻ không thành tâm, không tu, không tin. Nếu bạn sinh chút tâm nghi, chẳng chịu tu hành, ắt chẳng có kết quả nào!

Tôi hy vọng chư vị đều lập chí phục vụ Phật giáo, làm việc cho Phật giáo, lo độ hóa chúng sinh, khiến hạt giống Phật được lưu truyền rộng khắp...

Dương cư sĩ có khả năng hóa độ rất mạnh. Tôi mong Dương cư sĩ sẽ chia sẻ kinh nghiệm tu quý báu của ông đến mọi người, khiến tất cả tăng thêm tín tâm, quý thọ Phật pháp, tha thiết tu trì, thành tựu tốt...

Trích phần phụ Lục "Nhân quả phụ giải Lương Hoàng Sám - Tập 2" - Hạnh Đoan biên dịch


Message edited by saigoneses - Thứ Ba, 26 Dec 2017, 7:24 PM
 
saigoneses Date: Thứ Bảy, 23 Dec 2017, 8:13 AM | Message # 3
Lieutenant general
Group: Administrators
Messages: 505
Status: Tạm vắng

ẤN TƯỢNG VỀ CƯ SĨ QUẢ KHANH

(Cư sĩ Minh Hoa)


Cư sĩ họ Dương, người Thiên Tân, niên kỷ độ 60 nhưng nhìn trẻ như 50. Thân cao vừa tầm, mắt sáng như sao, dung mạo nho nhã, mặt đầy hồng quang, bước uy nghi như rồng như hổ (long hành hổ bộ), trông khỏe mạnh quắc thước, nhìn rất oai phong.

Ông viết bộ sách Báo ứng hiện đời lưu truyền khắp nơi, gây ảnh hưởng cực lớn, hóa độ chúng sinh ly khổ đắc lạc rất thần kỳ; khiến vô số người đến với đạo Phật, pháp hỷ sung mãn, ông là nhân vật rất nổi tiếng trong giới Phật giáo.

Cư sĩ đặc biệt ưa trì tụng chú Lăng Nghiêm, cực lực đề xướng giữ giới sát, nên phóng sinh, ăn chay, niệm Phật, tụng Kinh Địa Tạng...

8 giờ ngày 12 tháng 9, Quả Khanh khai giảng khóa Phật pháp tại Hoa Nghiêm Tự, đến 11 giờ trưa thì buổi giảng kết thúc, là bắt đầu Lễ Phóng Sinh. Quả Khanh cùng sư Thường Tịnh (Trụ trì chùa) hướng dẫn gần 500 người tại đạo tràng thực hành Nghi Thức Phóng Sinh, qui y cho loài vật. Lần phóng sinh này có 350 con chim, gồm: Chim ngói, chim khách, chim đầu bạc, chim sẻ, chim ưng, cò trắng... và 2 con cầy hương, một con chồn chó, một con nhím. Riêng con chồn chó chân trước bị thợ săn làm gãy, nhìn rất đáng thương: Chỉ có lớp da dính liền, máu thịt lẫn lộn, lòi xương trắng hếu ra ngoài, các tu sĩ xức thuốc băng bó cho nó.

Nghi thức kết thúc, lồng được mở ra: Hằng trăm con chim tranh nhau vỗ cánh bay lên trời cao, trông thập phần đẹp mắt. Người chứng kiến lòng đầy hoan hỉ. Quả Khanh bồng từng con chim lên, đích thân gia trì rồi mới thả. Hơn nửa số chim không bay đi mà còn lưu lại, đậu trên các cây đại thọ của chùa, mắt nhìn mọi người chăm chăm, như bày tỏ lòng tri ân.

Ngay lúc đó, trên không chùa Hoa Nghiêm vầng dương chiếu chói lọi, mây lành đóa đóa, bầu trời bỗng chuyển sắc óng ánh, trong suốt xinh đẹp, như đòng chia nỗi vui.

Buổi chiều, trên tòa giảng, Quả Khanh nhắc đến việc phóng sinh hồi sáng, ông nói: Tu hành chính là “làm ngược lại”. Vì trong xã hội hiện nay người ta đa số tham đắm vị ngon, sát sinh ăn thịt, riêng người tu hành cần phát tâm từ bi, mua vật phóng sinh...

Mặc dù cùng cư sĩ Quả Khanh ở chung chỉ có một ngày, nhưng phong thái và ngôn hạnh của ông khiến tôi kính phục sâu sắc, có ấn tượng rất khó quên. Đức hạnh của ông khiến người chứng kiến phải phát sinh lòng ngưỡng mộ tán thán.

Có thể nói ông là người như thế này:

1. Ngôn hành tương ưng, Cẩn ngôn khiêm tốn

Ngày đầu tiên vừa lên pháp tòa để giảng, Quả Khanh như sực nhớ ra bèn nói:

-“Xin Sư Trụ trì cung nghinh tiểu tượng Phật đến đặt ở trên bàn trước mặt tôi"

Ông giải thích khi mình thuyết pháp sẽ không tránh được cảnh chư cư sĩ đến nghe pháp cung kính hành lễ, mà ông chỉ là phàm phu nên không dám lãnh nhận... Phải đặt tượng Phật nhỏ trước ông, để lỡ có người lễ bái sẽ thành là lễ Phật, Bồ-tát... như vậy ông mới an tâm thuyết giảng.

Ngoài thời gian giảng và nghỉ ngơi ra, rất nhiều cư sĩ cung kính gọi ông là Sư phụ, nhưng ông luôn bảo: Kêu “Dương lão sư” được rồi. Đối với chư cư sĩ thái độ ông cực kỳ khiêm cung, luôn dịu dàng thăm hỏi. Lời thốt ra êm ái, từ hòa và nhẹ nhàng như gió xuân, ông giảng pháp suốt 3 ngày, mỗi ngày 8 tiếng, chia làm hai buổi. Xuống tòa rồi còn phải tiếp khách, nhưng trước sau ông không lộ vẻ mệt mỏi chán ngán, không có chút khinh mạn.

2. Trực tâm, trực ngôn, tuyệt không giả dối

Tuy nhiên, đối với những người tu hành (xuất gia hay tại gia) mà còn tính cách bất lương, hành không đúng pháp Phật, thì ông chẳng mảy may khách sáo, nghiêm khắc phê bình, góp ý nói thẳng.

Cũng có khi ông đến giảng ở chùa khác, do trực ngôn nói thẳng, mà chạm đến khuyết điểm và thói tật của một số người, nên đã có một tu sĩ nổi giận xung đột với Quả Khanh ngay tại Giảng đường, nhưng ông vẫn đúng lý tranh biện, chưa từng khuất phục, nhất quyết không tán thành bất kỳ điều sai trái nào.

Vì vậy mà có một số ít người tu không đúng pháp đã liên kết, gây loạn làm ầm, lên tiếng mạ lỵ phỉ báng Quả Khanh nhưng đa số các đạo tràng và đại chúng chánh tín thanh tu thì hết lòng ủng hộ tôn kính ông. Bởi vì người tuyên dương chính pháp, vĩnh viễn luôn có Bồ-tát gia trì; Long Thần Hộ pháp hộ vệ.

3. Giảng pháp tuyệt hay, lực nhiếp thọ dũng mãnh

Ông luôn nhấn mạnh: Nhất định phải hành đúng theo kinh điển của Phật Thích Ca giảng, vì: “Ly kinh một chữ, tất đồng ma thuyết”, ông cực lực tán dương kinh Lăng Nghiêm, xác nhận rằng: “Kinh Lăng Nghiêm còn, là chánh pháp còn”. Và “Tứ chủng thanh tịnh minh hối” trong kinh Lăng Nghiêm chính là kính chiếu yêu. Ai không chân chánh tu hành,, chỉ cần đối chiếu với “Tứ chủng thanh tịnh minh hối” là rõ ngay.

Trong quá trình giảng kinh, ông không ngừng kể những câu chuyện có thực hiện đại để chứng minh, do ông đích thân chứng kiến hoặc trải qua nên rất có sức thuyết phục. Khiến người nghe tin tưởng, kính vâng. Khóa giảng luôn nhận được những tràng pháo tay vang dội không ngớt, nhiều người nghe xong rất cảm kích xúc động, thậm chí rơi lệ, khóc thống thiết. Quyết tâm sám hối hướng thiện, có thể nói người nghe ông giảng Phật pháp được thọ ích rất nhiều.

4. Trong sạch, liêm khiết chẳng tham tiền tài

Lương hưu của ông mỗi tháng chỉ có 1,900 đồng. Nhưng khi được mời đến Hoa Nghiêm Tự giảng, ông không hề dùng một xu của chùa làm phí đi lại.

Trong thời gian giảng, nhiều người tranh nhau xin cúng dường trai phạn, hoặc đề nghị cung cấp cho ông chỗ ở tiện nghi nhưng ông luôn từ chối, quyết định ăn ngủ chỉ ở trong chùa, thọ sự đãi ngộ cùng chư Tăng, chẳng thu nhận một xu cúng dường.

Lúc ông rời chùa, Trụ trì Thường Tịnh cảm thấy quá áy náy nên năn nỉ ông hãy nhận 3,000 đồng để làm chi phí đi lại nhưng ông nghiêm khắc cự tuyệt. Lúc ra phi trường, có ai mua đặc sản địa phương biếu cho, thì ông cũng trả lui hết, chẳng chịu mang gì về. Trước khi rời Hoa Nghiêm Tự, ông còn kiên trì bỏ vào thùng công đức tự viện 400 đồng (tiền cơm).

Suốt thời gian giảng pháp, ông luôn nhắc mãi câu:

“Tôi không hề gạt các vị, vì tôi chẳng tham tài. Nếu những gì tôi thuyết giảng có chút hư ngụy, tôi nguyện xuống địa ngục”

Lúc đó, tôi cảm thấy ông nói vậy có vẻ nghiêm trọng hóa vấn đề, nhưng đến bây giờ thì tôi hoàn toàn tin phục, rất muốn được lễ bái ông. vì đã nhận ra: Đây là bậc đức cao vọng trọng. Nhiều người xem qua sách ông viết, đối với thần thông thị hiện của ông, đều rất tò mò, đa số đều hỏi ông về tiền thế, hậu thế của mình, thắc mắc tùm lum, chỉ chờ dịp hội kiến ông là để bùng ra hỏi...

Tôi cũng không ngoại lệ, sớm đã chuẩn bị ba câu, nhưng khi gặp mặt ông rồi, lại bị đức hạnh ông chiết phục, làm cho quên hết ráo!.

Thực ra, khi ông giảng tại tòa, thuyết theo Kinh Phật rất minh bạch rõ ràng: Ai cũng đều có thói tật và bệnh hoạn... Nhưng nếu như bạn có thể thọ giáo, tiếp nhận những gì ông thuyết giảng, lập tức phát thệ giữ giới sửa lỗi, nhất tâm hướng thiện... thì các vấn đề bệnh tật, thống khổ, bất hạnh, chướng ngại vv... của bạn đều sẽ nhờ sự cải thiện triệt để mà tiêu tan. Nếu bạn vẫn lỳ ra như cũ, không biết hối cải, cứ tạo đủ nghiệp ác, biếng lười giải đãi... thì cho dù là Phật, Bồ-tát có hiện ra trước mặt cũng vô phương cứu bạn.

Ông còn kể một câu chuyện thực khiến tôi rất chấn động.

Một tuần trước tại Thượng Hải, có bà mẹ dẫn đứa con gái độc nhất của mình đến tìm ông. Con bà tuy mới hơn hai mươi nhưng đã mắc hai chứng bệnh nan y: Toàn thân nổi mụn bọc mẩn đỏ và bị nhiễm trùng đường tiểu rất nặng. Bệnh viện vô phương chữa trị, tinh thần cô rất chán nản, chỉ có về nhà chờ chết. Bà van cầu ông cứu mạng con bà.

Quả Khanh im lặng quan sát một hồi thì hiểu ra nguyên nhân. Thế là ông không chút vị tình, nói thẳng với con gái bà, chỉ ra 3 lỗi nghiêm trọng cô đã phạm phải:

1. Bất hiếu phụ mẫu: Cô gái thường cự cãi với cha mẹ, thường vì chút chuyện nhỏ mà gây ầm náo không thôi, khiến cha mẹ vì cô phải tổn thương tâm thần, khổ sở bất an.

2. Phóng túng tà dâm: Ngay từ hồi Tiểu học cồ đã nhiễm tập thủ dâm, đến bây giờ vẫn chưa từ bỏ. Lên Sơ trung thì quan hệ nam nữ lăng nhăng với nhiều người, tham dục túng tình, sống buông thả, không biết tự khống chế. Đây là nguyên nhân khiến cô bị chứng nhiễm trùng đường tiểu nan y.

3. Dễ sân giận nóng nảy: Do từ nhỏ quen được nuông chiều, nên cô có tính ích kỷ nóng nảy, hễ không vừa lòng là thịnh nộ bộc phát, chẳng vị tình ai. sống chỉ nghĩ cho mình, không biết lo cho ai, làm tổn thương đến nhiều người xung quanh, đánh mất hòa khí...

Cô gái nghe ông nói xong tỏa thái độ không phục, chỉ thừa nhận lỗi thứ 1 và thứ 3, còn đối với lỗi thứ 2 thì cương quyết không thừa nhận. Cô nói minh tuy có nhiều khuyết điểm, nhưng từ nhỏ trong quan hệ nam nữ luôn sống rất có tác phong và hết sức thận trọng, tuyệt đối không hề có những tình huống như lời cư sĩ nói, cô có thể bảo chứng, cam đoan!

Quả Khanh bảo:

-“Chỉ có sự chân thành phát lộ ăn năn sám hối, quyết tâm hướng thiện sửa sai mới cứu được mạng cô. Nếu cô nhất quyết minh không có lỗi, thỉ cô cứ tha hồ phản bác... nhưng hãy về và đợi phút ra đi...”

Lúc này cô gái quỵ xuống, nghẹn ngào khóc lóc, không ngừng bái lạy, vừa rơi lệ đầm đìa, vừa phát lộ sám hối, cung khai ra hết những lỗi từ nhỏ đến giờ, xác nhận là mình đã có phạm qua như cư sĩ nói.

Mẹ cô lúc này mới tâm phục khẩu phục, lập tức quỳ trước tượng Phật trong sảnh phòng, thành tâm sám hối phụ cho con. Lúc này cô cũng quỳ trước mặt mẹ, thành tâm bái lạy xin mẹ tha thứ trước đây mình bất hiếu ngỗ nghịch...

Mẹ cô cảm thấy được an ủi vô cùng và hết sức tri ân Phật, bà ôm chầm lấy con, cả hai cùng khóc thống thiết.

Cô gái sám hối triệt để, hoàn toàn tiếp thọ lời Quả Khanh khuyên dạy, dũng mãnh phát thệ: Từ đây nguyện hiếu kính song thân, dứt tuyệt tà dâm, sửa tính cáu giận nóng nảy, quyết lòng phục thiện.

Mấy ngày sau, khi cư sĩ Quả Khanh rời Thượng Hải, cô gái tìm tới cung kính tiễn biệt. Trông sắc mặt cô đã hồng hào, tinh thần khang kiện, bệnh tình đã chuyển tốt.

Nếu như thực lòng hối cải, đoạn ác tu thiện, theo thời gian bệnh tật sẽ triệt để hồi phục. Phật là bậc Đại y vương, chúng ta chẳng nên xem thường.

Qua sự kiện này, tôi tự đối chiếu với bản thân mình: Xem ra các lỗi: Bất hiếu, tà dâm, xấu tính, nóng nảy... đều là những “cố tật thâm căn”... mà đa số người thường mắc phải, có khi mức độ ương bướng tệ lậu... còn vượt xa cô gái kia. Vì vậy tôi không cần nêu thắc mắc, hỏi nhiều nữa mà làm chi. Chỉ có chân thành sám hối, nhất tâm tu hành, nguyện dứt ác tu thiện, không tái phạm lỗi nữa, thi tất cả đều hợp đạo...

Trong giảng tòa, cư sĩ Quả Khanh nhiều lần nhắc về ân sư HT.Tuyên Hóa, kể lại những câu chuyện hay, những kỷ niệm trong quãng thời gian cuối được kề cận bên ngài, ông kể mà không cầm được nghẹn ngào, thổn thức.... đủ biết thâm tình tưởng nhớ dành cho Thượng nhân mênh mông vô cùng.

Khi tôi viết đến đây thì cư sĩ đã đi ngoài ngàn dặm, nhưng giọng nói, nụ cười, dung mạo ông... không ngừng hiện ra trước mắt tôi, khiến tôi bùi ngùi, tri ân không cầm được...

Mặc dù được hữu duyên ở bên cư sĩ chỉ có một ngày, nhưng tôi thu hoạch lợi ích rất nhiều, nên cảm thấy rất là trân quý. Thời gian tiếp tục trôi, mọi vô sự vốn vô thường, chẳng biết bao giờ mới được gặp lại ông.

Tôi xin phát thệ: Nguyện cả đời tu hành nghiêm cẩn, giới sát phóng sinh; ăn chay, niệm Phật, làm íợi chúng sinh, hầu có thể báo đáp ân gia trì, đức độ đạy bảo cao tột của Cư sĩ Quả Khanh. Xin thành tâm đảnh lễ Cư sĩ Quả Khanh, cảm ân ngài đã xuất hiện, lưu dấu nơi nhân gian, thị hiện thần lực, vì chúng sinh giải nghi, ly khổ được vui.

Trích phần phụ Lục "Nhân quả phụ giải Lương Hoàng Sám - Tập 2" - Hạnh Đoan biên dịch


Message edited by saigoneses - Thứ Ba, 26 Dec 2017, 7:17 PM
 
atoanmt Date: Thứ Năm, 04 Jan 2018, 8:42 AM | Message # 4
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 5081
Status: Tạm vắng



AToanMT
 
FORUM » TRANG PHẬT GIÁO » PHẬT-SỰ MUÔN NƠI » CƯ SĨ QUẢ KHANH (Tác giả bộ sách "Báo Ứng Hiện Đời")
  • Page 1 of 1
  • 1
Search:


TỰ-ĐIỂN TRỰC-TUYẾN :

Từ Điển Online
Bấm vào dấu V để chọn loại Tự-Điển
Gõ Chữ muốn tìm vào khung trắng dưới đây:
Xong bấm GO