Thứ Ba
07 May 2024
8:38 AM
ĐĂNG NHẬP


Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

[ BÀI VIẾT MỚI · Forum rules · TÌM KIẾM · RSS ]
  • Page 1 of 1
  • 1
FORUM » TRANG PHẬT GIÁO » PHẬT-SỰ MUÔN NƠI » KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO (RFI)
KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO
atoanmt Date: Thứ Tư, 22 Aug 2012, 11:05 AM | Message # 1
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 5081
Status: Tạm vắng
Tương đồng giữa Khoa học và Phật giáo
theo nhà Vật Lý Thiên Văn Trịnh Xuân Thuận



Thượng tuần tháng 06/2012, nhà vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận đã từ Mỹ đến Paris nhận Giải thưởng Prix Mondial Cino Del Duca do giới Hàn lâm Pháp trao tặng. Trước đó, ông đã ghé Làng Mai - miền tây nam nước Pháp - thuyết trình về Khoa học và Phật giáo, đồng thời đối thoại với Thiền sư Nhất Hạnh về cái nhìn của đạo Phật đối với khoa học. Được sự đồng ý của tác giả, RFI xin đăng lại bài tường thuật của nhà nghiên cứu Đỗ Quý Toàn, có mặt tại Làng Mai nhân buổi thuyết trình của giáo sư Trịnh Xuân Thuận.

Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã thuyết trình trong khóa tu tại Làng Mai về Khoa học và Phật giáo vào đầu tháng Sáu năm 2012; và sau đó, với tư cách một nhà khoa học ông đã đặt một số câu hỏi với Thiền sư Nhất Hạnh về cách nhìn của đạo Phật đối với một số vấn đề căn bản trong khoa học hiện đại.

Khóa tu tại Làng Mai, ở vùng tây nam nước Pháp gần thành phố Bordeaux, diễn ra trong 21 ngày, kể từ ngày 1 tháng Sáu năm 2012, quy tụ hơn 900 thiền sinh đến từ gần 30 quốc gia khác nhau. Ngôn ngữ chính được sử dụng là tiếng Anh, với tám nhóm thông dịch đồng thời sang tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, tiếng Ý, tiếng Thái, tiếng Nhật; tiếng Trung Hoa dịch cho nhiều người đến từ Singapore, Hồng Kong, Mã Lai, Đài Loan...; nhóm đông nhất là những người nghe tiếng Việt và tiếng Pháp.

Trong bài thuyết trình vào ngày Chủ Nhật 3 tháng Sáu 2012 tại Xóm Hạ, Làng Mai, ông Trịnh Xuân Thuận đã nêu lên một số lý thuyết trong môn vật lý học hiện tại để so sánh với những quan điểm trong truyền thống Phật giáo. Là một nhà chuyên khảo về vũ trụ học, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cho biết Vật lý học đã nhận thấy một số điểm tương đồng giữa Phật giáo và khoa học.

Những điểm “hội tụ” (convergence) mà ông nhìn ra là tính tương quan và tùy thuộc vào nhau của mọi hiện tượng vật lý (interdependence); tính trống rỗng (vacuity, emptiness) của vạn pháp; và tính vô thường (impermanence). Nhiều khám phá trong khoa học trong một thế kỷ gần đây đã đưa tới những cách nhìn giống như quan điểm của đạo Phật từ nhiều ngàn năm qua. Thí dụ, tính bất khả phân (non-seperability) của mọi vật; mối liên quan không thể tránh giữa chủ thể quan sát và đối tượng được khảo sát (tương tức, tương nhập); vân vân.

Trong khi các bộ môn khoa học sử dụng lý trí với các phương pháp phân tích toán học và thí nghiệm để gia tăng hiểu biết có tính chất khách quan và định lượng của con người về vũ trụ chung quanh mình, thì Phật giáo là một truyền thống tu tập với cách nhìn toàn diện theo đuổi mục tiêu trị liệu, đưa tới giác ngộ toàn diện (enlightenment) chứ không nhằm hiểu biết thuần túy. Phật giáo không nhìn thế giới theo lối lưỡng nguyên (tâm và vật) nhưng cũng không cố chấp vào cách nhìn phi lưỡng nguyên. Từ nhận định về tính tương lập (interdependence) của mọi vật và mọi người, Phật giáo đã dẫn tới đức từ bi như là một cách biểu hiện khác của trí tuệ.

Một ngày sau cuộc thuyết trình trên, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã đặt với Thiền sư Thích Nhất Hạnh một số thắc mắc của một nhà khoa học để tìm hiểu cách giải đáp của Phật Giáo.

Thứ nhất là Phật giáo yêu cầu phải vượt qua những chướng ngại do sự hiểu biết gây ra, một điều khác với khảo hướng của khoa học là luôn luôn dựa trên những hiểu biết đã có để đi tìm các hiểu biết mới.

Thứ hai là quan điểm Phật giáo về trình độ ý thức (consciousness) của loài người so sánh với các sinh vật khác, với vật chất vô sinh, cho tới các hạt nhân. Khoa học, kể từ Einstein, đã nhìn ra thời gian chỉ là một kích thước mới của không gian, điều này tư tưởng đạo Phật đã nhận định ra sao.

Điểm sau cùng là theo quan điểm Phật giáo, mọi vật đều là do biểu hiện của tâm thức, thì như vậy có một thế giới hoàn toàn vật chất ở ngoài tâm thức hay không?

Thiền sư Nhất Hạnh đã trình bầy cách nhìn của Phật giáo trước các vấn đề trên, dựa trên sự phân biệt “sự thật tương đối” (tục đế) và “sự thật tuyệt đối” (chân đế) trong truyền thống Phật giáo.
Các độc giả quan tâm có thể tìm trong website của Làng Mai (langmai.org hoặc plumvillage.org). Những lời trình bầy của Hòa thượng Nhất Hạnh trong các khóa tu chỉ nhắm hướng dẫn các các thiền sinh trong việc tu học hơn là chú trọng đến những kiến thức mà các nhà nghiên cứu quan tâm.

Giáo sư Trịnh Xuân Thuận là tác giả nhiều cuốn sách được phổ biến rất rộng khắp thế giới về đề tài vũ trụ học. Ông cũng viết chung với Matthieu Ricard, một tăng sĩ người Pháp tu theo truyền thống Tây Tạng, cuốn L'Infini dans la paume de la main (Vũ trụ trong lòng bàn tay), về tương quan giữa khoa học và đạo Phật. Matthieu Ricard vốn là một nhà nghiên cứu về thần kinh học tại Trung Tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học nước Pháp (CNRS, Centre National de Recherches Scientifiques) trước khi đi tu.

Hội tụ giữa Khoa học và Đạo Phật

Tựa đề cuốn sách trên, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cho biết, là do câu thơ thứ ba trong đoạn đầu bài thơ Auguries of Innocence của William Blake:


To see a world in a grain of sand,
And a heaven in a wild flower,
Hold infinity in the palm of your hand,
And eternity in an hour.

(Nhìn thấy cả thế giới trong một hạt cát
Và thiên đường trong một đóa hoa dại
Nắm vô cực trong bàn tay của anh
Và vĩnh cửu trong một giờ khắc)


Khi cuốn sách này được dịch sang tiếng Anh, ấn hành năm 2001, nhà xuất bản đã đề nghị đổi tựa: Lượng Tử và Hoa Sen, The Quantum and the Lotus cho dễ phổ biến hơn.

Bài thuyết trình của Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đối chiếu giữa quan điểm Phật Giáo về vũ trụ và nhân sinh với các hiểu biết khoa học để nêu ra những tương đồng giữa hai bên; ông đặt tựa là, Science and Buddhism: A Meeting of the Mind (Khoa học và Phật Giáo: Cuộc Gặp gỡ tại Tâm). Sau đây là một số điểm chính trong bài thuyết trình của ông.

Tương Tức

Một điểm được nêu lên đầu tiên là tính chất tương tức, tương lập (interdependence) của “vạn pháp,” tức là sự liên quan chằng chịt giữa mọi hiện tượng vật lý và tâm lý, theo lối nhìn của Phật Giáo. Trong khoa học, Trịnh Xuân Thuận nhắc đến một hiện tượng được nêu lên trong một bài do Boris Podolsky viết được in năm 1935 ký tên Einstein-Podolsky-Rosen (EPR), để thách thức Vật lý học Lượng tử (Quantum Physics). Vấn đề được nêu lên liên hệ tới hiện tượng vật lý trong phạm vi cực nhỏ bên trong các nguyên tử, gọi là những “hạt dính líu” (entangled particles).

Nhiều nguyên tử bị kích thích phát ra hai hạt pho ton (photons) đi về hai phía khác nhau. Những pho ton này có đặc tính nếu một cái bị kích thích để xoay thì cái thứ hai cũng xoay theo một chiều thẳng góc với cái thứ nhất, dù ở cách xa hàng ngàn dặm cũng vậy. Một cách giải thích hiện tượng này theo Cơ học Lượng tử, coi như hai hạt pho ton đã “thông tin” được với nhau, sẽ trái nghịch với Thuyết Tương Đối của Einstein vì không có thông tin nào có thể đi nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Do đó Einstein kết luận Cơ học Lượng tử không giải thích được đầy đủ các hiện tượng vật lý và đề nghị một lối giải thích khác.

Các cuộc nghiên cứu và thí nghiệm sau này cho thấy lối giải thích của EPR cũng không đứng vững; thí dụ, cuộc thí nghiệm của Alain Aspect năm 1982 về những cặp pho ton cho thấy Einstein không đúng.
Hiệu ứng “Hạt Dính Líu” đã được dùng trong kỹ thuật thông tin và trong máy vi tính dựa trên hiện tượng này, khi kích thích một pho ton có thể gây phản ứng của một pho ton khác dù cách nhau vạn dậm, giúp cho máy vi tính lượng tử chạy nhanh hơn các máy vi tính bình thường.

Khám phá “mọi hiện tượng dính líu với nhau” như trên tương đồng với quan niệm Phật Giáo trong các kinh điển Đại Thừa, như kinh Hoa Nghiêm đã diễn tả tính tương tức, tương nhập của vạn pháp.
Một đoạn trong Đệ Nhất Nghĩa Không Kinh (The Discourse on the Emptiness in its Ultimate Meaning) được thuyết giảng trong khóa tu tại Làng Mai lần này, viết:

“thử hữu cố bỉ hữu; thử khởi cố bỉ khởi, …”
(có cái này nên mới có cái kia, cái này dấy lên nên cái kia dấy lên).


Theo Phật Giáo thì mỗi sự vật, hiện tượng đều do các “nhân duyên” khác tạo thành, tất cả mọi vật, mọi hiện tượng là nhân duyên lẫn của nhau (mutual causation).

Hệ luận của quan niệm này là tính tương lập của “vạn pháp,” không có cái gì tự làm nguyên nhân duy nhất của chính nó. Một hệ luận khác là thực tại (reality) trong vũ trụ có tính toàn thể không thể phân chia được.

Vật lý học hiện đại cũng tiến tới một quan điểm tương tự. Như ông Trịnh Xuân Thuận nói một cách văn vẻ:
Vũ trụ Vật lý học hiện đại (Astrophysics) cho thấy là tất cả chúng ta chỉ là những hạt bụi của các vì sao; chúng ta có cùng một lịch sử trong vũ trụ giống như các loài hoa cỏ, các sinh vật khác.

Trong thời gian và không gian, tất cả chúng ta tương lập với nhau. Thông điệp chính yếu của khoa học, đặc biệt của cơ học lượng tử, là có một thực tại sâu xa hơn những gì mà giác quan của chúng ta nhận thấy, một thực tại ẩn tàng.

Khoa học đã gặp Phật Giáo trong lối nhìn này; nhưng sử dụng các khảo hướng khác nhau.
Khoa học dùng “ngôn ngữ” toán học và dùng thí nghiệm thực tế để kiểm chứng.
Phật Giáo dùng trực giác và kinh nghiệm tâm linh. Nếu không có khoa học thì Phật Giáo vẫn tồn tại; mà nếu không có Phật Giáo thì khoa học vẫn được phát triển.

Người ta không cần phải ràng buộc cả hai lại bằng bất cứ giá nào. Điều chúng ta muốn hiểu là thấy được tính tương đồng nhất quán của hai bên. Cả hai đều nói về một đối tượng là thực tại, và mỗi bên đều có tính chất nhất quán (coherent) trong phạm vi của mình; thế nào cũng có thể so sánh để thấy những điểm hội tụ giữa khoa học và Phật Giáo.

Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cũng phân biệt:
Mục đích của Phật Giáo có tính chất trị liệu (therapeutic): Làm sao để sống tốt đẹp hơn, mục tiêu sau cùng là giác ngộ.

Trong khi đó khoa học nhằm tìm hiểu thế giới, khám phá các định luật chi phối cả vũ trụ, những luật coi là bất biến trong vũ trụ, khiến người ta thấy vũ trụ có một thứ trật tự, một hòa điệu và vẻ đẹp trong vũ trụ; chứ không phải chỉ là một mớ hỗn độn (chaos).

Trịnh Xuân Thuận là tác giả các cuốn sách mang tên Giai điệu huyền bí (La Mélodie Secrète), Hỗn mang và Hòa điệu (Le Chaos et l'Harmonie).

Einstein, cũng như nhiều nhà khoa học khác, trong đó có những người khám phá cơ học lượng tử, đều nói rằng Phật Giáo là một tôn giáo có khả năng phù hợp nhất với hiểu biết khoa học.

Thí dụ, trong khoa học người ta biết là ánh sáng vừa là những hạt nhân, vừa là sóng. Làm sao một thứ có thể là hai dạng hoàn toàn khác nhau như vậy ? Trong truyền thống tư tưởng Tây phương, lối nhìn này không thể nào hiểu được. Nhưng Phật Giáo có thể chấp nhận lối nhìn đó; bởi vì theo Phật Giáo thì mọi vật đều không có tự tánh, cho nên có thể là một cái này mà cũng là cái khác hẳn.

Tính Không

Vật lý học hiện đại cũng chia sẻ với Phật Giáo trong cách nhìn thấy tính chất trỗng rỗng của vạn vật, gọi là Tính Không.
Vật chất do các nguyên tử tạo thành, mà trong các nguyên tử có thể nói là trống rỗng, với những hạt vận chuyển.

Thuyết Cơ học Lượng tử cho biết:
Những hạt này, căn bản của mọi vật chất, có hai đặc tính; một là hạt và hai là sóng. Trước khi đem các dụng cụ để quan sát, mỗi hạt chỉ có thể được mô tả bằng một xác suất.
Điều duy nhất mà chúng ta có thể biết và nói về một hạt là nó có một xác suất sẽ hiện ra ở một chỗ này hay chỗ khác. Khi chúng ta dùng khí cụ để đo lường, sẽ thấy mỗi hạt có một vị trí và một tốc độ, nhưng bị giới hạn bởi Nguyên lý Bất định của Heisenberg:

Không thể thấy cả hai đặc tính đó cùng một lúc một cách chắc chắn. Trong phạm vi nghiên cứu nhỏ bên trong các nguyên tử, hành động của người quan sát sẽ ảnh hưởng ngay đến vật được quan sát.

Khoa học hiện đại còn chưa biết thật sự vật chất trong vũ trụ này nó thế nào, chúng ta chỉ biết được khoảng 4% về vũ trụ, còn 96% không hề biết gì cả.
Những gì chúng ta nhìn thấy trên các giải ngân hà sáng trong bầu trời chỉ là nửa phần trăm của vũ trụ. Tất cả còn là một “giai điệu huyền bí.” Các nhà vật lý học đã nói đến giả thuyết có một “năng lượng tối” gây ra sự thành hình của vũ trụ, trong đó một phần là vật chất có trọng lực rất mạnh nhưng không phát ra một “ánh sáng” nào có thể trông thấy được, mà người ta gọi là “vật chất tối.”
Chúng ta chưa biết gì về vật chất đen (hay tối) cũng như năng lượng đen (hay tối); chỉ biết là nếu không có chúng thì khó giải thích sự phát sinh và tồn tại của vũ trụ.

Các nhà khoa học chưa biết đâu là biên giới nơi vũ trụ lớn gặp vũ trụ vi tiểu trong đó các hạt và sóng lượng tử do nguyên lý bất định ngự trị, mà ra đến vũ trụ vĩ đại thì nguyên lý đó không còn hiệu lực. Mỗi ngày các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục đẩy biên giới của thế giới lượng tử ra xa hơn, mở ra những chân trời mới.

Ông Trịnh Xuân Thuận nhắc lại:
Tất cả vật chất như trong chính cơ thể chúng ta đều bắt đầu được tạo nên từ khi các vì sao phát sinh trong vũ trụ.
Từ gần 4 tỷ năm trước, những hạt bụi tinh cầu đó đã biến chuyển tạo ra những nguyên tố đầu tiên của sự sống, rồi tiến hóa dần đến loài người.
Tổ tiên của tất cả chúng ta và các sinh vật khác là các vì sao; lịch sử vũ trụ cũng chính là tiểu sử của chúng ta. Tất cả bắt đầu trước đây 14 tỷ năm, dần dần đưa tới sự xuất hiện của loài người và ý thức. Tìm hiểu vũ trụ chính là đi tìm lại gia phả của chúng ta; quán sát các thiên hà cũng là nhìn vào chính bản thân mình.

Chúng ta có thể quan sát được hàng trăm tỷ thiên hà như giải Ngân Hà, mỗi thiên hà chứa hàng trăm tỷ các vì sao giống như mặt trời. Nếu mỗi vì sao đó có chừng mươi hành tinh giống như trái đất; thì chúng ta thấy ngay là không thể nghĩ rằng trái đất nơi ta sống là hành tinh duy nhất có sự sống. Chắc phải có cuộc sống với trí thông minh ở ngoài trái đất, họ cũng đang quán sát vũ trụ như chúng ta.

Einstein, một thần tượng của tôi, Trịnh Xuân Thuận, phải lấy làm ngạc nhiên tại sao con người lại có khả năng tìm hiểu cả vũ trụ; ông coi đó là “một điều khó hiểu nhất!”

Vô Thường

Một quan niệm căn bản trong truyền thống Phật Giáo là tính Vô Thường (impermanence) của vạn pháp, mọi sự vật, mọi hiện tượng.
Trước đây, khoa học Tây phương đã bị ràng buộc trong nhiều thế kỷ với khái niệm từ thời cổ Hy Lạp về tính bất biến của các hiện tượng thiên văn; vì Aristote nói rằng cái gì thuộc về loài người thì thay đổi, phù du; còn thế giới các thần linh, như các vì sao trên bầu trời thì vĩnh cửu và không bao giờ thay đổi, bởi vì các vị thần linh đều hoàn hảo tuyệt đối.
Vì vậy, vào ngày 4 tháng Bẩy năm 1054, ban đêm trên bầu trời xuất hiện một thiên thể hoàn toàn mới sáng rực, nó sáng như Kim Tinh, Vénus, ngay cả ban ngày mắt thường cũng nhìn thấy, và kéo dài hàng mấy tuần lễ liền; nhưng các nhà thiên văn tài giỏi ở Âu Châu thời đó không hề ghi nhận họ thấy “ngôi sao” mới này trong niên biểu thiên văn học đương thời.
Bởi vì theo quan niệm của họ thì bầu trời của các vị thần linh là bất biến. Thiên thể trên, có nguồn gốc là phần còn lại của một vụ nổ sao mà ngày nay chúng ta gọi là "Tinh vân Cua."

Trong thời gian đó thì ở Trung Hoa người ta đã ghi nhận sự xuất hiện của “ngôi sao” này, và họ đặt tên là “Sao Khách.”
Di tích khảo cổ cho thấy người Maya ở Mỹ châu cũng ghi nhận hiện tượng thiên văn này.
Các nhà khoa học Âu Châu thời Trung Cổ tin tưởng ở lý thuyết vũ trụ bất biến của Aristote hơn là tin vào chính mắt của họ.
Mãi đến thời Copernic, năm 1543, mới thuyết phục được các nhà khoa học là vũ trụ có tính vô thường. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cười:
“Các nhà thiên văn Âu châu thời Trung Cổ tin vào lý thuyết vũ trụ bất biến của Aristote hơn là tin ở chính con mắt họ.”

Vũ trụ luôn biến chuyển, không bao giờ ngưng. Các vì sao cũng sinh ra, tàn lụi, rồi chết đi như tất cả chúng ta, nhưng cuộc đời của một vì sao dài tính bằng hàng tỷ năm chứ không ngắn như đời chúng ta.

Phật Giáo theo quan điểm vô thường. Như chúng ta nghĩ đang “ngồi yên” trong thiền đường này thì thực ra chúng ta đang vận chuyển theo trái đất chung quanh mặt trời với vận tốc 30 km một giây đồng hồ; mà mặt trời cũng đang vận chuyển 220 km một giây quanh trung tâm của Ngân Hà; và chính thiên hà này cũng đang tự quay với tốc độ 90 km mỗi giây ở nơi chúng ta đang sống.
Tất cả đều vận chuyển, tất cả đều thay đổi, đó cũng là quan niệm vô thường trong Phật Giáo.

Tôn giáo của tương lai


Ông Trịnh Xuân Thuận nhận xét, khoa học chỉ là một cửa sổ để chúng ta nhìn thế giới. Muốn hiểu biết thực tại chúng ta phải nhìn qua nhiều cửa khác.
Phật Giáo phân biệt hai loại sự thật, tục đế là những sự thật tương đối, chân đế là sự thật tuyệt đối.
Khoa học vẫn cố tìm đến sự thật tuyệt đối nhưng chưa tới được. Mỗi lần nhà khoa học giải đáp được một câu hỏi thì hàng ngàn câu hỏi khác hiện lên.
Nếu dùng kinh nghiệm tâm linh đạt tới “giác ngộ,” chúng ta có hy vọng nhìn thấy sự thật. Nếu không, vẫn là một “giai điệu huyền bí.”
Ông nghĩ rằng khoa học không thôi không thể mô tả đầy đủ sự thật; khoa học không quá tự cao như vậy. Kinh nghiệm tâm linh là con đường khác bổ túc cho khoa học.
Dù theo hai hệ thống lý luận khác nhau, Phật Giáo và Khoa học Vũ trụ đã gặp gỡ trên nhiều điểm.
Những nguyên lý Phật Giáo như tính tương lập (interdépendance) của mọi sự vật, tất cả đều liên hệ với nhau và có duyên nhân quả với nhau (mutual causality), về tính không (vacuity) và tính vô thường (impermanence) của vạn pháp, đều tương đồng với kết luận của các nhà nghiên cứu khoa học vũ trụ.

Tính tương lập của mọi vật trong vũ trụ giúp chúng ta suy nghĩ để thấy hạnh phúc của mỗi người tùy thuộc vào mọi người khác và cả vạn vật chung quanh.

Từ đó, chúng ta phát khởi lòng từ bi và ý thức phải bảo vệ các sinh vật cũng như những vật vô sinh trong môi trường sống. Mỗi người không thể hạnh phúc nếu người chung quanh không hạnh phúc. Đó là điều mà các tôn giáo đều dậy chúng ta.

Cuối bài thuyết trình, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã đọc cho thính chúng nghe một câu của Albert Einstein nói về tôn giáo thường được trích dẫn,

“Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Phải là một tôn giáo dựa trên thực chứng (based on experience) và từ bỏ tính cách giáo điều (refuses dogmatic). Nếu có một tôn giáo đáp ứng được nhu cầu khoa học hiện đại, thì đó là Phật Giáo
(If there is any religion that would cope with modern scientific needs it would be Buddhism).

Giới thiệu


Trước buổi thuyết trình, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã được một vị tăng sĩ tại Làng Mai giới thiệu với đại chúng. Ông sinh năm 1948 tại Hà Nội, đậu Tú tài năm 1966, rồi học một năm tại l’Ecole Polytechnique de Lausanne, Thụy Sĩ. Sau đó ông đã theo học các đại học có tiếng tại Hoa Kỳ, California Institute of Technology (Caltech), và Đại học Princeton, nơi đã trao bằng Ph.D. cho ông vào năm 1974, về môn Vật lý học Vũ trụ (astrophysics), dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Lyman Spitzer, người sáng chế viễn vọng kính Hubble.

Từ năm 1996 ông là giáo sư Vật lý Vũ trụ tại Đại học University of Virginia tại Charlottesville. Ông cũng là giáo sư Đại học Paris 7, làm việc tại Thiên văn đài Meudon, tại IAP (Institut d’astrophysique de Paris) và Trung tâm Nghiên cứu Khoa học (CNRS) của nước Pháp.

Ông đã viết trên 230 bài tường trình khảo cứu trên đề tài chuyên khảo là sự hình thành và tiến hóa của các thiên hà (galaxies); về sự tạo lập vũ trụ theo lý thuyết “Vụ Nổ Lớn” (Big Bang).

Một đóng góp của ông được giới khoa học thảo luận với lòng thán phục là việc ông khám phá thiên hà “trẻ nhất” trong vũ trụ, mang ký hiệu I Zwicky 18. Ông là một trong số người sáng lập Hội Quốc tế Khoa học và Tôn giáo (International Society for Science and Religion).

Là một người viết rất nhiều sách phổ thông về Vật lý học Vũ trụ; tại Đại học Virginia ông Trịnh Xuân Thuận cũng dậy một lớp mang tên là “Vật lý học Vũ trụ cho các Thi sĩ.”

Ông đã xuất bản các tác phẩm phổ biến khoa học cho đại chúng, viết bằng tiếng Pháp với một lối văn nhuần nhã, điêu luyện, đầy thi vị, chính xác và trong sáng dễ hiểu. Các tác phẩm của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, được các tổ chức văn hóa quốc tế vinh danh.

Năm 2007 ông xuất bản cuốn Les voies de la lumière, được trao Giải Moron của cựu Tổng thống Jacques Chirac.
Năm 2009, tại Hội nghị Khoa học Ấn Độ (Indian Science Congress) kỳ thứ 99 tại Bhubaneswar, ông được UNESCO trao tặng Giải Kalinga
Năm 2012, ông được Học Viện Pháp Quốc (Institut de France) trao Giải Hoàn Cầu (Prix Mondial) Cino Del Duca. Đây là một giải hưởng văn chương rất uy tín, khi chúng ta biết trong số những người được trao giải gần đây có các nhà văn Mario Vargas Llosa (2008), Milan Kundera (2009) và Patrick Modiano (2010).

Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã xuất bản các sách bằng tiếng Pháp sau đây:
La Mélodie secrète (Fayard, 1988);
Un astrophysicien (Beauchesne-Fayard, 1992),
tự thuật;
Le Destin de l'Univers
– Le Big Bang et après (Découvertes Gallimard, 1992);
Le Chaos et l'Harmonie (Fayard, 1998);
L'Infini dans la paume de la main (Nil/Fayard 2000, cùng với Matthieu Ricard);
Origines, (Fayard, 2003);
Les voies de la lumière (Fayard, 2007).

Chân Văn (Đ. Q. Toàn) tường thuật

Nguồn: http://www.viet.rfi.fr/khoa-ho....n-thuan


AToanMT
 
ThiệnTâm Date: Thứ Năm, 23 Aug 2012, 3:30 AM | Message # 2
Major general
Group: Moderators
Messages: 365
Status: Tạm vắng



Đọc bài này xong, làm Thiện-Tâm nhớ lại chuyến Offline năm 2011 mà thầy đã về, trong lúc ngồi cùng các thành viên của diễn đàn, thầy cũng có nói về Khoa Học và Phật Giáo.

Thầy nói : “Những câu nói của Đức Phật rất đúng và rất khoa học, mà hiện nay các nhà khoa học đã và đang chứng minh cho chúng ta thấy.”

- Ngày xưa, Đức Phật đang ngồi Thiền , sau khi Ngồi Thiền xong thì Đức Phật đã kể lại Ngài đã đi đến đâu đó, (mà ThiệnTâm quên rồi !) thì đệ tử của Đức Phật liền hỏi :
“Thưa Bạch Thầy, cho đệ tử hỏi Bạch Thầy đi bằng gì mà nhanh vậy ?”
Đức Phật Đáp : “Ta đi bằng Ánh Sáng
=> Qua câu nói của Đức Phật, chúng ta đã thấy hiện nay các nhà khoa học đã chứng minh vận tốc ánh sáng (tốc độ ánh sáng) rất nhanh.

(Thiện-Tâm, chỉ nhớ lại được có bao nhiêu á ! biggrin )

Mà Hiện Tại chúng ta thấy Anh Sáng nhanh hơn cả Điện, mà hiện nay trong lãnh vực “Thông Tin” cũng áp dụng ánh sáng trong phương tiện truyền dẫn mạng, đó là “Cáp Quang”.(Dùng ánh sáng của sợi Thủy Tinh, để truyền dẫn mạng).Tốc độ của nó còn nhanh hơn cả "Cáp Đồng Trục" và "Cáp Xoắn Đôi".

Nói tóm lại , Những câu nói của Đức Phật vốn rất thật và rất khoa học, như trong bài "Chuyện Thực Tế" mà Thầy đã Post. Đức Phật Không Dùng Phép Thần Thông ,mà chỉ bằng sự quan-sát thực-tế và phán-đoán, cũng như các Nhà Khoa Học hiện nay.


(Thiện-Tâm Kính thầy, trong quá trình thuật lại câu chuyện, con có nhớ sai một chi tiết nào, mong thầy chỉnh sửa lại.)


Message edited by ThiệnTâm - Thứ Năm, 23 Aug 2012, 3:39 AM
 
atoanmt Date: Thứ Năm, 23 Aug 2012, 6:56 AM | Message # 3
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 5081
Status: Tạm vắng
Trầm tư về vũ trụ xung quanh chúng ta

Thích Nữ Giới Hương


Năm 2010 này, quý chư Tôn đức vùng Santa Ana cùng Hòa Thượng Trù Trì Thích Quảng Thanh có tổ chức Khóa Bảy Ngày An Cư Kiết Hạ thời gian từ ngày 19.07.2010 đến ngày 26.07.2010 tại Chùa Bào Quang, Orange County, California. Trong chương trình an cư, mỗi buổi chiều có tiết mục thảo luận Phật Pháp. Con (TKN Giới Hương) được nằm trong danh sách thuyết trình đó với đề tài «Trầm Tư về Vũ Trụ Xung Quanh Chúng ta». Nay con xin phép được tường trình lại buổi pháp thoại đó.


Tác giả Thích Nữ Giới Hương


Trước khi vào nội dung, thuyết trình viên đã nêu lên mục đích của đạo Phật là quan tâm đến lợi ích thiết thực mang hạnh phúc và sự giải thoát cho con người.
Để tránh hí luận, Đức Phật thường ít trả lời những câu hỏi về thế giới và vũ trụ quan bên ngoài như những câu hỏi thế giới từ đâu sanh ra, sẽ đi về đâu, hữu biên hay vô biên, thường còn hay không thường còn, vv.

Xin kể một câu chuyện để minh họa.
Có một người bị mũi tên độc đâm bị thương. Khi đến phòng mạch thay vì im lặng để bác sĩ cầm máu, băng bó vết thương thì bịnh nhân lại cứ thắc mắc hỏi: «Thưa Bác sĩ mũi tên được sản xuất tại đâu vậy? Ai bắn tôi vậy? Mũi tên làm bằng chất gì? Bề ngang và bề dài của mũi tên rộng bao nhiêu? Mũi tên đã bay xa bao nhiêu mét rồi đâm vào da thịt tôi?

Cũng thế, thân người mỏng manh, mạng sống cạn dần, nên lo việc «sanh tử sự đại » trước. Giữ giới, hành thiền và phát tuệ thì sẽ liễu tri nhiều việc bao gồm vũ trụ quan và nhân sinh quan. Tuy nhiên cũng sẽ lợi ích nếu chúng ta tìm hiểu biết được vũ trụ xung quanh chúng ta, đặc biệt với những khám phá của khoa học gần đây. Việc trình bày của thuyết trình viên hôm nay hy vọng như một cái gì đó khởi điểm cho những nghiên cứu sâu sắc hơn nếu chúng ta thấy tâm đắc với đề tài này.
Thuyết trình viên trình bày ba vấn đề như sau:

VẤN ĐỀ THỨ NHẤT về sự hình thành của thế giới

Theo quan điểm khoa học, cách đây rất lâu có một dị điểm (singularity) vô cùng nóng và đặc. Dị điểm bỗng nổ tung (sanh, trụ, dị, diệt) diệt để rồi tiếp nối đầu mối sanh và biến đổi dần dần thành vũ trụ hiện nay. Khoa học gọi tiếng nổ lớn tạo thành vũ trụ ấy là “Big Bang”[1].

Vì vũ trụ luôn luôn nở rộng làm cho ánh sáng từ các ngôi sao chuyển sang phía đỏ, và vì vũ trụ mới sinh ra từ một Big Bang cách đây khoảng 15 tỷ năm nên chưa đủ thời gian để cho ánh sáng từ các thiên hà xa hơn nữa, nếu có, truyền tới mặt đất. [2]

Khoa học gia Harlow Shapley nói rằng:

«Con người được làm từ những chất của ngôi sao và bị chi phối bởi luật vũ trụ ».
(Mankind is made of star-stuff, ruled by universal laws).[3]


Chất ngôi sao này chúng ta có thể hiểu theo tinh thần đạo Phật là đất nước gió lửa và bị chi phối bởi luật vũ trụ là sanh trụ dị diệt.
Quan điểm Phật giáo cũng cho rằng thời gian vô thuỷ vô chung, không gian vô cùng và thế giới vô tận như kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện đã minh họa:
“Ví như bao nhiêu cỏ, cây, lùm, rừng, lúa, mè, tre, lau, đá, núi, bụi bặm trong cõi tam thiên đại thiên. Cứ một vật làm một sông Hằng, rồi cứ số cát trong mỗi sông Hằng, một hột cát làm một cõi nước, rồi trong một cõi nước cứ một hột bụi nhỏ làm một kiếp, rồi bao nhiêu số bụi nhỏ chứa trong một kiếp đêu đem ra làm kiếp cả."

Từ lúc ngài Địa Tạng Bồ Tát chứng quả vị Bồ Tát Thập Địa đến nay, nghìn lâu hơn số kiếp tỷ dụ ở trên, huống là những thửo Ngài Địa Tạng Bồ Tát còn ở bậc Thanh Văn và Bích Chi Phật”[4].

Hay trong kinh Lăng Nghiêm dạy Đức Phật dạy về thế giới như sau:

Cái giác thì sáng suốt, cái hư không thì không hay biết, hai cái đối đãi với nhau, thành có lay động, cho nên có phong luân nắm giữ thế giới.
Nhân cái hư không mà sinh ra có lay động, phát minh tính cứng thì thành có ngăn ngại; các loài kim bảo đều do minh giác lập ra tánh cứng, cho nên có kim bảo nắm giữ cõi nước.

Biết cái cứng thì thành có kim bảo, rõ cái lay động, thì phong đại phát ra: phong đại và kim bảo cọ xát nhau, cho nên có hoả đại làm tính biến hoá.
Ngọn lửa xông lên, kim bảo sinh ra tính ướt, cho nên có thủy luân trùm khắp các cõi mười phương.
Lửa bốc lên, nước sa xuống, giao nhau phát hiện, mà lập thành tánh cứng:
Chỗ ướt là bể lớn, chỗ khô là gò nổi; do cái nghĩa ấy, trong bể lớn kia, hơi nóng thường bốc lên; trong gò nổi kia, sông ngòi thường chảy xuống. Thế nước kém thế lửa, thì kết thành núi cao, vậy nên đá núi, đập thì có tia lửa, nấu thì chảy ra nước.

Thế đất kém thế nước, rút ra thành cây cỏ, vậy nên rừng rú bị đốt thì thành đất, vắt ra thì có nước.
Vọng tưởng giao xen phát sanh, xoay vần làm chủng tử cho nhau; do nhân duyên ấy mà thế giới tiếp tục[5].


Khi nói thế giới hình thành và tương tục là nói về mặt vật lý. Đức Phật có Phật tuệ nên ngài nhìn thấy được, riêng chúng ta còn đeo nhục nhãn tức còn đeo kiếng đen nên không thấy các pháp như thật được.

Bầu khí quyển chúng ta gọi là hư không nhưng thật ra là vòng không khí. Vòng không khí bao quanh, trùm xung quanh quả đất của mình, giữ vững quả đất lại. Nhân hư không mà sinh ra lay động, phát minh tính cứng, cho nên có kim bảo nắm giữ cõi nước. Gió thổi có động.

Tâm mình muốn đứng vững lại cho nên gọi là kiên ngưng. Ngưng chướng ngại thì cảm quả báo có kim bảo, nghĩa là do kiên ngưng mà nó thành chất cứng của mình, thành kim luân tức vòng bằng vàng tròn bao quanh quả đất.

Tánh của kim luân thì kiên ngưng mà phong luân thì thổi và chuyển động. Hai bên cọ xát tạo ra hỏa luân làm tánh biến hoá. Ngọn lửa xông lên đốt kim luân sanh ra tánh ướt nên có thủy luân tràn đầy khắp pháp giới. Thế giới này có gió rồi có kim si mê thành đất, rồi mới có lửa, nước, thế là đủ bốn thứ (đất, nước, gió, lửa). Sau đó, mới biến hoá thành ra các cảnh giới, rồi cây cối, biến thành ra các thứ sơn hà đại địa.

Đầu tiên là vòng gió, kim/ địa, lửa, nước. Vậy thế giới chúng ta ở từng vòng từng vòng theo như văn kinh minh họa. Đây quả đất hình tròn, ở ngoài quả đất có vòng không khí. Vòng đất rồi nước chảy ở trong, trong ruột quả đất là lửa, khoan xuống thì có giếng nước. Nước có vòng nước nó chảy trong lòng đất.

Bởi vì lửa bốc lên, nước sa xuống, thế cho nên trong biển vẫn có lửa. Trong đá có cả nước cả lửa (núi phun lửa, núi lửa). Chúng ta lấy đá đập vào nhau thì nó xẹt ra lửa, còn mình nung đá thì nó thành nước. Gò là chỗ có đất nhiều, nước ít. Chỗ ướt thế nước mạnh hơn thế đất sẽ tếch thành cái lá cành hoa, rừng cây ruộng cỏ.
Cho nên cảnh cứ hiện lên, kết mê muội mãi thì hư không nối tiếp, kết ái nhiễm, sân hận, ngu si mãi cho nên đất, nước, gió, lửa cứ nối tiếp. Hễ chúng ta thèm ăn thì miệng chảy ra nước. Nghe một người thân đi xa thì con mắt chảy ra nước, biết mình bắt được vàng hay trúng số thì toát mồ hôi. Hễ có lòng tham muốn ái ân thì dễ dàng đưa đến sự mất chánh niệm.

Hiện tại cho chúng ta thấy lòng tham khởi ra nước. Hễ sân thì khởi ra lửa, mê kết ám lại thì thành hình sắc, thành đất đá. Do những vọng tưởng giao xen này làm chủng tử cho nhau nên đất, nước, gió, lửa nối tiếp.
Như vậy đất, nước, gió, lửa là nền tảng cấu thành thế giới. Đây là nói từ trong nghiệp báo của chúng ta hiện lên các thứ, đều là những cái không hề có.

Trong tâm của chúng ta, nước là do ái mà hiện tướng. Nước là thứ đi xuống, chảy xuống, chứ không bao giờ chảy lên.
Hễ có sân, ghét, bực bội thì có lửa, phực lửa bật ra, đang vừa có lửa vừa có nước ái chảy ra.
Gió là do tâm động mà tạo thành. Đất là do si ám kiên ngưng mà thấy ra chướng ngại, chỉ toàn là tâm không chi khác.
Thế rồi, cứ làm nhân lẫn nhau vì thế có quả báo có thân rồi lại tạo ra các nghiệp. Đây là lý do có thế giới tiếp tục, tức có đất, nước, gió, lửa tiếp tục[6].

Từ trên đến đây Đức Phật nhắc đi nhắc lại, chỉ là nghiệp báo của chúng ta, hiện lên các thứ, chứ thật ra chúng là những cái không hề có.

VẤN ĐỀ THỨ HAI thuyết trình viên trình bày là sự tiên phong của Phật giáo trong khoa học.

Vào những thế kỷ trước công nguyên khi mà khoa học kỹ thuật chưa phát triển, Đức Phật đã nhìn thấy trong mỗi giọt nước có vô số vi vật. Ngài đã khuyên các chúng đệ tử xuất gia của ngài đều phải có đãy lọc nước để lọc trước khi uống cũng như mỗi khi uống nước hãy nhớ niệm chú vãng sanh để gieo hạt giống bồ đề vào các sinh vật này.

Phải trải qua hơn hai mươi mốt thế kỷ sau, vào cuối thế kỷ 16 (năm 1595), các nhà khoa học mới phát minh kính hiển vi (Meiji Techno MT4200) đầu tiên. Rồi nhờ kính hiển vi ấy mới nhìn thấy được trong một giọt nước có vô số các vi sinh vật mà mắt thường (nhục nhãn) không nhìn thấy được.
Điều này cho thấy Phật giáo đã tiến khá xa trước khoa học.

Ngoài việc nhìn thấy được những thế giới vô cùng nhỏ, từ buổi ban sơ, Phật giáo còn thấy được những thế giới vô cùng lớn trong vũ trụ bao la. Từ xa xưa vào những kỷ nguyên trước Tây lịch khi mà khoa học chưa phát triển, Đức Phật Thích Ca đã tuyên bố trong kinh A-di-đà rằng:
“Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực-lạc. Trong thế giới đó, có Đức Phật hiệu là A-di-đà hiện đang thuyết pháp”[7].

Trong kinh Pháp Hoa, phẩm thứ Mười Sáu “Như Lai Thọ Lượng” dạy rằng Đức Phật thành Phật nhẫn lại đây rất lâu vô lượng trăm nghìn na do tha kiếp như sau:
“Này thiện nam tử! Thật Ta thành đạo nhẫn lại đây, đã vô luợng vô biên trăm nghìn muôn ức na-do-tha kiếp. Ví như năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi tam thiên, đại thiên, giả sử có người nghiền làm vi trần qua phương đông, cách năm trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước, bèn rơi một bụi trần, đi qua phía đông như thế cho đến hết vi trần đó.
Các thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao? Các thế giới đó có thể suy gẫm so tính biết được số đó chăng?"


Di Lặc Bồ tát thảy đều bạch Phật rằng:
‘Thế Tôn! Các thế giới đó vô lượng vô biên, chẳng phải tính được, đếm được, cũng chẳng phải tâm lực biết đến được. Tất cả Thanh Văn, Duyên Giác dùng trí vô lậu, chẳng có thể suy nghĩ biết được hạn số đó, chúng con trụ bậc bất thối, ở trong việc này cũng chẳng thông đạt. Thế Tôn! Các thế giới như thế vô lượng vô biên.”[8]

Ngoài ra, trong kinh Phật cũng có kể một chuyện rằng tôn giả Mục Kiền Liên muốn dùng thần thông bay đo xem phạm âm thuyết pháp của Đức Phật vang xa bao nhiêu? Tôn giả bay rất lâu đến một cõi nước của Đức Phật Định Tự Tại Vương Như Lai.

Ở cõi này, Đức Phật, Bồ tát, chư hiền thánh và chúng sanh có thân tướng rất to lớn phi thường. Khi các Bồ tát thấy có một con trùng nhỏ bò vào, định đưa tay ra phủi thì lúc đó Đức Phật Định Tự Tại Vương bảo:
“Đây là tôn giả Mục Kiền Liên - vị Đại đệ tử thượng thủ của Đức Thích Ca Như Lai đến đây để đo phạm âm của sư phụ mình. Tôn giả rất có thần thông và đạo hạnh, xin chớ coi thường. Hãy để tôn giả tự tại đến đi.”
Khi tôn giả Mục Kiền Liên bay về, đường rất xa như lạc lối, Đức Như Lai từ bi dùng hào quang soi đường để chỉ hướng về.

Trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới, nữ nhân Thích Ca Cù Ba giảng một pháp môn giải thoát cho Thiện Tài Đồng Tử cũng mô tả về thế giới vô biên như sau:
“Này thiện nam tử! Ta quán thân của Bồ Tát, nơi mỗi lỗ chân lông, mỗi niệm thấy vô lượng vô biên thế giới rộng lớn. Những sự an trụ trang nghiêm, hiện trạng, những núi đất mang danh hiệu Phật xuất thế; những đạo tràng, chúng hội, diễn thuyết, những khế kinh, những sự quán đảnh, các thừa, những phương tiện và những thanh tịnh.
Lại mỗi niệm nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ tát thường thấy vô biên Phật hải, những sự ngồi đạo tràng, những thần biến, thuyết pháp, thuyết kinh hằng không gián đoạn. Lại nơi mỗi lỗ chân lông của Bồ tát thấy vô biên chúng sanh hải, những trụ xứ, hình mạo, tác nghiệp, căn lành…”


Trong Nhị Khóa Hiệp Giải, Đức Phật dạy có vô số thế giới. Ngàn thế giới là một tiểu thiên thế giới. Ngàn tiểu thiên thế giới là trung thiên thế giới. Ngàn trung thiên thế giới là đại thiên thế giới. Một tiểu thiên thế giới có 1000 thế giới tức là một dãy ngân hà (galaxy) gồm cả triệu ngôi sao.

Một trung thiên thế giới có một triệu thế giới và một đại thiên thế giới có một tỷ thế giới. Một tiểu thiên thế giới sống 16 triệu 8 trăm ngàn năm. Một trung thiên thế giới sống 336 triệu năm và một đại thiên thế giới sống một tỷ 344 triệu năm[9].
Đây là quan niệm về vũ trụ của Phật giáo từ hơn 2600 năm về trước.

Như vậy, ngoài trái đất nhỏ nhoi mà chúng ta đang sống, theo lời Đức Phật đã dạy và khoa học đã chứng minh còn có ngàn tỷ hằng hà sa số các thế giới khác nữa. Khoa học cho rằng một ngôi sao như là một thế giới. Giáo sư Trần Chung Ngọc nói rằng:

“Một tiểu thiên thế giới có thể so sánh với quan niệm hiện đại về một thiên hà (galaxy) gồm có cả triệu ngôi sao và những hành tinh có thể có những sinh vật trên đó như giải ngân hà (Milky way) hay M31, hay chòm sao (constellation) Andromeda.
Một trung thiên thế giới có thể so sánh với một chùm sao thiên hà (galastic cluster) thí dụ như chùm Coma Berenices, và một Đại thiên thế giới có thể so sánh với siêu thiên hà (metagalaxy) ở trong Đại Vũng (Big Dipper) của tiểu Ursa (Minor Ursa) trong đó có ít ra là cả triệu thiên hà.”[10]

Khoa học gia Terence Dickinson nói:

“Chúng ta có thể thấy trên trời đầy các ngôi sao là hàng xóm vũ trụ của chúng ta. Dãy ngân hà là một thế giới hình xoáy tiêu biểu, như một chiếc đĩa khổng lồ rộng khoảng 9.000 năm ánh sáng, với một sự phình ra nơi trục bánh xe khoảng 10.000 năm ánh sáng.
Thái dương hệ của chúng ta, cách điểm trung tâm khoảng 27.000 năm ánh sáng và ngân hà dày khoảng 25.000 năm ánh sáng.
Có một quần đảo với hơn 200 tỉ ngôi sao nổi bồng bềnh trong không gian cách trái đất khoảng 15 triệu ánh sáng. Quần đảo này được gọi là M83 kích thước tương đương rộng như dãy ngân hà”.


(What we see as a sky full of stars is our cosmic neighborhood, a small corner of the galaxy. Our Milky Way Galaxy is a typical spiral galaxy, an enormous disk about 90,000 light-years from edge to edge, with a bulge at the hub that is 10,000 light-years thick. In our region, 27,000 light-years out from the nucleas, the galaxy is less than 2,000light year-thick.
An island of more than 200 billion stars floats in the blackness of deep space 15 million light-year from the earth. This galaxy known only by its catalog number M83, is roughly the same size and mass as our own Milky Way”[11].


Hay “Ngân hà M87 rộng khoảng 60 triệu năm ánh sáng là một thế giới gần trái đất nhất”. (At 60 million light-years, M87 is the nearest giant elliptical galaxy to Earth)[12].

Theo nghiên cứu về nguồn gốc cấu tạo và tiến hóa của vũ trụ (năm 1920), các nhà khảo cứu vũ trụ cho là vũ trụ chỉ là giải ngân hà (milky galaxy/way) mà thái dương hệ (hệ thống mặt trời). Sau đó, kính thiên văn khám phá giải ngân hà có tới hàng trăm tỷ ngôi sao (mỗi sao tương tự như mặt trời trong thái dương hệ). Ngoài ngân hà, còn có cả triệu tỷ thiên hà rải rác khác. Mỗi thiên hà chứa cả tỷ ngôi sao[13].

Các khoa học gia cũng khảo sát và thấy rằng vũ trụ, thiên hà (galaxy) di chuyển ngày mỗi xa trái đất, ngày càng mở rộng, như vậy nghĩa là vũ trụ không cố định một chỗ. Nếu chất lượng ngôi sao càng nặng thì sống ngắn hơn chỉ vài tỷ năm. Nếu sao nhẹ thì tuổi thọ dài hơn, có khi tới hàng ngàn tỷ năm. Điều này cũng phù hợp với lời Bồ tát Phổ Hiền nói: “Có thế giới chỉ tồn tại trong một kiếp. Có thế giới tồn tại trong vô số kiếp.”

Như vậy, thọ mạng của thế giới rất đa dạng và thế giới chúng ta sống đây không phải là duy nhất và trung tâm của vũ trụ.

VẤN ĐỀ THỨ BA trong buổi thuyết trình là tướng trạng của các thế giới.
Trong khoa học nói rằng:
“Vào đầu thập niên 1920, các chuyên gia khảo cứu vũ trụ, qua những kính thiên văn tân kỳ, khám phá ra rằng giải Ngân Hà (Milky Way), trong đó có thể có tới cả trăm tỷ ngôi sao, mỗi ngôi tương tự như mặt trời trong Thái Dương Hệ, thật ra chỉ là một ốc đảo, một Thiên Hà (galaxy), trong vũ trụ.

Ngoài giải Ngân Hà ra còn cả triệu, cả tỷ Thiên Hà khác rải rác trong vũ trụ. Mỗi Thiên Hà đều chứa ít ra là cả tỷ ngôi sao, tương tự như giải Ngân Hà. Trong vũ trụ, giải Ngân Hà có dạng của một cái đĩa, rộng khoảng 100000 (một trăm ngàn) năm ánh sáng, và Thái Dương Hệ của chúng ta ở cách tâm của giải Ngân Hà khoảng 30000 (ba mươi ngàn) năm ánh sáng.

Trong vũ trụ học, vì phải kể đến những khoảng cách vô cùng lớn nên người ta thường dùng đơn vị đo chiều dài là 1 năm ánh sáng, hoặc đơn vị parsec bằng hơn ba năm ánh sáng một chút (3.2616). Chúng ta đều biết, ánh sáng truyền trong không gian với vận tốc khoảng 300000 cây số trong một giây đồng hồ.

Chúng ta cũng biết một phút có 60 giây, một giờ có 60 phút, một ngày có 24 giờ, và một năm có khoảng 365 ngày. Do đó, chúng ta có thể tính ra khoảng cách của một năm ánh sáng. Khoảng cách này vào khoảng 9460800000000 (9 ngàn 4 trăm 60 tỷ 8 trăm triệu) cây số, hoặc gần 6000000000000 (6 ngàn tỷ) miles”[14].


Khoa học gia Terence Dickinson nói:
“Quang cảnh vũ trụ đan dệt vào nhau giống như những sợi chỉ, đốm chấm đã tạo nên cấu trúc độc đáo trong vũ trụ. Hình ảnh trên sơ đồ này cho thấy hàng triệu ngân hà được thấy từ trái đất và đó là chỉ nhìn một nửa vòm trời mà thôi. Xa hơn nữa có thể thấy rải rác từng dãy ngân hà được tụ lại thành nhóm với nhau và đan dệt nhau như những sợi dây tơ”.

(Woven across the cosmic landscape like the threads in some vast define the ultimate structure of the universe. This image is a plot of nearly a million individual galaxies (as seen from earth) and represents about half of the entire sky. Far from being scattered at random, galaxies are clustered, and the clusters congregate in superclusters that from the filaments seen here)[15].

“Những ngôi sao được sáng tạo không bằng nhau do sự thừa hưởng chất nebulas ít hay nhiều. Những ngôi sao thật nặng thì lớn gấp 100 lần mặt trời, ngôi sao nhỏ nhất thì khoảng 8% của mặt trời. Quần thể ngôi sao đã cho thấy sự sáng toả, chu vi, nhiệt độ và kích cỡ của từng ngôi sao”.

(All stars are not created equal. They inherit different amount of material from the nebulas in which they are born. Superheavyweight stars are 100 times the sun’s mass; the minimum stellar mass is 8 percent of the sun’s mass. A star’s mass dictates how bright it will be, how long it will be, its temperature and its size)[16].

“Trung bình khoảng cách giữa các ngôi sao trong hệ thống dãy ngân hà là cách nhau khoảng bảy năm ánh sáng. Trôi nổi giữa bể không gian bồng bềnh đó là trái đất”.
(The average distance between stars in our sector of the Milky Way Galaxy is seven light-years. Adrift in this vast ocean is Earth)[17].


Như vậy đơn vị đo diện tích rộng lớn của các dãy thế giới rộng lớn này là ánh sáng trong một năm. Các dãy thế giới này còn mang đậm nét đặc thù là tọa lạc nhiều vị trí và có nhiều hình thù đa dạng sai khác như trên đã nói.
Ngoài chu vi rộng lớn được tính bằng ánh sáng, thế giới, ngân hà, thiên hà, trái đất và thái dương hệ, vv... mang rất nhiều hình thù đa dạng sai khác như kinh Hoa Nghiêm[18] phẩm “Thế Giới Thành Tựu”, Bồ tát Phổ Hiền bảo đại chúng:
“Này các thiện nam tử, thế giới hải có nhiều hình tướng sai biệt, hoặc tròn, hoặc hình như nước xoáy, hoặc hình như hoa, có vi trần số hình sai khác.”

Hay Phẩm “Hoa Tạng Bồ Tát”, Bồ Tát Phổ Hiền giảng rằng:
“Này các Phật tử, tất cả thế giới chủng đó, hình trạng đều khác nhau hoặc hình núi tu di, hoặc hình sông, hoặc hình xoay chuyển, hoặc hình nước xoáy, hoặc hình trục xe, hoặc hình hoa sen, có vi trần số hình trạng như vậy."

Quan điểm mô tả tướng trạng vũ trụ của Phật giáo đã xuất hiện từ lâu xa vào những kỷ nguyên trước Tây lịch và mãi hơn 21 thế sau, vào cuối thế kỷ 16, khoa học (Giardano Bruno) mới bắt đầu đưa ra quan niệm về một vũ trụ bao la vô cùng vô tận. Trong đó, ngoài thế giới của chúng ta còn có vô số các thế giới khác nhau với vô số mạng sống (life-forms) khác nhau.

So sánh với những hình trạng dáng mạo của những chòm sao, dãy ngân hà, thiên hà do khoa học khám phá trong sách, báo chí, tivi và slice show, chúng ta thấy Phật giáo đã mô tả thế giới giống như vậy.

Tóm lại, những khám phá gần đây của khoa học rất phù hợp với quan niệm về nguồn gốc con người và vũ trụ trong Phật giáo. Điều này chứng tỏ rằng những tư tưởng của Phật giáo đã đi trước khoa học khá xa.

Khoa học gia Walt Wihitman cho rằng chính khoa học đã vén bức màn bí mật của khoa học
(...worlds unthought of until the searching mind of science laid them open to mankind)[19].

Nhưng thật ra Đức Phật đã thấy điều này từ những năm trước công nguyên.

Vâng đúng vậy, “Hãy giữ tâm của bạn vững chắc và bình tĩnh trước cả tỷ vũ trụ bao la đầy ngạc nhiên này”
(Let your soul stand cool and composed before a million universes)[20].

VẤN ĐỀ THỨ TƯ được thuyết trình là hành tinh của con người.

Với những hình ảnh màu gợi đầy tính tìm hiểu hiếu kỳ trong sách khoa học cùng với những hình ảnh trong các slice show do Zartha và nhà khoa học (Astronaut) Sunita Williams và sưu tầm đã cho chúng ta thấy trái đất nhỏ hơn mặt trời.
Mặt trời nhỏ hơn thế giới Sirius. Sirius nhỏ hơn Polluv. Polluv nhỏ hơn Arturus. Arturus nhỏ hơn Rigel. Rigel nhỏ hơn Aldobasan. Aldobasan nhỏ hơn Antares.
Trái đất nhỏ như một chấm cát, một điểm mực khi so với các dãy ngân hà, thiên hà và các ngôi sao đó.

Theo quan điểm thông thường của số đông, trái đất rộng lớn với năm châu, bốn biển, rừng vàng, đất bạc mà so với các thế giới khác còn nhỏ bé tí tẹo huống chi bản thân của chúng ta như nhà khoa học Christian Huygens nói:

“Nhìn vào tổng thể, vũ trụ thật là bao la trong khi trái đất chúng ta đang sống thì không đáng kể chút nào”.
(How vast those Orbs must be, and how inconsiderable this Earth)[21].


Vũ trụ không đáng kể thì năm châu quá nhỏ thì khi so sánh với năm châu thì năm châu quá nhỏ bé. Năm châu nhỏ nhít thì nước Việt Nam, Ấn Độ, Hoa Kỳ càng nhỏ nhít. So với ba nước đó thì tấm thân đất nước gió lửa bèo bọt này của mình thật không đáng kể chút nào.
Thế nên, hiểu biết về vũ trụ quan giúp cho chúng ta thấy rõ chân lý “vô ngã” (no-self) của Phật giáo, thấy được thân tứ đại vô cùng nhỏ bé của mình.
Điều này cũng giúp cho chúng ta thấy được những tranh cải hơn thua, bạn giỏi hơn, vĩ đại hơn, quyền lực hơn, độc đáo hơn, quan trọng hơn, to cao hơn, và vv…. đôi khi thật là vô nghĩa. Hãy sống với sự tỉnh thức.
Đây là hành tinh xanh của chúng ta
Tất cả chúng ta chỉ là một điểm rất bé tí rất không đáng kể trong một dấu chấm xanh nhỏ của trái đất này.

Chúng ta thật nhỏ nhen so với cái vô cùng của vũ trụ này. Những khó khăn chướng ngại, những khác biệt của chúng ta thật không đáng kể so với vũ trụ bao la. Hành tinh chúng ta đang sống thật là mong manh. Hãy chăm sóc hành tinh này bởi vì nó là ngôi nhà duy nhất để xác thân tứ đại này nương sống.

Sau khi thuyết trình viên kết thúc bài giảng, chư tôn đức tăng ni đã góp ý như sau:
Hòa Thượng Thích Chơn Thành:
-"Cám ơn Ni Sư Giới Hương đã thuyết trình và cho xem các slice show chiếu giới thiệu về vũ trụ quan thật là vô giá. Hình ảnh của vũ trụ chiếu rất đẹp, rất quý nhưng tâm của chúng ta còn đẹp hơn nữa nếu chúng ta biết phát huy.
Khi trước tôi cũng có nghiên cứu về điều khoa học đôi chút, nên tôi biết một năm ánh sáng = 6 trillion miles (6.000.000.000.000 dặm) và những nghiên cứu gần đây của khoa học cho thấy có nhiều thế giới đang có mặt đã giúp soi sáng thêm những gì Chư Phật đã thấy.
Thiên chúa thì nói thế giới do Chúa sáng tạo, Hindu thì nói do đấng Phạm thiên, các tôn giáo khác thì cho có đại ngã, thần linh...
Phật giáo chủ trương vô ngã, vô pháp, không thật thể, sanh trụ dị diệt, vì thế chúng ta không nên vướng vào các phiền não của ngã và pháp."


Hòa Thượng Hóa Chủ Thích Quảng Thanh:
-"Thay mặt Chư Tôn đức, cám ơn Ni Sư Giới Hương đã thuyết trình về vũ trụ quan cho thấy khoa học có nhiều ý phù hợp với kinh điển và đã chiếu những hình ảnh rất quý giá. Ni sư đã bỏ nhiều thời gian trong việc biên soạn các tài liệu và sưu tầm hình ảnh để giới thiệu.
Đề tài này khiến chúng ta tự hỏi không biết lúc trước chúng ta ở thế giới nào, luân hồi vào các thế giới nào? Biết đâu chúng ta đã đi qua nhiều hành tinh xa xôi nào đó. Ta đã có mặt ở đâu đó và bây giờ ngồi tại chánh điện chùa Bảo Quang để tu tập và phát nguyện sanh về thế giới Phương tây của Đức Phật A Di Đà. Thế giới ấy là một trong vô số thế giới bao la mà chúng ta vừa xem phim."


Ni Sư Như Bảo:
-"Cũng xin cảm ơn Giới Hương đã đưa quý chư Tôn đức và đại chúng đi du lịch khắp năm châu, lên núi, xuống biển, đi ban ngày rồi đêm (phim chiếu năm châu sáng rỡ lúc ban ngày và lộng lẫy lung linh ánh đèn lúc đêm khuya).
Rồi đi lên sao hỏa, mặt trăng, mặt trời và vòng quanh vũ trụ bao la. Tôi có cảm giác rất thích. Khi nảy Giới Hương cũng có kể chuyện nhổ mũi tên độc. Hy vọng nếu còn thời gian, xin Giới Hương giải thích thêm về cách thức nhổ mũi tên."


Thượng Tọa Tâm Thành góp ý:
-"Hôm nay tại chùa Bảo Quang, tôi, Tâm Thành khi nghe Ni Sư Giới Hương thuyết trình đề tài “Trầm Tư Về Vũ Trụ Xung Quanh Chúng Ta”, tôi xin bổ sung vào hai câu chuyện để thấy rằng trong các kinh nêu ra rõ ràng có nhiều thế giới xung quanh. Đặc biệt rãi rác trong các Bộ A Hàm, hay Trung Bộ Kinh, vân vân…Thật ra, tôi không nhớ tên rõ của các tựa kinh này vì đọc đã lâu, nhưng xin tóm lược lại như sau:

Câu chuyện thứ nhất là có những vị trời thường vào đêm khoảng 12 giờ khuya đến 2 giờ sáng hay bay đến Tịnh Xá Kỳ Hoàn để nghe Đức Phật thuyết pháp. Những vị trời này ánh sáng hào quang rạng rỡ soi rõ cả khu vườn, có vị ánh sáng lớn hơn. Khi ngài A-nan thấy những ánh sáng đó, ngài thường thưa hỏi Đức Phật đó là những vị trời nào, có duyên sự gì đến đây, ở thế giới nào đến mà ánh sáng chói ngời như thế và đi có lâu không? Đức Thế Tôn liền kể tên của các vị trời, tên thế giới và nhân duyên các vị đó muốn đến xin Thế Tôn chỉ dạy pháp gì, vv...

Đặc biệt khi Đức Phật trả lời cách đi và tốc độ bay của các vị trời từ thế giới này đến thế giới khác thì ngài cho một ví dụ như sau: Ví như một nhà đại lực sĩ duỗi cánh tay (ý nói rất nhanh) thì vị trời kia từ thế giới đó biến mất và hiện ngay trước mặt Đức Như Laì. Nếu theo các kinh so sánh thì ta có thể thấy thần thông của các vị trời bay nhanh hơn tốc độ anh sáng (300,000 km/giây).

Theo khoa học hiện đại ta cũng biết khoảng cách từ mặt trời đến trái đất khoảng 149 triệu km (cây số) và thời gian ánh sáng mặt trời từ trái đất là khoảng tám phút. Nếu so thần thông của một vị trời và tốc độ ánh sáng ta thấy các vị trời này đi nhanh hơn.

Câu chuyện thứ hai xin nói về tuổi thọ hay thọ mạng (thời gian sống lâu hay mau) của các vị tiên so với con người ở trái đất. Kinh A-hàm kể như sau:

Có một tiên nữ đang đi hái hoa buổi trưa, bất chợt cô cảm thấy mệt và ngủ thiếp đi hơn hai giờ. Thần thức của vị tiên nữ kia sanh vào nhà người giàu có ở thành Xá Vệ. Nàng là con gái của một trưởng giả có nhan sắc và được gả cho một công tử. Sau khi hạ sanh được một đứa con trai, cô bỗng nhớ lại kiếp trước của mình là một vị tiên nữ đang hái hoa và cô phân vân không biết làm sao để lên lại cõi trời? Cô cần phải có đủ phước đức mới được trở lại kiếp làm tiên nữ.

Nghe nói tu Bát Quan Trai Giới sẽ có nhiều phước đức nên cô ráng tu để trở về chốn cũ. Sau vài năm tu tập, cô cũng hạ sanh thêm vài người con cho công tử và cô chết khoảng tuổi 26. Lúc đó, ai cũng thương tiếc và ngạc nhiên vì cô rất xinh đẹp, tánh tình dễ thương, chuyên làm việc thiện mà sao lại chết quá trẻ, nên đến hỏi Đức Thế Tôn.

Đức Phật trả lời vì cô ta muốn về chốn cũ có người chồng trên trời mới là chính. Sau khi cô tiên nữ nhập hồn trên trời đi về cung điện, người chồng tiên hỏi tiên nữ: “Nàng nảy giờ đi đâu?” Tiên nữ trả lời: “Hồi nảy giờ thiếp đã xuống trần gian. Thiếp được gả cho một công tử tại thành Xá Vệ và đã hạ sinh ba người con cho người chồng dưới thế gian ấy”. Vị phu quân trời mới nói:
“Sao mà mau thế!’

Thế nên, khi nói đến thời gian hay thọ mạng sự sống, ta có thể nói tùy theo thế giới mà có thời gian và tuổi thọ khác nhau, không nhất thiết căn cứ vào hành tinh trên trái đất chúng ta đang ở.

Tôi cũng xin trả lời câu nói Đức Phật ít trả lời những câu hỏi về thế giới và vũ trụ rằng thế gian này thường hay vô thường, hữu biên hay vô biên vv... Lý do là tùy theo trường hợp mà Đức Phật trả lời hay không. Ngài thường im lặng với những người không có tâm học hỏi để tu tập mà cốt để hí luận.

Còn các vị nào đã hiểu và có tâm cầu giác ngộ như các Bồ tát, thì Đức phật sẽ mô tả thế giới này kia như kinh Hoa Nghiêm, Pháp hoa mô tả. Vì những vị này đã nhổ được mũi tên độc và đã uống thuốc trừ độc, đã được giải thoát có được thần thông nhìn suốt, bay đi tự tại thì thấy được các thế giới rồi.
Xin cám ơn quý vị đã lắng nghe.

Chùa Hương Sen Moreno Valley, ngày 27 tháng 7 năm 2010
Kính tường,

Thích Nữ Giới Hương



TÀI LIỆU THAM KHẢO:
• Sách The Universe and Beyond (Terence Dickinson, 4th edition, 2004)
• Các bài viết về Phật Giáo và Khoa Học của Trần Chung Ngọc
• Slice show: Mars, Universe Special English Astronomy 2 with the Blue Wonderful Planet and Blue Beauty of Astronaut Sunita Williams.

Nguồn: http://quangduc.com/file_chinh/view_detail.php?ID=5716&bk_id=29


Đôi dòng giới thiệu

Ni Sư Thích Nữ Giới Hương
Thế danh Phạm Thị Ngọc Dung, sinh năm 1963 tại Bình Tuy, Thuận Hải.
Xuất gia năm 1978 với Sư Bà Hải Triều Âm, thọ Cụ Túc Giới năm 1982.
Tốt nghiệp Cử Nhân Phật Học 1992 tại Sàigòn.
Du học Ấn Độ năm 1993, tốt nghiệp MA năm 1997
Tốt nghiệp Tiến Sĩ Phật Học tại Dehli University, India năm 2003.
Đến Hoa Kỳ định cư vào tháng 9 năm 2005.
Hiện khai sáng và trụ trì Chùa Hương Sen tại Moreno Valley, California, USA.


AToanMT
 
FORUM » TRANG PHẬT GIÁO » PHẬT-SỰ MUÔN NƠI » KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO (RFI)
  • Page 1 of 1
  • 1
Search:


TỰ-ĐIỂN TRỰC-TUYẾN :

Từ Điển Online
Bấm vào dấu V để chọn loại Tự-Điển
Gõ Chữ muốn tìm vào khung trắng dưới đây:
Xong bấm GO