Thứ Tư
08 May 2024
3:31 PM
ĐĂNG NHẬP


Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

[ BÀI VIẾT MỚI · Forum rules · TÌM KIẾM · RSS ]
  • Page 1 of 1
  • 1
Forum moderator: cafesnt  
FORUM » TRANG CLIP - ÂM NHẠC & HỘI-HỌA » ÂM NHẠC » HOÀI CẢM (CUNG TIẾN)
HOÀI CẢM
atoanmt Date: Thứ Năm, 29 Nov 2012, 0:07 AM | Message # 1
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 5081
Status: Tạm vắng


Cung Tiến, một chân dung nghệ sĩ Việt Nam tiêu biểu

Nguyễn Mạnh Trinh




Thu Hà Nội


Có người hỏi thơ và nhạc có gì liên quan với nhau không? Hình như trong sự gợi ý, thơ và nhạc có tác dụng hỗ tương với nhau, nhạc tháp cánh cho hồn thơ và thơ làm nồng nàn hơn cho ý nhạc. Một người đã học âm nhạc từ nhỏ, đã làm thơ, đã dịch thơ và yêu thơ, đã có những lời nhạc đầy chất thơ lại có lúc liên tục phổ nhạc những bài thơ của các thi sĩ nổi tiếng và đã tạo thành những sáng tác độc đáo đầy chất sáng tạo. Ông lấy cảm hứng từ các thi sĩ khác dù những ca từ của những bản nhạc đầu tay đẫm chất thơ. Người ấy là nhạc sĩ Cung Tiến tác giả của những Hương Xưa, Thu Vàng, Hoài Cảm, những bản nhạc sáng tác từ thuở còn học trò nhưng lại có đời sống âm nhạc trường cửu.

Cung Tiến là một vóc dáng nghệ sĩ đa diện.
Là dịch giả, người viết truyện ngắn, người phê bình văn học giới thiệu các trào lưu văn học thế giới, với tên tuổi là Thạch Chương.

Là người viết ca khúc, soạn hòa âm, viết nhạc giao hưởng với tên tuổi Cung Tiến.

Ông cũng là một nhà phân tích và nghiên cứu kinh tế, đã du học ở Úc, rồi sau du học và tốt nghiệp tại trường đại học danh tiếng Cambridge ở Anh.

Ông cũng còn là một người hoạt động rất tích cực của phong trào tranh đấu cho nhân quyền International Federation of Human Rights.
Trong thập niên 1980, ông đã gửi tên tuổi những văn nghệ sĩ Việt Nam bị cầm tù bởi chính quyền Hà Nội đến các tổ chức, các phong trào quốc tế để thúc đẩy nhà cầm quyền Việt Nam phải thực hiện đúng những cam kết trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc là trả tự do cho những người làm văn học nghệ thuật của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Với tên tuổi Thạch Chương ông là người đã chuyển dịch sang Việt ngữ hai danh phẩm văn chương quốc tế, Một ngày trong đời Ivan Denisovitch của Alexander Solzhenitsyn và Hồi ký viết dưới hầm của Fyodor Dostoyevsky.
Dostoyevsky là một trong những đại gia của tiểu thuyết Nga trong thế kỷ 19, đã mang những triết lý từ cảm xúc trong những tác phẩm mổ xẻ và phân tích làm nổ bùng ra những luận đề sâu sắc về tâm lý chính trị, tôn giáo và xã hội. Hồi ký viết dưới hầm là một tác phẩm viết về chủ đề của con người phải chịu đựng những thống khổ nội tâm, của những nỗi u uẩn của kiếp nhân sinh. Tác phẩm này là một bắt đầu của sự nghiệp văn học lừng lẫy của Dostoyevsky và cũng là cao điểm của văn chương Nga và được coi như là một tác phẩm “classic” của nhân loại.

Còn Alexander Solxhenitsyn, giải Nobel Văn Chương năm 1970, người đã bị tống xuất khỏi Nga đi lưu vong vì chống đối lại chính sách của Stalin,
với Một ngày trong đời Ivan Denissovitch, đã lột trần chế độ toàn trị ở Nga Xô Viết dưới thời độc tài Stalin với tất cả những kỹ thuật và chính sách nhằm hạ thấp giá trị con người xuống hàng súc vật...

Ông cũng thường dịch thơ và đăng rải rác trên các tạp chí văn học. Thí dụ bài dịch thơ từ Federico Garcia Lorca, Bài ca khóc Ignacio Sanchez Mejias có những câu thơ gợi nhiều liên tưởng và cảm xúc. Federico Garcia Lorca được tôn xưng là một nghệ sĩ vĩ đại của Tây Ban Nha trong thế kỷ 20 sống trong thời kỳ của tướng Franco. Còn Ignacio Sanchex Mejias là một bạn thân của ông, là một người đấu bò nổi danh của xứ Andalusian. Bài thơ gồm 4 đoạn và trong đó có những câu được dịch bởi Thạch Chương:


Tôi muốn họ chỉ cho tôi những con đường nào ra thoát
cho vị tướng soái mà tay chân thần chết đã trói buộc
Tôi muốn họ chỉ cho tôi những giọt lệ nào như một giòng sông
Có những sợi mây hiền lành và những bến bờ sâu thẳm
Để ẵm đi thể xác của Ignacio và để chàng chìm xuống
Không còn nghe bên tai những hơi thở trùng điệp của con bò rừng
Để xác chàng chìm sâu vào đấu trường tròn của vầng trăng...

Với Thạch Chương, người viết truyện ngắn? Truyện ngắn của Thạch Chương có vóc dáng về những nhân vật được phác họa khá lạ lùng, của một không gian thời gian nào lửng lơ giữa cảm giác và đời sống thực. Cảnh vật, dường như có chất biểu tượng và con người như có gắn liền để tạo thành một tổng hợp văn chương rất riêng. Thí dụ như truyện ngắn Tinh Cầu trong Tuyển Truyện Sáng Tạo. Một truyện ngắn mà theo tôi có chiều sâu của một suy tư khác lạ với đời thường...

Thạch Chương trên các tạp chí văn học như Sáng Tạo, Nghệ Thuật, Văn, Vấn Đề, trước năm 1975 và Đặng Hoàng trên các tạp chí văn học hải ngoại sau 1975 có những bài khảo luận công phu.
Ông đã viết về nhà nhân chủng học nổi danh người Pháp Claude Levi- Strauss cha đẻ ra Cơ Cấu Luận (Structuralisme), về nữ tiểu thuyết gia người Anh Virginia Woft tác giả của những tiểu thuyết như The Waves hay Between the Acts và đã tự tử trên giòng sông và không tìm được thi thể...

Cung Tiến cũng là người giới thiệu Club De Rome gồm một số đông các khoa học gia thuộc đủ mọi ngành trên thế giới họp ở thành phố La Mã nêu ra những vấn đề cấp thiết của con người trên hành tinh trái đất mỗi ngày một chật hẹp.
Ông đã dịch cuốn sách The Limits of Growth thành Giới hạn phát triển, là tiếng kêu cảnh báo loài người trước những hiểm họa sắp tới. Trong cuốn sách này, những mục tiêu cũng như cơ cấu của một nền kinh tế toàn cầu của cuối thập niên 60 được phác họa.

Vào những năm của thập niên 70, Cung Tiến còn dịch một tác phẩm khác tiếp theo của Club De Rome, cuốn The Turning Point of Mankind (Chỗ rẽ của nhân loại). Đây là những ý kiến có ảnh hưởng nhiều đến cộng đồng thế giới. Bản dịch của Cung Tiến, được đăng trên tập san Quốc Phòng, được coi như một tài liệu cần thiết để nghiên cứu về chiến lược áp dụng cho quốc gia Việt Nam.

Nhà văn nhạc sĩ Cung Tiến có tham chính và là một thành viên của nội các Đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975.
Ông là Thứ trưởng kiêm Tổng Giám đốc Kế Hoạch cho ông Tổng trưởng Kế Hoạch Nguyễn Tiến Hưng.
Sau năm 1975, ông là chuyên viên kinh tế nghiên cứu và phân tích của Department of Economic Security của tiểu bang Minnesota. Hiện ông đã về hưu.

Cung Tiến là người yêu thơ và sống với thơ. Trong vai trò của một người nhận định văn học ông có viết nhiều về đề tài thi ca. Tôi chỉ đọc được một vài bài. Thí dụ như bài viết Sự chán chường trong phê bình văn nghệ đăng trên Sáng Tạo bộ mới số 1. Từ những nhận định của nhiều người, kẻ chê người khen, về thơ Thanh Tâm Tuyền, ông muốn đi tìm một khuôn mẫu phê bình và nhận định vượt qua được những thiên kiến chủ quan.
Cung Tiến viết:
“Và cuối cùng, câu hỏi quan trọng hơn cả là đâu là tiêu chuẩn của những tiêu chuẩn đó (và ta sẽ hỏi đến mãi vô cực)!"

Đó là những câu hỏi cực kỳ quan trọng. Chỉ khi nào trả lời được, ta mới có quyền đặt bút phê phán giá trị. Cho nên tất cả những công trình đặt định giá trị của mọi nhà phê bình xưa nay Đông Tây, đều theo ý tôi, là những công việc vô lợi, đẫm màu chủ quan, hay là có một thứ khách quan hư ngụy, vô nghĩa.
Chúng không cho lòng tin về sự đẹp của ta một lý do vững chắc nào. Chúng giống như những loại mệnh đề tuyên truyền của tôn giáo, những thứ mệnh đề ngầm ẩn những quan niệm tiên thiên, siêu việt toàn phi lý (irrationnel).
Đau khổ hơn là nếu những từ ngữ đánh giá (termé evaluateurs) đó có thể chỉ là những tiếng hiệu triệu đẫm xúc cảm thì có thực chúng ta đã muôn đời tự lừa dối chúng ta mỗi khi dùng chúng (Mà giây phút nào không đúng). Thế nào là giá trị? Thế nào là chân, là thiện, là mỹ? Đâu là một vài lý do cho lòng tin, một lòng tin nho nhỏ của ta? Câu hỏi ném lên không trung, chỉ sóng gió thầm thì trả lời. Đó là nỗi chán chướng trong việc phê bình văn nghệ hôm nay”.

Nhà văn nhạc sĩ Cung Tiến ở ngoài đời thường có nhiều giai thoại lý thú. Như một người bạn thân của ông, nhà văn Phan Lạc Phúc, đã kể lại trong Tuyển Tập Tạp Ghi một giai thoại khá vui vui về nhà văn nhạc sĩ Cung tiến. Ông Phan Lạc Phúc kể:
“Ngày thường gặp Cung Tiến, anh trang nhã thận trọng pha một chút lạnh lùng kiều Ăng-lê Cambridge. Nhưng trong những lúc phùng trường tác hí, nhất là khi đã nhậu dăm ba consommation rồi là Cung Tiến phừng phừng bất cần đời. Chúng tôi có thói quen ăn nhậu rồi vào khoảng 10 giờ, 11 giờ đêm là kéo đến Đêm Màu Hồng.

Chủ quán Phạm Đình Chương đã dành sẵn một chỗ ngồi riêng giá biểu riêng cho bạn hữu như đã thành lệ khi Cái Bang đến là Phạm Đình Chương hay Thái Thanh chuyển hướng đề tài. Bữa ấy “cổ kim hòa điệu” diễn ra hơi dài. Cung Tiến khật khưỡng bước ra sân khấu, gạt người đánh piano ra một bên, rồi ngồi xuống dạo Senerade. Cổ kim hòa điệu với nhạc Schubert thì không thể nào “đi” với nhau được, nó ngang phè phè.
Một khán giả mặc quân phục dù, mũ đỏ chợt bước lên. Anh tiến lại chỗ Cung Tiến đánh đàn và nắm lấy tay. Cung Tiến không nhìn lên, hất tay ra, vẫn tiếp tục dạo đàn và nói
“đi chỗ khác chơi”.

Chủ quán Phạm Đình Chương biết là có chuyện vội đứng ra xin lỗi. Nhưng không kịp nữa rồi. Một vài tiếng nổ xé tai của chai la de vỡ nổi lên. Một vài người bạn dù cùng đi đã nắm cổ chai la de vỡ kéo lên sân khấu. Tất cả khán phòng im bặt - một sự im bặt bất thần và rùng rợn - chỉ còn một mình Cung Tiến vẫn mê mải đánh đàn.

Vũ Khắc Khoan vội bước ra. Dù đã nhậu sương sương nhưng Vũ Khắc Khoan vẫn còn đủ tỉnh táo để nắm lấy vai người sĩ quan dù mũ đỏ mà nói khẽ
“Anh học trò tôi có phải?”

Người sĩ quan dù đang hầm hầm sắc giận vội vàng nhìn lại rồi đổi giọng
“Thưa thầy...”

Người sĩ quan ấy là môn sinh của họ Vũ, không biết ở Chu Văn An hay ở Văn Khoa. Họ Vũ khoác vai người sĩ quan dù và nói: “Thôi... anh em cả”.

Người đánh đàn say không nhận được việc gì đã xảy ra sau lưng anh. Nếu không có Vũ Khắc Khoan đêm ấy... sự việc sẽ không biết còn diễn biến thế nào...”

Nhà văn Phan Lạc Phúc nhận xét:
“Có hai con người trong một Cung Tiến. Một con người duy lý, muốn đi đến cùng lý luận, một con người khác duy cảm - muốn thỏa mãn ngay những đòi hỏi của mình".

Con người nào ưu thắng trong Cung Tiến? Tôi vẫn nghĩ là con người duy lý. Cung Tiến chỉ “bốc đồng” khi uống rượu say. Bình thường, như đã nói ở trên, Cung Tiến trang nhã và thận trọng. Ở trong địa hạt Cung Tiến yêu thích nhất: âm nhạc, Cung Tiến cũng rất là duy lý. Những bài hát đầu tay như Thu Vàng, Hương Xưa, Nguyệt Cầm, Hoài Cảm... dù được yêu thích đến thế nào chăng nữa, đối với Cung Tiến, vẫn chỉ là bài tập - một giai đoạn cần phải vượt qua...”

Có một bài thơ của một người bạn viết về Cung Tiến với sự chia sẻ lớn lao. Tình cờ tôi được đọc một bài thơ của tác giả Phạm Nguyên Vũ. Ông là bạn thân với Cung Tiến, đi du học ở Úc thuộc thế hệ đầu tiên và có đăng thơ trên tạp chí Sáng Tạo bộ cũ. Thơ của ông có nét hồn nhiên của tuổi trẻ, có nét khai phá của những bước chân bước đến đầu tiên, nhưng ít có chất làm dáng trí thức mà lại có sự chân thực của người hăm hở đi tìm kiếm nét mới lạ cho thi ca của mình. Bài thơ của ông viết tặng bạn là Và Cung Tiến:


Nhạc của hồn ta phải không
Hay của những đêm
xa gia đình nhớ điên cuồng
mỗi một bóng cây là
tiếng thì thầm bạn hữu
nhạc của hồn ta hay nơi đây
của đêm sao đầy mắt
đầy linh hồn
ôi đêm tỉnh dậy nghe
trong khuya yên lặng nên
giọng lời nghe từng tiếng
em nào có biết đâu
mỗi giòng nhạc của anh hay của bạn anh
đều nói những ngày mai chưa đến
em nào tin sự êm đềm
và đau khổ ngày qua
như chẳng tin đời ta
có hai kẻ đọa đầy
bằng lên tiếng thay cho người khác.


Có nhà văn đã phát biểu rằng ca khúc của Cung Tiến đều là những bản dịch từ thơ sang nhạc. Nhà văn nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn đã có nhận xét ấy. Ông còn nói đó là rượu cất từ trái nho chứ không phải là rượu ngang. Nhạc sĩ Cung Tiến là người có kiến thức sâu rộng về nhiều mặt, ngoài viết nhạc ông còn là một dịch giả văn chương và là một chuyên gia kinh tế nhưng ông yêu thơ. Lời ca của ông có một vẻ gì đó như được chiết ra từ thơ, thơ của những người ông đã đọc, thơ của trời đất và của chính tâm hồn ông. Tôi nghĩ điều đó hiển nhiên và nhà văn Nguyễn Đình Toàn đã có một nhận xét chính xác về nhạc sĩ nhà văn Cung Tiến.

Chúng ta đã tản mạn về chân dung văn chương Cung Tiến qua bút hiệu Thạch Chương và Đăng Hoàng. Vóc dáng nghệ sĩ của ông thật đa dạng và ở bất cứ một địa hạt nào cũng đều là kết quả của sự học hỏi khổ luyện từ khởi đầu của một bộ óc suy tư và nhạy cảm. Chúng ta sẽ cùng bước chân vào cõi khai phá của một người nghệ sĩ luôn tìm tòi mong đạt được đến đỉnh cao nhất của những sáng tác để đời.

Nếu có người hỏi suy nghĩ thế nào về nhạc Cung Tiến. Câu hỏi ấy có khó cho người trả lời không? Có lẽ không. Nhưng trả lời thì phải dài dòng. Chúng ta như đi vào một khu rừng và chỗ nào cũng muốn bước đến, chỗ nào cũng đầy mùi thơm của hương hoa, của đất trời. Nếu trả lời thật giản dị là yêu thích nhạc Cung Tiến nhất cũng xong, nhưng nếu đi tìm những kỳ hoa dị thảo thì có lẽ cũng tốn hao thời giờ nhiều lắm. Nhưng nếu nói một cách thành thật nhất thì tôi yêu thích một vài bản nhạc Cung Tiến vì có một vài kỷ niệm với nó.

Không hiểu tại sao cứ mỗi lần nghe lại bản nhạc Hương Xưa là tôi lại nhớ đến một người bạn đã chết trên chiến trường Tây Nguyên năm 1972. Lúc đó tôi ở Pleiku và có một người bạn là phi công trực thăng thường hát luôn miệng hai câu nhạc đầu của bản nhạc Hương Xưa và chỉ láy đi láy lại hai câu ấy mà thôi,


“Người ơi! Một chiều nắng tơ vàng hiền hòa hồn có mơ xa. Người ơi! Đường xa lắm con đường về làng hồn có mơ xa...”.


Những buổi chiều nhạt nắng, ngồi ở thảm cỏ đầu hiên barrack chờ đi ra phố ăn cơm, nhìn trời nhìn đất mà nghe những câu hát ấy thì quả là buồn nẫu ruột. Có lần tôi hỏi anh bạn sao hát hoài chỉ có một câu hát ấy thôi thì anh hồn nhiên trả lời
“Vì câu hát mà tôi gọi người ơi là để nhớ tới em bé của tôi”.

Tôi bực mình kê nhẹ,
“Nhớ gì mà nhớ lắm thế? Cứ nhè mỗi buổi chiều hiu hắt như thế này mà nhớ thì thiệt là hại bạn vô cùng!”

Anh cười trừ và đánh trống lảng. Nhưng rồi một ngày, con tàu của anh tan vỡ trên không và anh đã ra đi trong phi vụ ấy. Lúc nghe tin dữ, tôi lạnh buốt cả người. Và tự nhiên câu hát ấy cứ lởn vởn trong tâm trí tôi. Buổi chiều về cư xá, hình như tôi vẳng nghe câu hát. Những câu người ơi của tha thiết tự tình. Những chữ người ơi của một mối tình đã tử biệt sinh ly.

Tôi hình dung lại vóc dáng của người bạn và thấy khao khát vô cùng làm sao nghe được câu hát xưa. Nhưng người bạn đã ra đi và không hiểu tại sao cứ mỗi lần nghe bản nhạc ấy là như sống lại một thời thuở đó, của những ngày tuổi trẻ tưởng như mới đây mà đã hơn mấy chục năm. Nhạc để nhớ bạn và tôi đã từ những ca từ ấy để trở về nỗi niềm của hoài vọng xa xưa...

Thật là một kỷ niệm buồn! Nhưng chẳng lẽ yêu nhạc Cung Tiến chỉ vì lý do ấy thôi sao? Mà vì có nhiều lý do.

Một trong những lý do là nhạc của ông tượng hình cho những bước chân suốt đời đi tìm kiếm. Luôn luôn thay đổi, từ phong cách đến ngôn từ, nhất là nhạc của ông dường như gắn liền với thơ, với những khung trời thơ mộng lãng mạn.
Trong hành trình sáng tác, từ nhạc có lời sang nhạc không lời, từ những bản nhạc đầu tay như Hoài Cảm, Hương Xưa như những bài thơ văn xuôi trữ tình sang cả đến những bản nhạc về sau vượt qua cửa ải ngôn ngữ. Nhạc không lời có âm vực riêng và có phong cách diễn tả dễ làm người nghe xúc động.

Nhạc của Cung Tiến liên quan thế nào với thi ca?
Năm 1987, Cung Tiến viết nhạc tấu khúc Chinh Phụ Ngâm soạn cho 21 nhạc khí được trình diễn tại San Jose với dàn nhạc thính phòng. Chinh Phụ Ngâm của Hồng Hà Nữ Sĩ Đoàn Thị Điểm là một áng thi ca nổi danh của dân tộc Việt Nam viết về một giai đoạn chiến tranh của đất nước.

Theo lời phụ dẫn của tác giả thì thi phẩm này vô cùng súc tích về cảnh, về cách sử dụng ngôn ngữ cũng như nhạc đệm của tiếng Việt. Vì thế không ai dám nghĩ đến việc phổ nhạc cả tập thơ để hát mà chỉ dùng nó như một cảm hứng cho sáng tác của mình. Do đó, nhạc tấu khúc này cũng chỉ là một cố gắng “minh họa” chấm phá bằng nhạc một số tình, ý, và cảnh chính yếu trong tập thơ mà thôi. Theo đúng thứ tự xuất hiện trong thi phẩm của bà Đoàn Thị Điểm thì tập nhạc gồm 4 phần:
Phần giáo đầu, với sự phụ họa của các nhạc khí, sẽ được ngâm giọng sa mạc mười hai câu thơ mở đầu cho tập Chinh Phụ Ngâm:
“Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên...”


Phần thứ hai: Chuyển động I – Nước thanh bình – Cơn gió bụi. Minh họa 2 câu:

“Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc đao cung”.


Chuyển động chấm dứt bằng cảnh tiễn biệt, chia tay của chinh phu chinh phụ.

Phần thứ ba: Chuyển động II: Nhạc đề chính từ 4 câu thơ:

“Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn”.


Chuyển động III – Mộng khải hoàn. Chủ đề chính là 2 câu thơ:
“Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải
Tiếng khải ca trở lại thần kinh”,


và 2 câu thơ:


“Giở khăn lệ chàng trông từng tấm
Đọc thơ sầu chàng thấm từng câu”.


Phần bạt: từ 4 câu chót của Chinh Phụ Ngâm:

“Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ?
Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình
Ngâm nga mong gửi chữ tình
Dường này âu hẳn tài lành trượng phu”.


Năm 1982, nhạc sĩ Cung Tiến lấy 12 bài thơ của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền để soạn thành ca khúc lấy tên là Vang Vang Trời Vào Xuân.
Năm 1992, ông hoàn thành tập Nhạc Ta Về -thơ Tô Thùy Yên cho giọng hát, nói, ngâm và một đội nhạc cụ thính phòng.

Năm 1993, ông soạn Tổ Khúc Bắc Ninh cho dàn nhạc giao hưởng với sự tài trợ của The Saint Paul Companies để nghiên cứu nhạc Quan Họ Bắc Ninh và các thể loại dân ca Việt Nam khác.

Năm 2003, ông hoàn thành một sáng tác nhạc đương đại Lơ Thơ Tơ Liễu Buông Mành dựa trên một đoạn dân ca Quan Họ.

Trường hợp nào mà ông phổ nhạc thơ của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền.

Chính nhạc sĩ đã kể lại về trường hợp sáng tác này:
“Năm 1991, họa sĩ Duy Thanh từ San Francisco gửi cho tôi tập văn/ thơ/ nhạc Tắm Mát Ngọn Sông Đào, do nhà Lá Bối mới in ở Paris, gồm những sáng tác của một số văn nghệ sĩ miền Nam gửi lén ra từ các trại tù cải tạo.
Trong tuyển tập này có một số bài thơ của một Trần Kha nào đó. Duy Thanh, bằng thư tín với gia đình Thanh Tâm Tuyền còn ở Sài Gòn, bảo rằng ấy là thơ “bạn ta” đấy. Quả nhiên khi đọc tôi nghe thấy đúng là ý và lời của Thanh Tâm Tuyền. Sau này được hỏi: “Sao lại Trần Kha? Muốn làm Kinh Kha chăng?”

Thanh Tâm Tuyền đáp
“Tôi đâu có đặt cái tên kỳ cục ấy! Giá như “Trầm Kha” thì nghe còn đỡ hơn”...

Ông đã phổ nhạc rất nhiều. Như bản “Nguyệt Cầm” ý thơ Xuân Diệu.
Như bản “Hoàng Hạc Lâu” từ bản dịch thơ của Vũ Hoàng Chương.
Như “Vết Chim Bay” phổ thơ Phạm Thiên Thư.
Như “Thuở Làm Thơ Yêu Em” phổ thơ Trần Dạ Từ.
Như “Đi Núi” phổ thơ Xuân Diệu.
Như “Đường Hoa” phổ từ hai bài thơ “Đôi Bờ” và “Đôi Mắt Người Sơn Tây” của Quang Dũng.
Như “Khói Hồ Bay” phổ từ bài thơ “Thu ở Vermont” của Nguyễn Tường Giang.
Như bài “Lệ Đá Xanh” và “Đêm” phổ thơ Thanh Tâm Tuyền...

Hình như nhạc sĩ Cung Tiến có một biệt nhãn nào đó với thơ Thanh Tâm Tuyền? Phải nói thơ Thanh Tâm Tuyền rất khó phổ nhạc, bởi vì thơ của ông có âm điệu khá đặc biệt, hay sử dụng vần trắc và diễn tả ý nghĩa cũng theo một cung cách âm vực riêng. Nhưng nhạc sĩ Cung Tiến đã phổ nhạc thành công có lẽ nhờ tình tri âm tri kỷ với nhau.
Sau này, nhạc sĩ đã hỏi nhà thơ khi ông đang định cư tại Minnesota
“Ông làm bài này trong tâm trạng nào?”

về bài thơ “in trong tập Liên, Đêm Mặt Trời Tìm Thấy. Thanh Tâm Tuyền trả lời:
“Tức là... dạo ấy mình đã chán làm thơ quá rồi. Miền Nam thì coi tôi như là thi sĩ tả phái, và miền Bắc thì coi tôi là thi sĩ hữu phái. Thế thì tôi là kẻ untouchable rồi, là hủi rồi chứ còn gì nữa? Thì làm thơ thêm làm quái gì cho mệt?”

Thành ra, bài hát ấy muốn lấy nhạc minh họa cho tâm trạng chán chường day dứt của cái ông thi sĩ lúc nào cũng thấy mình cứ vẫn “còn cô độc” này”.

Có một bản nhạc của Cung Tiến được giải thưởng của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa. Giai điệu ca khúc Mùa Hoa Nở được soạn tại Sài Gòn năm 1955 đáp ứng thông cáo về cuộc thi của Đài Phát Thanh Quân Đội bấy giờ đang kiếm một ca khúc nào nói về cuộc di cư lịch sử vào Nam của những người miền Bắc để tránh chế độ Cộng sản.
Ca khúc Mùa Hoa Nở được chấm giải nhất của Tổng Thống VNCH và được hai đài phát thanh Quốc Gia và Quân Đội trình diễn nhiều lần trong nhiều năm với hòa âm và phối khí cho dàn nhạc của nhạc sĩ Hoàng Trọng.
Nội dung lời ca của ca khúc này nói về giấc mơ khải hoàn của những đoàn chiến sĩ quốc gia tiến về giải phóng Hà Nội...

Có những bài nhạc Cung Tiến hoàn thành rất sớm khi còn tuổi thanh thiếu niên nhưng lại có giá trị trường cửu.
Thu Vàng và Hoài Cảm là những bản nhạc mà Cung Tiến đã sáng tác sớm nhất khi vừa 15 tuổi còn học ở trung học.
Thu Vàng viết về mùa thu Hà Nội của những ngày ấu thơ nhặt lá vàng. Ca khúc trở thành một bản nhạc của những người di cư luôn nhung nhớ quê hương đất Bắc của mình, rất được thính giả ưa thích qua phần trình diễn trẻ trung sống động của Tâm Vấn, Đỗ Tuấn, Kim Tước, Mai Hương,... toàn là các ca sĩ trẻ trong giới sinh viên học sinh.

Tiếp theo, ông viết Hoài Cảm để tặng Đỗ Đình Tuân (tức ca sĩ sinh viên Đỗ Tuấn) và cũng được ái mộ ngay từ buổi trình diễn đầu tiên.
Theo nhạc sĩ Cung Tiến thì “đó là hai trong số những bài hát sớm nhất được viết năm 1952 hồi tôi đang học năm thứ ba bậc trung học.
Người đầu tiên đem phổ biến hai bài này trên Đài Phát Thanh Quốc Gia dạo ấy là Đỗ Tuấn rồi tới ca sĩ Tâm Vấn, nhất là bài Thu Vàng. Giai điệu và hòa âm của hai bài này đơn giản cấu trúc và nhạc thể rất chân phương và lời ca mang ảnh hưởng nặng của các nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu, Huy Cận”.

Hương Xưa là bài nhạc Cung Tiến gửi tặng Khuất Duy Trác, một người bạn thân thiết của ông. Và cũng từ chính giọng hát của Duy Trác đã đem Hương Xưa đến đài phát thanh và các tiền trường sân khấu của các trường trung học hoặc đại học và trở thành một hãnh diện của những người trí thức trẻ say mê văn nghệ.

Nhưng tại sao, chính nhạc sĩ lại coi những ca khúc này như những bài tập (exercise) mà thôi?

Đó là một cá tính của nhạc sĩ Cung Tiến. Trong sự nghiệp âm nhạc của ông có nhiều giai đoạn phải tự vượt qua.
Cung Tiến viết nhạc đầu tay ca từ trữ tình lãng mạn.
Cung Tiến không sử dụng ca từ thi ca của mình mà lại phổ nhạc những bài thơ mà ông ưa thích và quý trọng.
Rồi sau đó ông không viết nhạc có lời nữa mà viết nhạc không lời. Có lẽ ông nghĩ rằng nếu đích thực là âm nhạc thì nhạc có ngôn ngữ riêng và cũng có những quy luật diễn tả tự nhiên như trời đất vẫn hiện hữu.

Với niềm say mê âm nhạc, ông đã học xướng âm và ký âm với hai nhạc sĩ nổi tiếng, Chung Quân và Thẩm Oánh, ở bậc trung học. Du học qua Úc, tuy môn học chính là Kinh tế nhưng ông cũng đã theo học các lớp về dương cầm, hòa âm, đối điểm và phối cụ tại Âm nhạc viện Sydney.
Rồi khi du học bậc cao học về kinh tế học phát triển tại viện đại học Cambridge ở Anh, ông cũng theo học thêm các lớp về nhạc sử, nhạc học, nhạc lý hiện đại.
Và về sau này, ông cũng là người tự học rất nhiều nên trong các tác phẩm của ông đã bày tỏ sự gắng công dù ông có thiên khiếu về âm nhạc. Và hình như, ông vẫn tự coi mình là một amateur trong âm nhạc, một nghệ sĩ tài tử coi bộ môn này như một thú tiêu khiển làm đẹp cuộc đời...

Nhà văn Phan Lạc Phúc đã nhận xét khá xác đáng khởi từ những bài hát đầu tay của Cung Tiến từ khi xuất hiện tới nay, trên 40 năm, không lúc nào ngừng tỏa hương thơm. Một hương thơm dịu dàng sâu kín, có để ý tìm mới thấy. Nó không gây ồn ào như một số nhạc thời thượng, tiền tuyến, hậu phương, du ca, về nguồn, thân phận nhưng có một sức sống riêng bền bỉ. Đó là một khu vườn Cung Tiến không lẫn với ai, nhạc “xưa” nhưng không cũ bao giờ, nghe càng lâu càng thấm. Nó chịu được sự thử thách của thời gian...

Nguyễn Mạnh Trinh

---
Nguồn: Thời Báo
Friday, 12 October 2012


AToanMT
 
atoanmt Date: Thứ Năm, 29 Nov 2012, 0:14 AM | Message # 2
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 5081
Status: Tạm vắng
Mời các Bạn thưởng thức bản nhạc Hoải Cảm của Cung Tiến
do ca sĩ Lệ Thu trình bày:




AToanMT
 
saigoneses Date: Thứ Năm, 29 Nov 2012, 4:53 AM | Message # 3
Lieutenant general
Group: Administrators
Messages: 505
Status: Tạm vắng
Biết Nói Gì Về Thái Thanh?
Ấu Lăng

Không chỉ một người, tiếp cận "hiện tượng" Thái Thanh từ góc độ "tiểu sử" (một tiểu sử "trải dài" vài thời kỳ lịch sử thăng trầm của đất nước, mà chủ yếu là "đất nước" VNCH trước 1975) cùng toàn bộ gia tài đồ sộ (năm bẩy trăm) các ca khúc bà đã hát (từ dân ca, tình ca, tâm ca, bi ca, hoan ca, hùng ca, đạo ca, ...), đã gọi bà là tiếng "khóc cười theo mệnh nước nổi trôi". Cũng không chỉ một người, từ góc độ "thưởng thức ca nhạc", mệnh danh bà là "tiếng hát vượt thời gian", "giọng ca vàng không tuổi" - chính xác là "The Ageless Golden Voice", như được in trên bìa một băng nhạc SG xưa. (Chưa kể đến năm 1998 tôi được nghe một danh xưng nữa dành cho danh ca, từ miệng một giáo viên mới ở Hà Nội vào Sài Gòn: "Ở ngoài ấy người ta gọi Thái Thanh là Tiếng Hát Lên Đồng"!)



Những danh xưng ấy dành cho Thái Thanh tất nhiên không thuyết phục tất cả mọi người (Việt Nam), mà chỉ đúng đối với những ai yêu mến bà. Vì sao? Giọng hát của nữ danh ca này không dành cho những đôi tai (1) không chuộng các "âm tần cao", và/hay (2) không chuộng các "cường độ biểu cảm - đặc biệt là bi cảm - quá lớn" (gọi nôm na là "quá mùi"). Tuy nhiên con số những kẻ yêu (giọng hát) Thái Thanh là không nhỏ, và trong số ấy cũng không hề thiếu những tên tuổi lớn các nhà làm văn học nghệ thuật (như nhạc sĩ Phạm Đình Chương, nhạc sĩ Phạm Duy, nhạc sĩ Cung Tiến, danh cầm Nghiêm Phú Phi, nhà văn kiêm nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Du Tử Lê, nhà thơ Nguyên Sa, ...), cho nên những lời xưng tụng dành cho người ca sĩ ấy không thể "hàm hồ" được; chúng tất yếu phải "chính xác" và "xứng đáng". Trong chủ quan hạn hẹp của người viết bài này, tiếng hát Thái Thanh có thể ví như một "đặc sản", chỉ dành cho những kẻ "sành điệu", đồng thời cũng từ chối quyết liệt những ai không là "đồng điệu". Bạn sẽ nhăn mặt: "Làm gì có một đặc sản như thế"? Xin thưa rằng có: Quả sầu riêng! Đúng vậy, mặc ai có thể "bịt mũi xua tay", vẫn không hiếm người lõi đời "nghiện" nó, xem nó là "số Một", và nó luôn là một trong những loại quả "quí và đắt nhất". Vậy thì, vâng, có nhiều người tôi quen biết "nghiện" Thái Thanh (và nghiện cả sầu riêng)! Thậm chí đối với họ chỉ có mỗi một mình Thái Thanh biết "hát", còn những ca sĩ khác chỉ là "phát âm một cách khổ sở". (Tôi nhớ đến truyên biếm "TIẾNG HÁT" khi nghe ai phát biểu về Thái Thanh tương tự như vậy.)



Nói về "ngôi vị" của Thái Thanh trong giới ca sĩ Sài Gòn trước 75 có lẽ không ai chính xác bằng "người trong giới", đặc biệt là một trong các danh ca hàng đầu thủa ấy - Lệ Thu. Năm 1970, nhân chuyến tham dự khai mạc Hội Chợ Osaka, Nhật Bản, Lệ Thu đã trả lời phỏng vấn của báo chí: "Nếu chị Thái Thanh có mặt ở đây và hát, mọi người sẽ cúi đầu khâm phục!". Cũng chính Lệ Thu, trong một ca khúc hải ngoại nhớ về Sài Gòn, đã "sửa" ca từ của một câu khi hát "Đâu rộn ràng tiếng hát Thái Thanh?" Kiêu ngạo và đắt giá nhất trong giới ca sĩ ngày đó, Lệ Thu chỉ chấp nhận "nghiêng đầu" trước Thái Thanh.


Sự thật thì sao? Mặc dầu Thái Thanh đi trước cả về tuổi đời lẫn tuổi nghề so với hai diva Lệ Thu và Khánh Ly (cũng như với hầu hết các ca sĩ khác), giọng lẫn cách hát của bà vẫn "trẻ trung", "hiện đại" và "độc đáo" nhất, đặc biệt với những ca khúc này:



1) CHUYỆN TÌNH BUỒN

2) ĐẠO CA 8 - GIỌT CHUÔNG CAM LỘ

3) ĐẠO CA 9 - CHẮP TAY HOA

4) ĐÊM MÀU HỒNG

5) NGÀY XƯA HOÀNG THỊ

6) RU TA NGẬM NGÙI

7) TẠ ƠN ĐỜI

8) TIẾNG HÁT TO

9) TÌNH SẦU DU TỬ LÊ

Tôi vẫn tin là bạn không cần nhìn các ca sĩ (Việt Nam) "làm trò" khi họ hát, mà chỉ cần nghe cách phát âm cũng đủ để phân biệt và xếp hạng họ là loại ca sĩ nào. Nhưng đối với Thái Thanh thì khác, bạn nên ngắm "khẩu hình" của bà lúc bà hát - cái cách bà cấu âm (articulate) từng "âm", từng "chữ" - chuyển động của má, môi, cơ miệng, lưỡi, hàm (răng) trên, hàm (răng) dưới, xương quai hàm; điều đó tác động đến cả cặp lông mày, cũng như vầng trán, và tất nhiên rồi, cả đôi mắt nữa. Mà không chỉ thế, hãy nhìn thanh quản ở cổ, nhìn hai vai, và tay, ..., của người hát. Cách "phát âm" / "cấu âm" của Thái Thanh, bắt đầu từ "bộ máy phát âm", đã tác động hoàn toàn tự nhiên đến các cơ trên mặt, rồi lan tỏa toàn thân. Khi hát, Thái Thanh như "đang bơi", hay "đang bay", (theo nghĩa đen) trong âm nhạc, và toàn bộ ngôn ngữ cơ thể của người ca sĩ ấy toát lên thông điệp này: Được cất tiếng hát, đối với bà, là Tất Cả - là Sự Sống, là Hạnh Phúc vô bờ.



Để thấy/hiểu phần nào niềm hạnh phúc của "Người Đàn Bà Hát" Thái Thanh, bạn có thể xem các clip này (và đừng quên rằng lúc ấy bà đã U70):

1) TÌNH HOÀI HƯƠNG
2) CỎ HỒNG
3) NGÀY XƯA HOÀNG THỊ
4) DÒNG SÔNG XANH
5) TÌNH CA
6) HOÀI CẢM

Và nếu muốn nghe đầy đủ hơn các bài hát của Thái Thanh, mời bạn click vào đây. Trang này được mở ra không với mục đích nào khác hơn là để dành tặng cho những ai yêu mến tiếng hát Thái Thanh. (Rất tiếc là chúng tôi không thể gửi tặng nó cho người ca sĩ ấy, vì bà đã vào ở hẳn một Viện Dưỡng Lão (ở Hoa Kỳ) từ mấy năm nay rồi.)


SG, 02/11/2012
Nguồn: http://vannghesongcuulong.org/index.p....d=19608
 
cafesnt Date: Thứ Năm, 29 Nov 2012, 8:14 AM | Message # 4
Major general
Group: Moderators
Messages: 357
Status: Tạm vắng
HOÀI CẢM

Chiều buồn len lén tâm-tư
Mơ hồ nghe lá thu mưa
Dạt dào tựa những âm xưa
Thiết tha ngân lên lời xưa

Quạnh hiu về thấm không gian
âm thầm như lấn vào hồn
Buổi chiều chợt nhớ cố nhân
Sương buồn lắng qua hoàng hôn

Lòng cuồng điên vì nhớ
ôi đâu người, đâu ân tình cũ?
Chờ hoài nhau trong mơ
Nhưng có bao giờ, thấy nhau lần nữa

Một mùa thu xa vắng
Như mơ hồ về trong đêm tối
Cố nhân xa rồi, có ai về lối xưa?

Chờ nhau hoài cố nhân ơi!
Sương buồn che kín nguồn đời
Hẹn nhau một kiếp xa xôi,
nhớ nhau muôn đời mà thôi!

Thời gian tựa cánh chim bay,
qua dần những tháng cùng ngày
Còn đâu mùa cũ êm vui?
Nhớ thương biết bao giờ nguôi?


______

Cố nhân xa rồi, có ai về lối xưa?
 
socolar Date: Thứ Năm, 29 Nov 2012, 9:30 PM | Message # 5
Colonel
Group: Users
Messages: 194
Status: Tạm vắng
cafesnt ơi, tự nhiên nghe Hoài Cảm xong thấy buồn quá ạ Chắc phải bắt đền bạn quá. Hầu như bài nào bạn post lên đều có tâm trạng.


Message edited by socolar - Thứ Năm, 29 Nov 2012, 9:32 PM
 
cafesnt Date: Thứ Năm, 29 Nov 2012, 10:59 PM | Message # 6
Major general
Group: Moderators
Messages: 357
Status: Tạm vắng
Socolar đừng buồn bạn ơi. Bác Toàn của bạn không thích thành viên nào buồn hết. Nhất là đưa bài buồn là Bác ấy càng không muốn đâu. Cafe thỉnh thoảng nhón một bài hát buồn và canh chừng lấp ló ngoài cửa xem Bác Toàn vào có thank bài đó không, nếu không nghĩa là bài đó bác ấy không thích rồi còn nếu Bác ấy thank là cafe thừa thắng xốc tới... ngày mai lại đưa bài buồn nữa

May mà có bạn đồng cảm với cafe nên cũng đỡ cô đơn Cảm ơn bạn nhìu nhìu !
 
thanhlongphapsu Date: Thứ Sáu, 30 Nov 2012, 2:51 AM | Message # 7
Generalissimo
Group: users
Messages: 1380
Status: Tạm vắng


Đây không phải là giòng nhạc buồn, mà tạm gọi là man mác chơi vơi buồn, Tui thích nghe giòng nhạc Tiền Chiến , trong những đêm dài tỉnh mịch, hoặc trong giờ khắc giao mùa, ngồi im lặng một mình, nghe nhạc tiền chiến thả hồn chơi vơi theo nốt nhạc. Mà nhạc tiền chiến người ta gọi là nhạc của ông già, bà già. Ừa nhỉ, nhìn lại mình đời đã xanh rêu rồi.
 
socolar Date: Thứ Sáu, 30 Nov 2012, 3:20 AM | Message # 8
Colonel
Group: Users
Messages: 194
Status: Tạm vắng
Quote (thanhlongphapsu)
Đây không phải là giòng nhạc buồn, mà tạm gọi là man mác chơi vơi buồn,

thanhlongphapsu nói đúng. Socolar cảm thấy buồn là do tâm trạng của mình đang không thoải mái, lại nghe" điệu nhạc man mác, chơi vơi" thì càng cảm thấy tâm trạng. Hic sad


Message edited by socolar - Thứ Sáu, 30 Nov 2012, 3:21 AM
 
thanhlongphapsu Date: Chủ Nhật, 02 Dec 2012, 5:13 PM | Message # 9
Generalissimo
Group: users
Messages: 1380
Status: Tạm vắng
TIẾNG HÁT VƯỢT THỜI GIAN THÁI THANH… ĐÃ BỊ ALZHEIMER


Gửi những ai yêu tiếng hát Thái Thanh để “vĩnh biệt linh hồn” người ca sĩ tài danh này: tuy bà chưa chết nhưng linh hồn Bà đã bị gã Alzheimer (là bệnh thoái hóa cả não bộ không hồi phục) cướp đi rồi. Bà hiện sống trong Nursing Home tại Hoa Kỳ.

Không chỉ một người, tiếp cận “hiện tượng” Thái Thanh từ góc độ “tiểu sử” - một tiểu sử “trải dài” vài thời kỳ lịch sử thăng trầm của đất nước, mà chủ yếu là “đất nước” VNCH trước 1975 - cùng toàn bộ gia tài đồ sộ năm bẩy trăm ca khúc bà đã hát từ dân ca, tình ca, tâm ca, bi ca, hoan ca, hùng ca, đạo ca…, đã gọi bà là tiếng “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi“.

Hình ca sĩ Thái Thanh trên bìa một CD ca nhạc.

Cũng không chỉ một người, từ góc độ “thưởng thức ca nhạc”, mệnh danh bà là “tiếng hát vượt thời gian”, “giọng ca vàng không tuổi” – chính xác là “The Ageless Golden Voice“, như được in trên bìa một băng nhạc Sài Gòn xưa.

Những danh xưng ấy dành cho Thái Thanh tất nhiên không thuyết phục tất cả mọi người, mà chỉ đúng đối với những ai yêu mến bà. Vì sao ? Giọng hát của nữ danh ca này không dành cho những đôi tai:

- không chuộng các “âm tần cao“

- và hay không chuộng các “cường độ biểu cảm - đặc biệt là bi cảm quá lớn” (gọi nôm na là “quá mùi“).

Tuy nhiên con số những kẻ yêu (giọng hát) Thái Thanh là không nhỏ, và trong số ấy cũng không hề thiếu những tên tuổi lớn các nhà làm văn học nghệ thuật (như nhạc sĩ Phạm Đình Chương, nhạc sĩ Phạm Duy, nhạc sĩ Cung Tiến, danh cầm Nghiêm Phú Phi, nhà văn kiêm nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Nguyên Sa, …),cho nên những lời xưng tụng dành cho người ca sĩ ấy không thể “hàm hồ” được; chúng tất yếu phải “chính xác” và “xứng đáng”. Trong chủ quan hạn hẹp của người viết bài này, tiếng hát Thái Thanh có thể ví như một “đặc sản”, chỉ dành cho những kẻ “sành điệu”, đồng thời cũng từ chối quyết liệt những ai không là “đồng điệu”.

Bạn sẽ nhăn mặt : “Làm gì có một đặc sản như thế” ? Xin thưa rằng có : Quả sầu riêng ! Đúng vậy, mặc ai có thể “bịt mũi xua tay”, vẫn không hiếm người lõi đời “nghiện” nó, xem nó là “số Một“, và nó luôn là một trong những loại quả “quí và đắt nhất”. Vậy thì, vâng, có nhiều người tôi quen biết “nghiện” Thái Thanh (và nghiện cả sầu riêng) ! Thậm chí đối với họ chỉ có mỗi một mình Thái Thanh biết “hát”, còn những ca sĩ khác chỉ là “phát âm một cách khổ sở”. (Tôi nhớ đến truyện biếm “Tiếng hát” khi nghe ai phát biểu về Thái Thanh tương tự như vậy.)

Nói về “ngôi vị” của Thái Thanh trong giới ca sĩ Sài Gòn trước 75 có lẽ không ai chính xác bằng “người trong giới”, đặc biệt là một trong các danh ca hàng đầu thuở ấy – Lệ Thu.

Năm 1970, nhân chuyến tham dự khai mạc Hội Chợ Osaka, Nhật Bản, Lệ Thu đã trả lời phỏng vấn của báo chí : “Nếu chị Thái Thanh có mặt ở đây và hát, mọi người sẽ cúi đầu khâm phục !“. Cũng chính Lệ Thu, trong một ca khúc hải ngoại nhớ về Sài Gòn, đã “sửa” ca từ của một câu khi hát “Đâu rộn ràng tiếng hát Thái Thanh?” Kiêu ngạo và đắt giá nhất trong giới ca sĩ ngày đó, Lệ Thu chỉ chấp nhận “nghiêng đầu” trước Thái Thanh.

Sự thật thì sao ? Mặc dầu Thái Thanh đi trước cả về tuổi đời lẫn tuổi nghề so với hai diva Lệ Thu và Khánh Ly (cũng như với hầu hết các ca sĩ khác), giọng ca lẫn cách hát của bà vẫn “trẻ trung”, “hiện đại” và “độc đáo” nhất, đặc biệt với những ca khúc này :

1) CHUYỆN TÌNH BUỒN

2) ĐẠO CA 8 – GIỌT CHUÔNG CAM LỘ

3) ĐẠO CA 9 – CHẮP TAY HOA

4) ĐÊM MÀU HỒNG

5) NGÀY XƯA HOÀNG THỊ

6) RU TA NGẬM NGÙI

7) TẠ ƠN ĐỜI

8) TIẾNG HÁT TO

9) TÌNH SẦU DU TỬ LÊ

Tôi vẫn tin là bạn không cần nhìn các ca sĩ (Việt Nam) “làm trò” khi họ hát, mà chỉ cần nghe cách phát âm cũng đủ để phân biệt và xếp hạng họ là loại ca sĩ nào. Nhưng đối với Thái Thanh thì khác, bạn nên ngắm “khẩu hình” của bà lúc bà hát - cái cách bà cấu âm (articulate) từng “âm”, từng “chữ” - chuyển động của má, môi, cơ miệng, lưỡi, hàm (răng) trên, hàm (răng) dưới, xương quai hàm; điều đó tác động đến cả cặp lông mày, cũng như vầng trán, và tất nhiên rồi, cả đôi mắt nữa. Mà không chỉ thế, hãy nhìn thanh quản ở cổ, nhìn hai vai, và tay,.., của người hát.

Cách “phát âm” / “cấu âm” của Thái Thanh, bắt đầu từ “bộ máy phát âm”, đã tác động hoàn toàn tự nhiên đến các cơ trên mặt, rồi lan tỏa toàn thân. Khi hát, Thái Thanh như “đang bơi”, hay “đang bay”, (theo nghĩa đen) trong âm nhạc, và toàn bộ ngôn ngữ cơ thể của người ca sĩ ấy toát lên thông điệp này: Được cất tiếng hát, đối với bà, là Tất Cả – là Sự Sống, là Hạnh Phúc vô bờ.


Yên Huỳnh post (theo Con Cò)

Không hiểu sao, mấy tác giả này lại viết về Thái Thanh lại giống nhau về nội dung quá xá.


Message edited by thanhlongphapsu - Chủ Nhật, 02 Dec 2012, 5:14 PM
 
atoanmt Date: Chủ Nhật, 02 Dec 2012, 7:24 PM | Message # 10
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 5081
Status: Tạm vắng


AToanMT
 
saigoneses Date: Chủ Nhật, 02 Dec 2012, 8:07 PM | Message # 11
Lieutenant general
Group: Administrators
Messages: 505
Status: Tạm vắng
HỎI KHÁN GIẢ CỦA LỆ THU



Nếu hỏi giới showbiz Sài Gòn cũ ai là danh ca (từ nửa sau thập niên 60) có hàng trăm áo dài đẹp và vài chục đôi giày sang cùng với cát-xê “huyền thoại” - một triệu vnd (hay vài chục k‎‎‎‎‎í‎ vàng 24k) một tháng, thì họ cho bạn biết ngay. Và nữa, nếu hỏi diva nào “hiếu chiến” đến mức sáng đêm còn miệt mài với cái “chiếu bạc” hay “bàn mạt chược”, thì bạn cũng không phải chờ lâu mới có giải đáp.

Tất nhiên, chỉ đùa thôi, nhưng dù thế nào, tiếp cận một nghệ sĩ từ những góc độ “phi nghệ thuật” như vậy là thiếu “nhậy cảm”? Có chăng chỉ cần hỏi Ca sĩ nào từng được mệnh danh “Giọng Ca Vàng Ròng”, hay “Tiếng Hát Vàng Mười”, mặc dù câu trả lời sẽ vẫn thế - Lệ Thu!



Một điều thoạt có thể gây ngạc nhiên: Số người ngưỡng mộ Lệ Thu lẽ ra đã phải lớn hơn rất nhiều. Vậy, những lí do nào đã làm hạn chế số khán/thính giả tiềm năng của cô? Có thể kể: (1) Rất hiếm khi Lệ Thu xuất hiện trên các phương tiện truyền thông đại chúng - truyền thanh hay truyền hình, (2) mỗi tối cô chỉ hát ở một phòng trà “độc quyền”, mà “vé vào cửa” là rất đỗi xa xỉ với hầu hết người Sài Gòn xưa, và (3) đĩa hay băng (nhạc nói chung, ca khúc Lệ Thu nói riêng) đòi hỏi các thiết bị quay đĩa (tourne-disque) hoặc quay băng (magnétophone hoặc máy nghe cassette) - tất cả đều đắt, vượt quá khả năng của giới lao động bình thường. Kết quả là, thứ nhất, chỉ có thành phần trung lưu trở lên mới có điều kiện thưởng thức giọng hát của ca sĩ này. Và thứ nhì? Có nhiều ca khúc Lệ Thu hát rất xuất sắc mà lại được rất ít người - kể cả những người yêu thích tiếng hát của cô - biết đến. (Để kiểm chứng, bạn thử click vào đây để nghe, và trả lời: (1) “Tên bài hát?”, và (2) “Bạn đã từng nghe bài này?”)



Lệ Thu vẫn được nhắc đến như “một trong những giọng hát tình khúc hay nhất của nền tân nhạc VN”. Vâng, hầu như người ta chỉ biết tên tuổi của cô gắn liền với những tình khúc “thời chiến” (Nước Mắt Mùa Thu, Mùa Thu Chết, Nửa Hồn Thương Đau, Hạ Trắng, Như Cánh Vạc Bay, Hoài Cảm, Tình Khúc Thứ Nhất, Xin Còn Gọi Tên Nhau, Chiều Tím, Dáng Ngọc, Chiếc Lá Cuối Cùng, Anh Cho Em Mùa Xuân, …) hay “tiền chiến” (Dang Dở [Tà Áo Xanh], Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay, Lá Đổ Muôn Chiều, Bến Xuân, …) bởi những tác phẩm ấy quá phổ biến; tuy vậy, cũng ở “mảng” tình khúc này, tôi dám chắc còn không ít tuyệt phẩm do ca sĩ này hát mà bạn chưa từng biết, chẳng hạn: Về Trên Lá Cỏ Ngậm Ngùi, Mái Tóc Dạ Hương, Mắt Biếc, Yêu, Hoa Soan Bên Thềm Cũ, …? Mà không chỉ thế, có thể bạn cũng chưa biết: Gia tài của Lệ Thu không chỉ gồm các tình khúc “hiện đại” và “sang trọng”: Cô còn “lấn sân” qua mảng “sầu tình”, nhưng điều rất ư thú vị (và kỳ diệu nữa) là qua “bộ lọc Lệ Thu” nó bỗng dưng, chỉ trong “đường tơ kẽ tóc”, thoát khỏi thân phận “sên… sắc” để trở nên “quí phái” vô song. (Vâng, nhưng bạn đừng chỉ nghe Sang Ngang, Một Lần Cuối, Tình Buồn, mà hãy nghe cả Nửa Cuộc Tình Buồn, Tuyệt Vời Bóng Tối, Bài Tình Buồn,… nữa.) Và cuối cùng (tạm cho là vậy), một “mảng” khác của Lệ Thu - mảng đề tài “quê hương”, “thế sự”, mà bản Không Ai Ngăn Nổi Lời Ca tôi vừa “hỏi đố” bạn trên kia là một thí dụ - vẫn còn đang chờ được phám phá: Vang Bóng, Tình Quê Hương, Thương Quá Là Thương, Lời Yêu Dấu Cho VN, Xin Mặt Trời Sáng Trở Lại, Xin Cho Tôi, … Ở đó, người ta phát hiện một Lệ Thu khác - “về nguồn” - “nồng nàn” và “tha thiết” khác thường.




  • Ngày ấy, mỗi lần (rất hiếm hoi, chủ yếu chỉ trong các show của Jo Marcel và Phạm Mạnh Cương) danh ca này xuất hiện trên TV, nhiều người phải tạm bỏ dở công việc để “nghe/ngắm” cô - không là “tuyệt sắc”, nhưng “kiêu sa mê hồn”! Ở vũ trường, mỗi khi Lệ Thu bước ra chỗ dành cho cô, cầm lấy micro, đứng im, chuẩn bị hát, thì “mọi người dừng khiêu vũ để nghe”.

    Sức hút của giọng hát này ở đâu? Ở cách nhả chữ “điêu luyện”, “chắc nịch mà êm như nhung”? Ở kiểu “ngân rung” cuối mỗi câu nghe như sóng gợn, “hút hồn”? Hay ở chất giọng “trầm ấm” mà “trang trọng”, rất “gợi cảm”? (Lệ Thu chọn hát bằng giọng “thật”, không bằng “giả thanh” - ngoại trừ ở một đôi chỗ trong các bài Bến Xuân, Đêm Đông Lạnh Lẽo, Ly Rượu Mừng, và Vọng Ngày Xanh. Phải chăng chỉ bằng giọng “thật”, ca sĩ mới có thể “hát như rót từng dòng tâm sự đến người nghe”?)

    Có lẽ tất cả những nhận xét trên đêu xác đáng. Quả khó tìm được ai khác hát tiếng Việt phát âm từng chữ vừa đĩnh đạc chuẩn xác vừa biểu cảm tinh tế, vừa “hiện đại” vừa “kinh điển”, như ca sĩ này. Giọng đã sẵn khỏe, mỗi lúc lên “cao trào” nghe “mãnh liệt dữ dội” (chẳng hạn ở các bài Mùa Thu Chết, Chiếc Lá Cuối Cùng, Bài Tình Buồn,… nói trên), nhưng một trong những đặc điểm quyến rũ nhất của Lệ Thu là cô không phô trương “nội lực” (điều hiển nhiên thừa mứa trong làn hơi của cô), mà bao giờ cũng mở đầu “êm khẽ dịu dàng” (nhưng dầu là “êm”, “dịu” đến đâu cũng vẫn cho thấy người hát đang “nén” làn hơi sung mãn của mình), rồi “mạnh”, “lớn” dần, để đạt đến “đỉnh”, “bùng vỡ” ở chính xác những “lúc/nơi” cần phải “bùng vỡ” (cứ như thể do một nhạc trưởng điệu nghệ điều khiển vậy [**]), nghe rất “đắt” [***]. Người ta “hạnh phúc khi nghe Lệ Thu hát”.



    Lệ Thu, cùng với Thái Thanh và Khánh Ly, đã trở thành biểu tượng, “hiện vật lịch sử” của Sài Gòn tân nhạc một thời; mỗi người trong số họ để lại hàng trăm “tác phẩm” mà họ là “đồng tác giả” (bên cạnh người viết ca khúc), góp phần giúp chúng vượt qua mọi sàng lọc nghiệt ngã của thời gian cũng như của số phận, để mãi ở lại trong lòng những người yêu nhạc Việt.

    ________________________________

  • Để nghe đầy đủ hơn các ca khúc do Lệ Thu trình bầy, bạn click vào đây. Trang này để dành tặng cho những ai yêu mến tiếng hát Lệ Thu.

    [**] Nhân nhắc đến “một nhạc trưởng điệu nghệ…”, tôi chợt liên tưởng và không khỏi ngạc nhiên: So với Thái Thanh và Khánh Ly, một người được đào tạo và hỗ trợ bởi môi trường sáng tác và trình diễn ca nhạc sẵn có của gia đình (nhạc sĩ Phạm Đình Chương kiêm ca sĩ Hoài Bắc, ca sĩ Hoài Trung, ca sĩ Thái Hằng, và nhạc sĩ Phạm Duy) và người kia - bởi chính tác giả các ca khúc cô thể hiện (nhạc sĩ Trịnh Công Sơn), thì Lệ Thu chẳng được đào tạo hay hỗ trợ bởi bất cứ một “thẩm quyền” âm nhạc nào; bởi đâu cô lại có thể đạt đến “đỉnh cao” đối lập với hai “đỉnh cao” kia? Vậy, bên cạnh sự thông minh, “trực cảm thẩm mỹ” của ca sĩ này thật đáng gờm? Điều này có thể thấy rõ nhất khi cô trình bày những “bài thơ phổ nhạc” (khi ấy, ngoài phần “nhạc”, người hát còn phải bảo toàn được giá trị (thi ca) cho phần “thơ” - tất nhiên phải giả định là “nhiệm vụ khó khăn” kia đã được người nhạc sĩ, về phần mình, chu toàn qua công đoạn “phổ nhạc” rồi). Vâng, khi nghe Lệ Thu hát Ngậm Ngùi (Huy Cận/Phạm Duy), Mộ Khúc (Xuân Diệu/Phạm Duy), Kẻ Ở (Quang Dũng/Trầm Tử Thiêng), Tình Khúc Thứ Nhất (Nguyễn Đình Toàn), Mắt Biếc (Cung Tiến), Đôi Bờ (Quang Dũng/Cung Tiến), …, có cảm tưởng cô chính là “thi nhân (chi) tri kỷ”, “nhạc sĩ (chi) tri âm” vậy: Những “Nàng-Thơ-được/bị-hóa-thân” ấy, qua Lệ Thu, lại hoàn nguyên hơi thở và nhan sắc tinh khôi của mình.

    [***] Kỹ thuật “nén hơi” - “lấy hơi” - “bùng vỡ” của Lệ Thu có thể ví như cách “tiêu tiền” đích đáng và thông minh của một người thật sự giàu, có văn hóa, bản lĩnh, phong cách riêng của mình; nó rất khác với kiểu các ca sĩ hôm nay, lúc nào - kể cả lúc hát nhạc Trịnh Công Sơn - cũng tranh thủ gào thét quằn quại, chỉ cốt “khoe giọng khỏe”, mà nói cho cùng chả khác gì một “nhà giàu mới phất”, không dằn được thói vung tiền mọi nơi mọi lúc để phô trương?

    ẤU LĂNG
    SG, 11/2012

    (Nguồn trích: http://thaithanhlethukhanhly.blogspot.com/2012....u.html)

    Message edited by saigoneses - Chủ Nhật, 02 Dec 2012, 8:10 PM
  •  
    FORUM » TRANG CLIP - ÂM NHẠC & HỘI-HỌA » ÂM NHẠC » HOÀI CẢM (CUNG TIẾN)
    • Page 1 of 1
    • 1
    Search:


    TỰ-ĐIỂN TRỰC-TUYẾN :

    Từ Điển Online
    Bấm vào dấu V để chọn loại Tự-Điển
    Gõ Chữ muốn tìm vào khung trắng dưới đây:
    Xong bấm GO