Thứ Bảy
20 Apr 2024
8:04 AM
ĐĂNG NHẬP


Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

[ BÀI VIẾT MỚI · Forum rules · TÌM KIẾM · RSS ]
  • Page 1 of 1
  • 1
FORUM » TRANG KIẾN THỨC » VĂN HỌC » NÉT ĐẶC SẮC VĂN HÓA BỊ BỎ QUÊN: NÓI LÁI (Hoà Đa)
NÉT ĐẶC SẮC VĂN HÓA BỊ BỎ QUÊN: NÓI LÁI
atoanmt Date: Thứ Ba, 30 Dec 2014, 11:02 AM | Message # 1
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 5081
Status: Tạm vắng
NÉT ĐẶC SẮC VĂN HÓA BỊ BỎ QUÊN:
NÓI LÁI


Hoà Đa


Tôi không phải là một nhà ngôn ngữ học, nhưng có nhận xét này, mà khi chia xẻ với nhiều người Việt Nam , tôi luôn có sự đồng tình:
Nói lái là một hình thức vô cùng độc đáo của ngôn ngữ Việt.

Bạn có bao giờ nghe giai thoại giải thích đại phong là lọ tương chưa? - Chuyện thế này:
Hai anh hề trên sân khấu tuồng ngoài Bắc, trong lúc diễu giúp vui, anh này đố anh kia: "đại phong" là gì?

- "Thì đại là lớn, còn phong là gió, đại phong là gió lớn."
Anh kia giải thích.

Anh này bảo đại phong là lọ tương kìa:
"Đại phong là gió lớn, gió lớn thì chùa đổ, chùa đổ thi tượng (Phật) lo, tượng lolọ tương".

Một giai thoại khác, ở trong Nam. Lúc ấy, vào buổi tàn thời của nho học, người ta bỏ bút lông, giắt bút chì; một số chạy theo thực dân Pháp. Trong số ấy có Nguyễn văn Tâm, một lòng cúc cung với mẫu quốc, được người Pháp cất nhắc làm quan lớn; trên dưới trong ngoài, ai cũng biết nhờ bợ đỡ quan thầy mà làm quan to.

Tâm lấy làm tự đắc lắm. Phú quí sinh lễ nghĩa, quan lớn nhà ta cũng muốn tỏ ra mình phong lưu, muốn có những bức hoành, trướng để trang trí.
Có người dâng lên quan bốn chữ đại tự Đại Điểm Quần Thần, viết chân phương, rất đẹp và giải thích Quần thần là người bề tôi, Đại điểm là điểm lớn, ý nói quan lớn là người bề tôi có vị trí to lớn, quan trọng trong triều.

Quan lấy làm thích thú đem treo bức liễn trong phòng khách; ai đến thăm quan cũng đem khoe và giải thích như trên. Ít lâu sau có người đến ngắm bức liễn, rồi xin quan lớn dẹp đi. Quan ngạc nhiên hỏi, người ấy xin đừng bắt tội, đuổi hết tả hữu rồi giải thích:
Người viết liễn đã cố ý bỡn quan lớn, mà quan không biết.

Bốn chữ trên dịch từng chữ:
Đại điểm là chấm to; Quần thần là bề tôi, nói theo kiểu trong Nam là bầy tôi. Đại Điểm Quần ThầnChấm To Bầy Tôi nói lái lại là Chó Tâm Bồi Tây.
Chẳng nghe chuyện kể nói quan có tìm tác giả bốn chữ nói trên để trị tội hay vì không muốn làm vỡ chuyện mà ỉm luôn .

Trong đời sống hàng ngày, chẳng hiếm khi chúng ta gặp những câu nói lái, đôi khi chỉ để bỡn cợt, châm biếm hay tránh những tiếng thô tục.

Ở Nam Bộ , có câu :

Con cá đối nằm trên cối đá,
Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo
anh mà đối được, dẫu nghèo em cũng ưng.


Người Việt, đối với những người lớn tuổi hay trưởng thành ở Việt Nam chẳng có ai là không biết cách nói lái, tùy theo gốc gác hay sinh hoạt ở Bắc, Trung hay Nam mà cách nói lái có khác nhau; nhưng tựu chung, khi nói lái, người ta tránh không nói thẳng chữ muốn nói; mà người nghe, vì không tinh ý, nhất thời không nhận ra như trong giai thoại Đại Điểm Quần Thần kể trên.

Đi sâu hơn vào chi tiết: một chữ gồm hai phần: phụ âm và âm. Chữ tranh chẳng hạn gồm phụ âm tr và âm anh. Chúng ta lại có thêm sáu thanh: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng và không dấu tạo tiếng Việt thành giàu âm sắc, chỉ cần khác dấu, chữ được phát âm khác nhau:
tranh, tránh, trành (trong tròng trành) trạnh (trạnh lòng) và tất nhiên có nghĩa khác nhau, và đây cũng là nét độc đáo của ngôn ngữ Việt, người nước ngoài bảo người Việt nói chuyện nghe giống như hát.

Cũng có chữ không có phụ âm mà chỉ có âm, như trong ảnh ương hay ảo ảnh...

1.Nói Lái theo cách ngoài Bắc.

Trở lại câu chuyện đại phong là lọ tươngnói trên. Tượng lo nói lái lại là lọ tương, người miền Bắc đổi chỗ cho hai chữ, đồng thời đổi luôn hai dấu (nghĩa là đổi âm sắc): lo đổi chỗ cho tượng, lấy dấu nặng thành lọ, tượng đổi chỗ cho lo, mất dấu nặng thành tương.

Ta lấy vài thí dụ khác:

Đấu tranh nói lái lại là tránh đâu :
Tranh đổi chỗ cho đấu, lấy dấu sắc của đấu thành tránh, đấu đổi chỗ cho tranh, mang dấu của tranh (không dấu) thành đâu.

Hải phòng nói lái lại là phỏng hài :
Hải đổi chỗ cho phòng lấy dấu huyền của phòng thành hài, phòng đổi chỗ cho hải lấy dấu hỏi của hải thành phỏng

Cứ theo cách ấy thì:

Sầm Sơn
sờn sâm
Thái Bình
nói lái là
bính thài
Hà Nội nồi hạ
Giải phóng thành ... Phỏng D...
vv.. và vv..

Như vậy thì hai chữ có cùng dấu không nói lái được, như nhân dân, anh em, Sài Gòn, thánh thót, thực vật....
Cũng vậy, những tiếng láy như xanh xanh, hơ hớ, đo đỏ, lăng xăng....không thể nói lái được và nếu chúng ta cố tình theo qui luật trên thì cũng chỉ đổi vị trí cho nhau thôi.

2. Nói lái theo kiểu trong Nam.

Trong Nam người ta nói lái theo cách khác: cá đối nói lái lại thành cối đá.

Ta nhận thấy theo cách nói lái trong nam, âm trong hai chữ đổi chỗ cho nhau, phụ âm giữ nguyên vị trí, phụ âm c ghép với âm ối của đối thành cối, và phụ âm đ ghép với âm á thành đá. Như vậy:

Sài gòn
sòn gài
Cần thơ
nói lái là
cờ thân
Cầy tơ cờ tây
Cửu long cỏng lưu


(dân nam kỳ phát âm giống như cỏng lu)
Thủ Đức thức đủ
vv.. và ..vv..

Bút hiệu Thế Lữ (trong Tự Lực Văn Đoàn) chính là chữ nói lái của tên thật của ông: Nguyễn Thứ Lễ. Ngày trước đã có vế đối:

Ngày Tết, Thế Lữ đi hai thứ lễ: lễ ta và lễ tây

Trong vài trường hợp người ta nói lái cho cả ba chữ, bằng cách giữ nguyên chữ giữa như trong trường hợp "mèo đuôi cụt thành mút đuôi kèo" (dấu nặng trong cụt biến thể thành dấu sắc trong mút), như vậy hà thủ ô nói lái thành hồ thủ a.

Đôi khi người ta lại đổi chỗ hai phụ âm cho nhau (tuy ít thôi) để sau khi nói lái có nghĩa và dễ nghe hơn, thí dụ chiến binh thay vì nói lái thành chinh biến cũng có thể nói thành biến chinh, do đó với hai chữ tranh đấu có người đã đùa mà nói rằng:
tranh đấu thì tránh đâu khỏi bị trâu đánh thì thế nào cũng phải đấu tranh.

Cũng như trong trường hợp trên, những chữ trùng âm như nhân dân, lù đù, lật đật...không nói lái được.

Ngoài ra còn một cách nói dựa trên nói lái kiểu trong Nam, không mấy người quen sử dụng.
Trong cách này, người nói ghép từng chữ (trong nguyên câu) với một chữ (đã được qui ước trước giữa hai người) rồi nói lái hai chữ này với nhau.
Cách này tương đối khó, và thường gặp trong giới bình dân lao động, ít học (không biết có phải vì vậy mà không được biết đến chăng?) Thí dụ với câu:
"Hôm qua tui đi ra đầu ngõ chờ em tới, mà đợi hoài không thấy..."

Họ ghép từng chữ của câu trên với chữ ly (li) rồi nói lái lại, và do đó câu trên trở thành :
"Hi lôm (hôm li) qui la ( qua li) ti lui đi li ri la đi lầu nghi lõ chi lờ i lem ti lới , mi là đi lợi hi loài khi lông thi lấy..."

Họ nói chuyện với nhau rất nhanh và hiểu nhau dễ dàng, như thể đã được mã hóa người khác không nhận ra được.
Đây là cách vô cùng độc đáo mà chưa được khai thác đúng mức.

3. Vài giai thoại - câu đối - câu đố

Chúng ta đã thấy giai thoại về Đại điểm quần thần, Đại phong ở trên. Chúng ta cũng thường nghe nói đến câu tiếng lóng:
hạ cờ tây là hạ cầy tơ của dân nhậu trong Nam và mộc tồn (= cây còn, nói lái thành con cầy) ở ngoài Bắc, hay những lối nói lái rất quen thuộc:
con chín bến đò (con chó bến đình)
Hương bên đèo (heo bên đường)
theo con Hương (thương con heo)...


Trong Nam, mấy bạn nhậu thường hay nói chữ :
"Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu"

cũng đừng vội tưởng họ sính Nho, thật ra họ đùa
"rượu gặp tri kỷ có trời mới biểu (bảo) thôi"
(thiên = trời, bôi thiểu = biểu thôi)....

Về câu đối, xin trở lại câu ca dao trên:
Con cá đối nằm trên cối đá.
Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo.
Anh mà đối đặng dẫu nghèo em cũng ưng.


được đối là:
Chim mỏ kiến(g) nằm trong miếng cỏ
Chim vàng lông đáp đậu vồng lang
Anh đà đối đặng hỏi nàng ưng chưa?


Phải công nhận là câu đố và câu trả lời không chê vào đâu được, chắc gì chúng ta tìm được câu trả lời nào hay hơn cho cô gái tinh nghịch này.

Một câu khác, nghe chừng như xuông miệng nói chơi, nhưng lại đối rất chỉnh, trong cả hai vế đều dùng cách nói lái:

Kia mấy cây mía
Có vài cái vò


Một câu đối khác, nghe được sau 75, lúc người dân trong Nam không còn gì để sinh sống, đặc biệt là giới thầy cô thuộc chế độ cũ được lưu dụng. Dầu gì chăng nữa, trước đó họ là lớp người tuy sống nhờ đồng lương cố định, nhưng cũng có cơm ăn áo mặc đầy đủ. Người ta nghe thấy hai câu đối tết, nhại theo Tú Xương ngày trước, nhưng rất đặc sắc và chua xót:

Chiều ba mươi, thày giáo tháo giày ra chợ bán
Sáng mùng một, giáo chức dứt cháo đón xuân sang.


Thực tế là giày không còn là một phần trong y phục của thày giáo, nhưng cháo đã là phần lương thực thường thấy trong bữa ăn hàng ngày.

Trong một đám cưới, chú rể người Hóc Môn, cô dâu ở Gò Công; có người rắn mắt đọc đùa câu đối:

Trai Hóc Môn vừa hôn vừa móc
Gái Gò Công vừa gồng vừa co


Trong văn chương bình dân Việt Nam, câu đố chiếm một vị trí tuy khiêm nhường nhưng có sức sống tuơng đối mạnh mẽ so với hò đối đáp chẳng hạn. Ngày nay ta vẫn thường nghe những câu đố trong khi không còn thấy hò đối đáp trong sinh hoạt hàng ngày của người bình dân.
Trong các dạng câu đố, cách dùng nói lái để đánh lừa người khác là một trong những cách tuy dễ nhưng cũng làm khó cho người bị đố không ít. Sau đây là vài câu đố dùng nói lái, lời giải có ngay trong câu đố:

-Tổ kiến, kiển tố, đố là chi? -

(đáp: tổ kiến)

-Khoan mũi, khoan lái, khoan khứ, khoan lai
Bò la, bò liệt đố ai biết gì? -

(đáp: khoai lang).

Những chữ mũi, lái, khứ, lai chỉ cốt để đánh lừa người bị đố.

- Con gì ở cạnh bờ sông,
cái mui thì nát cái cong thì còn -

(đáp: con còng - cong còn nói lái thành con còng)

- Cái gì bằng ngón chưn cái mà chai cứng -

(đáp: ngón chưn cái)

- Khi đi cưa ngọn, khi về cũng cưa ngọn -

(đáp: con ngựa)

- Miệng bà ký lớn, bà ký banh
Tay ông cai dài, ông cai khoanh

(đáp: canh bí, canh khoai)
...
Một vài người cũng câu nệ về nói lái, tránh đặt tên con những chữ có thể nói lái thành thô tục như Thái:
(dễ ghép với chữ có phụ âm d: thái dọt, thái dúi, thái dòng...)

Lài
(dễ ghép với chữ có âm ồn như lài dồn, lài cồn, lài mồn...)

Côn, Tôn, Đôn (ghép với chữ có phụ âm l) v.v.. và v.v..

4. Vài suy nghĩ

Qua những phân tích trên, ai cũng công nhận nói lái quả là một đặc thù của tiếng Việt. Chúng ta dùng nói lái để châm biếm, để gài người khác trong các câu đố, câu đối, để tránh những thô tục khi cố ý ghép chữ dể hạ thấp người khác.

Bỏ qua một bên những cái độc đáo, lắt léo của nói lái trong câu đố, câu đối; để chỉ chú ý đến phần đông các trường hợp chúng ta sử dụng nói lái như là một hình thức hạ thấp người khác.

Trong phần trên chúng ta đã thấy nhà nho nào đó đã dùng sự uyên bác của mình để chửi một quan to mà quan chẳng những đã không biết mà còn hoan hỉ chấp nhận trong giai thoại Đại Điểm Quần Thần.

Chúng ta đã dùng nói lái như một thứ vũ khí của người muốn dùng tiểu xảo để chống đối, để chứng tỏ mình hơn người, như một thứ vũ khí của kẻ yếu, kẻ bị trị để bôi bác, nhạo báng, ám chỉ... để hạ phẩm cách của kẻ mạnh, kẻ thống trị.

Vấn đề nêu ra để chúng ta phải suy gẫm là tại sao chúng ta có những cách rất tiêu cực như vậy?
- Phải chăng vì hoàn cảnh dân tộc Việt Nam đã đắm chìm quá lâu trong cảnh bị trị, dù của ngoại bang hay của chính người đồng chủng. Người dân phải tìm cách tránh né, che đậy để sinh tồn trước sức mạnh của kẻ thống trị. Vấn đề đặt ra cho chúng ta cùng suy nghĩ là chúng ta có nên duy trì mãi những tiêu cực tương tự trong những sinh hoạt thường ngày của chúng ta không?

Ai cũng thấy rõ một điều là sức sống của người Việt vô cùng to lớn, mãnh liệt, nhưng đồng thời cũng thể hiện những tiêu cực vô cùng tai hại . Chính vì chỉ muốn sống còn bằng bất cứ giá nào, người Việt đã mất đi những tích cực của tập thể cần phải có, điều này đã giúp cho kể thống trị tồn tại lâu trong vị trí và là một cách giải thích tại sao dân tộc chúng ta bị trị lâu đến như vậy.

Dù vậy, nói lái vẫn là một hình thức vô cùng đặc sắc của ngôn nhữ Việt, với khả năng nhạy bén về tính trào phúng, tính châm chọc... (và chúng ta chỉ nên khai thác khía cạnh tích cực này), chúng ta tin rằng nói lái sẽ tồn tại với người Việt./.

Hoà Đa


AToanMT
 
thanhlongphapsu Date: Thứ Năm, 01 Jan 2015, 0:24 AM | Message # 2
Generalissimo
Group: users
Messages: 1380
Status: Tạm vắng


NÓI LÁI MÀ CHƠI, NGHE LÁI CHƠI.


THÂN TRỌNG SƠN


Đúng bọi rồi, dừng chân ơm căn đi thôi.

Nếu anh không ngại, tôi sẽ mời anh đến quán mộc tồn gần đây, quán lão Điền đó.

Điền nào, Điền đô người Bắc phải không ?

Trong mỗi câu của đoạn hội thoại trên đều có nói lái, một hình thức sử dụng ngôn ngữ khá phổ biến, người quen dùng, nghe nói là hiểu ngay. Đơn giản như đang giỡn, nói lái chỉ là cách hoán đổi phụ âm đầu của hai từ (đói bụng > đúng bọi ) , ai cũng thực hành được, chẳng những trong đời thường mà còn đưa vào tác phẩm văn chương như là một biện pháp chơi chữ khá thú vị.

Nếu chưa quen nói xin mời bạn nghe lái trước đã.

NÓI LÁI TRONG ĐỜI THƯỜNG .

Có thể nói ai cũng có lần nói lái ở trong đời, đôi lúc chỉ vô tình thôi. Nếu bạn buột miệng nói “đi giữa trời nắng cực quá “ hoặc khi đèn điện không sáng mà bạn nói “điện sao lu quá chừng” , người nghe sẽ cho là bạn nói tục, có oan cũng đành chịu vì , dù bạn không cố ý nhưng nắng cực, điện lu nói lái nghe tục thật. Tương tự như thế, hãy cẩn thận đừng nói dồn lại, dồn lên, đồn láo, đồn lầm…

Ngoài những lúc vô tình như vậy, mọi người đều cố ý nói lái nhiều lắm. Từ nhỏ, ai cũng biết nghịch ngợm trêu chọc bạn với những cái tên. Thái thì Thái dúi, Thái giếng, Thọ thì Thọ lỗi, Điền thì Điền đô, Đức thì Đức cống … Còn những tên như Thu, Tốn, Bắc … sẽ có rất nhiều cách gán ghép để nói lái lại nghe không thanh nhã chút nào. Chưa kể những người có tên bắt đầu bằng chữ Đ, trẻ đến mấy cũng bị gọi bằng Cụ ! Học giả Vương Hồng Sển, lớn tuổi còn dạy học, sinh viên có khi gọi Thầy, có khi gọi Cụ để tỏ lòng kính trọng. Thầy dặn : Gọi tôi bằng họ Cụ Vương hay bằng tên Cụ Sển đều được, nhưng với thầy Vi Huyền Đắc thì nhớ chỉ được gọi là Cụ Vi.

Có khi các văn nghệ sĩ nói lái tên mình để đặt bút danh. Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, Lê Đức Vượng biến thành bút danh Vương Đức Lệ. Và, bạn có tin không, văn hào VOLTAIRE của Pháp ( 1694-1778 ), tên thật là François Marie AROUET, lấy tên thành phố quê hương là Airvault ( thuộc vùng Deux Sèvres ) nói lái là Vault – Air để có bút danh Voltaire đó !

Tuổi nhỏ nghịch ngợm trêu chọc nhau bằng những câu như “ Mi là cái đồ ức căn bồng sơ chuối đỏ lọ cháy “ hoặc “ Ai đi đó ?” và trả lời “ O đi ……”

Có khi nói lái chỉ để đùa chơi, không có hậu ý gì ( Ôm nhiều thì yếu, yêu nhiều thì ốm , chà đồ nhôm chôm đồ nhà… ) nhưng cũng có lúc nói lái có ý nghĩa phê phán chỉ trích ( đấu tranh thì tránh đâu , thủ tục đầu tiên là tiền đâu , Nguyễn Y Vân , vẫn y nguyên, Vũ Như Cẩn , vẫn như cũ, Bùi Lan , bàn lui… ).

Có thể nói lái bằng cách dùng cả chữ Hán rồi dịch ra. Mộc tồn là cây còn tức là con cầy, vậy quán mộc tồn là quán thịt chó ! ( Nhiều nơi cũng gọi là Cờ tây, dễ hiểu hơn ). Còn nói đại phong để chỉ lọ tương thì phải đi lòng vòng một chút : đại phong là gió to, gió to thì chùa đổ, chùa đổ thì tượng lo, tượng lo là lọ tương ! Mấy ông bạn nhậu thường hay nói : Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu. Cả câu chữ Hán chèn vào chỗ nói lái : bôi thiểu > biểu thôi – ( biểu = bảo ) : Uống rượu gặp bạn hiền có Trời mới biểu thôi ! Nhắc đến mấy ông này phải nói đến tài nói lái, nhất là mấy ông trong hội “hoàng gia”,nhậu món mực mấy ông hỏi có mực ngò không, món lươn thì hỏi lươn sao không có rau dền, gọi dưa leo thì dặn nhớ thái dọc đừng thái ngang, ăn món lẩu thì đòi phải đun bằng cồn lỏng, tốt nhất là cồn nhập từ bên Lào ! Lúc uống trà thì dặn đừng lấy trà Thái đức.

Có kiểu nói lái tưng tửng, có mà không, không mà có, ai hiểu thì cười, không hiểu cũng chẳng sao. Con gái thời nay thích nhất những chàng trai có chỗ đứng./ Đừng nói tui hay đánh vợ. Tui có đánh thiệt đâu, chẳng qua là đánh mẹo thôi !

Một ứng dụng độc đáo là dùng nói lái như một thứ mật mã , chỉ người nói người nghe hiểu với nhau. “ Lôi thi lừng đì lói ní lữa nĩ , lụi tị lỏ nhỉ lô vi lìa kì “ . Nói kiểu này, người ta dùng quy ước chọn một từ và thêm dấu thanh - sắc huyền hỏi ngã …- đặt trước từ muốn nói và nói lái lại; trường hợp này từ được chọn là li và thêm dấu thành lí, lì, lỉ lĩ, lị ... . Vậy giải mã câu trên là : (Lôi thi) li thôi ( lừng đì) lì đừng lí nói lĩ nữa lị tụi lỉ nhỏ li vô lì kìa = Thôi đừng nói nữa, tụi nhỏ vô kìa.

NÓI LÁI TRONG DÂN GIAN

Trong dân gian, hầu như ở miền nào cũng có nghe truyền tụng những sản phẩm nói lái, hoặc câu đố, câu đối, hò vè, thơ ca không rõ tác giả …

Câu đố : Những câu đố sử dụng nói lái không khó giải vì thường lời giải đã có sẵn :

- Khoan mũi, khoan lái, khoan khứ, khoan lai

Bò la, bò liệt đố ai biết gì? - (đáp: khoai lang).

- Con gì ở cạnh bờ sông,

Cái mui thì nát cái cong thì còn - (đáp: con còng - cong còn nói lái thành con còng)

- Cái gì bằng ngón chưn cái mà chai cứng - (đáp: ngón chưn cái)

- Khi đi cưa ngọn, khi về cũng cưa ngọn - (đáp: con ngựa)

- Miệng bà ký lớn, bà ký banh

Tay ông cai dài, ông cai khoanh - (đáp: canh bí, canh khoai)

- Ông cố ngoài Huế ông cố ai. (đáp : cái ô )

- Ông đánh cái chen, bà bảo đừng.(đáp : cái chưn đèn - chen đừng ) .

Câu đối :

Phần lớn câu đối có sử dụng nói lái đều không đạt những yêu cầu nghiêm ngặt

(đối ý, đối nghĩa, đối thanh … ) của loại hình này, chỉ thể hiện sự dụng công nói lái thôi .

Nhiều câu ai cũng biết :


- Kia mấy << cây mía.

Có vài << cái vò.

- Con cá đối nằm trên cối đá.

Mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo.

Thời kỳ đời sống khó khăn, hình ảnh người thầy giáo phải tháo giày, giáo chức phải dứt cháo là cảm hứng cho nhiều câu đối :

- Kỹ sư đôi lúc làm cư sĩ

Thầy giáo lắm phen cũng tháo giày.

- Thầy giáo tháo giày đi dép lốp

Nhà trường nhường trà uống nước trong

- Thầy giáo tháo giầy, tháo cả ủng, thủng cả áo, lấy giáo án dán áo;

Nhà trường nhường trà, nhường cả hoa, nhòa cả hương, dùng lương hưu lưu hương.

Một câu khác, cũng nói lái liên tiếp như vậy :

- Chê số đời, chơi số đề, cầu giải số, cố giải sầu, càng cố càng sầu;

Cầm cái đuốc, cuốc cái đầm, soi đầy ốc, xốc đầy oi, càng soi càng xốc.

Rất ngắn gọn, mà không kém thú vị :

- Chả lo gì, chỉ lo già.

Nỏ muốn chi, chỉ muốn no.


Thơ ca, hò vè :

Trong loại hình thơ ca, hò vè cũng có thể tìm thấy nhiều câu nói lái :

- Mắm nêm ăn với quả cà

Vắng anh Tử Trực đâu mà biết ngon.

( Không kể chuyện Lục vân Tiên đâu ! Chơi chữ đó : ăn mắm nêm với cà mà thiếu quả ớt thì không ngon. Ớt ? Thì tử là con, trực là ngay , con ngay > cay ngon, là ớt chứ gì nữa ! )

- Bụi riềng trồng ở bờ ao

Chú Mộc Tồn quấn quít ngày nào cũng xin.

( mộc tồn : cây còn, con cầy, đã nói ở đoạn trên )

- Bài hò đối đáp sau đây phát triển từ cách nói lái cá đối cối đá :

Nữ :

Hát tình hát nghĩa đã qua

Bây giờ hát lái mới biết là hơn thua

Mẹ mua con cá đối lúc trưa

Để trên cối đá sao bây giờ mất tiêu

Chàng chỉ giùm con cá đối ở đâu

Hay mèo tha dấu ngoài rào sau mất rồi!


Nam :

Cá mắm chuyện của nữ nhi

Bậu còn vô ý thì chuyện gì cho nên

Con mèo đuôi cụt nhà bên

Biết mẹ đi mua cá nó leo lên mút đuôi kèo

Mẹ xách con cá đối nó nhìn theo

Thấy để trên cối đá nó khều liền tay

Lần sau nhớ lấy lần này

Thấy mẹ mua cá đem ngay cất liền.


- Bài khác : xin để ý từng cặp nói lái ngay trong mỗi câu :

Cá có đâu mà anh ngồi câu đó

Biết có không mà công khó anh ơi ?

Anh ra đây em vẽ cho một nơi cá nhiều.

Anh ngồi đây ngày đôi ba lượt

Biết mất công mong cất con cá diếc lên

Để anh về làm giống nhân trên ruộng đồng.


- Một câu hò ở Nam bộ , giải rõ ra thì tục, nhưng mới nghe qua khó nhận thấy :


Thằn lằn đeo cột thằn lằn trốn

Cá nằm trong đăng, cá mắc kẹt đăng

Anh với em nhân ngãi đồng bằng

Dù xa duyên nợ nhưng cột lằn đừng xa.


Có những bài không rõ tác giả ; trong bài sau đây, cách nói méo trời méo đất thật là tài tình :

Yêu em từ độ méo trời

Khi nào méo đất mới rời em ra .

Bài này đọc lên nghe rất tục :

Ban ngày lặt cỏ tối công phu

Đậu ủ lâu ngày hóa đậu lu

Ngày ta địa chủ, đêm tu đạo

Đạo chi lạ rứa: "Đạo ù ù".


Từ thập niên 50 của thế kỷ trước bài sau đây được nhắc đến nhiều, hẳn là phản ảnh thời cuộc :

Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ơi

Chiến khu thu cất chú khiêng rồi

Thi đua thắng lợi thua đi mãi

Kháng chiến lâu ngày khiến chán thôi.


NÓI LÁI TRONG VĂN HỌC

Tác giả đầu tiên phải nhắc đến tất nhiên là HỒ XUÂN HƯƠNG.

...Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,

Trái gió cho nên phải lộn lèo. (Kiếp Tu Hành)



...Quán sứ sao mà cảnh vắng teo

Hỏi thăm Sư cụ đáo nơi neo.

Chày kình, tiểu để suông không đấm,

Tràng hạt, vải lần đếm lại đeo. (Chùa Quán Sứ)


...Đang cơn nắng cực chửa mưa hè,

Rủ chị em ra tát nước khe. ( Tát nước )



...Thú vui quên cả niềm lo cũ

Kìa cái diều ai nó lộn lèo. ( Quán Khách )


THẢO AM NGUYỄN KHOA VY ( 1881-1968 ) nhà thơ miền Sông Hương Núi Ngự cũng rất nổi tiếng với những bài thơ nói lái :


Lũ quỷ nay lại về lũy cũ

Thầy tu mô phật cũng thù tây.

Trông khống vô phòng thấy trống không

Chứa chan sầu lệ chán chưa chồng

Dòng châu lai láng dầu chong đợi

Bóng nhạn lưng chừng, bạn nhóng trông

Nhòm ngó đã cùng nơi ngã đó

Mơ mồng bên cạnh gối mền bông

Đêm thâu mưa gió đâu thêm mãi,

Xông lướt đi tìm phải xước lông.


Còn BÙI GIÁNG , có người gọi là nhà thơ Bán Dùi vì là Ông ưa nói lái. Kiểu nói lái của Bùi Giáng thật khác người, không cần người đọc có hiểu hay không. Ông thường dùng những từ như: tồn lưu, lưu tồn, tồn liên, liên tồn, tồn lí tí ngọ, tồn lập tập trung, tồn lập tập họp…

Lọt cồn trận gió đi hoang

Tồn liên ở lại xin làn dồn ra

(Mưa nguồn)


Bài Trong bàn chân đi đầy dẫy những chỗ nói lái nhưng thật khó mà hiểu được :

Có mấy ngón

Năm ngón

Mười ngón

Món người

Non ngắm

Nắm ngon

Hoặc là năm ngón nón ngăm

Màu đi trên nước cá tăm chưyên cần

Nón ngăm dặm bóng xoay vần

Đọng nơi góp tụ và chần chờ đưa.

( … )


Tóm lại, nói lái là một hình thức sử dụng ngôn ngữ khá thú vị nhưng phải lưu ý một điều là, cũng như chuyện tiếu lâm, nói lái thường có yếu tố tục. Vấn đề là phải nói sao cho đúng nơi, đúng lúc, đúng liều lượng, nhẹ nhàng dí dỏm. Nói lái thể hiện tính khôi hài, óc châm biếm, đôi khi rất thông minh, sáng tạo bởi có nhiều cách nói lái. Nói lái nhiều lần liên tiếp theo kiểu Thầy giáo tháo giầy, tháo cả ủng, thủng cả áo, lấy giáo án dán áo là lái dồn. Nói lái mà gây phản cảm, làm khó chịu người nghe là lái dở. Còn lái giỏi là nói kín đáo, bất ngờ, có khi không nhận ra được ngay. Chẳng hạn khi ăn thịt chồn, bạn chỉ cần nói con chồn có cái lạ là không bao giờ đi tới trước (để cho mọi người suy ra là chồn đi lùi ! ) . Chẳng hạn khi đứng trước nhiều giống hoa lạ, có ai hỏi tên bạn cứ trả lời đây là hoa “ khiết bông “ chứ đừng vội thú nhận là bạn không biết, thế nào người ta cũng nói cái hoa lạ quá mà tên nghe cũng lạ. Cũng là hoa, nhưng nên nhớ đừng nói với bạn gái là “ em rạng rỡ như hoa dã quỳ ” . Trong một truyện ngắn, nhà văn Y BAN kể chuyện một bà vợ chạy chữa bệnh liệt dương cho chồng bằng đủ loại thực phẩm, thuốc men đều không hiệu quả, nên mới nghĩ tới một bài thuốc dân gian. “ Bài thuốc này gồm 3 vị : Hà thủ ô, cỏ thiên, và trứng vịt lộn “. Người đọc cứ thắc mắc, hà thủ ô với trứng vịt lộn thì ai cũng biết, nhưng cỏ thiên là cỏ gì ? Tác giả bật mí : Ba vị thuốc đó gọi tắt là HÀ THIÊN LỘN, có thể do tâm lý ông chồng không thấy hứng thú khi gần vợ, cho ông đi tìm … , may ra hết bệnh ! Nói lái kiểu đó chắc phải gọi là lái ( bóng ) gió !

Vậy thì, bạn cứ thử nói lái đi, nhiều kiểu lắm và kiểu nào cũng có luật của nó. Nếu bạn không ngại luật nói thế tức là bạn đã biết nghệ thuật nói lái rồi đó.



Gái Củ Chi chỉ cu hỏi Củ Chi

 
bluedragon Date: Thứ Sáu, 02 Jan 2015, 3:44 PM | Message # 3
Major
Group: Users
Messages: 91
Status: Tạm vắng
Hay quá Thầy thanhlongphapsu
 
FORUM » TRANG KIẾN THỨC » VĂN HỌC » NÉT ĐẶC SẮC VĂN HÓA BỊ BỎ QUÊN: NÓI LÁI (Hoà Đa)
  • Page 1 of 1
  • 1
Search:


TỰ-ĐIỂN TRỰC-TUYẾN :

Từ Điển Online
Bấm vào dấu V để chọn loại Tự-Điển
Gõ Chữ muốn tìm vào khung trắng dưới đây:
Xong bấm GO