Thứ Năm
25 Apr 2024
3:42 PM
ĐĂNG NHẬP


Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

File Catalog

TRANG CHÍNH » HỒ SƠ » TRUYỆN PHẬT GIÁO

MI-TIÊN VẤN ĐÁP 30
23 Apr 2015, 3:09 PM
150. Giải thêm về "tâm không động"

- Xin đại đức giảng thêm ở chỗ "tâm không động"? Thân động mà tâm không động quả là phi thường! Thế ngài có ví dụ nào cụ thể, dễ hiểu chăng?

- Có chứ! Ví như có một đại cổ thụ, gốc to lớn đến mười người ôm không xuể, tàng lá cành nhánh của nó sum suê, che phủ cả một vùng. Những cơn gió từ hướng đông, tây, nam, bắc thổi đến; cành nhánh lá lay động, có thể cành nhánh gãy, lá rụng, nhưng gốc đại thụ vẫn an nhiên không nhúc nhích. Điều ấy chứng tỏ gì? Chứng tỏ cành nhánh lá lay động nhưng không thể lay động gốc, nếu rễ ken dày, sâu ở trong đất, kiên cố, vững chắc như một thạch trụ! Thân ví cho cành nhánh lá mà tâm có Định ví như gốc cây kia vậy, tâu đại vương!

- Gió dù lớn cũng không lay động, nhưng giả dụ bão lớn thì sao? Có những trận bão lớn không những lay động gốc mà còn bật tung cả gốc rễ? Ví dụ của đại đức không tương hợp, không áp dụng được ở đây rồi!

- Vẫn áp dụng được, vẫn tương hợp được, tâu đại vương! Cái tâm bị bật gốc ví cho những người mà tâm định chưa kiên cố, chưa vững chắc. Cái tâm ấy nếu bị những cơn bão, tức là những đối tượng ngũ trần lôi cuốn, quyến rũ cường liệt, thì nó cũng không thể chịu đựng nổi, bị rung động, rung chuyển hoặc bật gốc ngay! Đấy là cái tâm định từ sơ thiền đến bát thiền, rất kiên cố, nhưng vẫn có thể bị bão lay động. Chỉ có định của bậc A-la-hán mới tự tại, an nhiên và bất động đúng nghĩa. Thân vị ấy có thể bị các cảm thọ đau đớn chi phối, nhưng tâm vị ấy luôn rỗng rang, trạm nhiên, giải thoát.

- Cảm ơn đại đức đã mở mắt lớn cho trẫm.

* * *


151. Người đã phạm "bất cộng trụ", xin tu lại, có đắc được đạo quả không?

  • Bất cộng trụ: Hành dâm, trộm cắp, giết người, khoe pháp bậc cao nhân. Là giới luật tỳ kheo.

    - Thưa đại đức! Người đã phạm "Bất cộng trụ", xin tu lại, nhưng y không biết gì về tội bất cộng trụ, không hay mình phạm tội bất cộng trụ, không có ai nhắc nhở, chỉ bảo đấy là bất cộng trụ. Và chính người xin tu lại ấy không nghĩ rằng mình phạm bất cộng trụ, cứ nghĩ mình tốt, trong sạch; vẫn tinh tấn, kiên trì để hy vọng giác ngộ đạo quả cao siêu. Nhưng người ấy có thể nào chứng đắc đạo quả cao siêu không thưa đại đức?

    - Tâu đại vương! Đã phạm và đang phạm bất cộng trụ dẫu vì lý do nào, cũng không thể chứng đắc đạo quả cao siêu! Họ nỗ lực, tinh tấn mấy cũng vô ích mà thôi!

    - Đại đức phải giải thích chứ?

    - Tâu, vâng. Đạo quả cao siêu là pháp xuất thế gian. Pháp xuất thế gian chỉ phát sanh đến cho những người có giới đức trong sạch, phẩm hạnh thanh khiết. Người mà đã phạm, đang phạm bất cộng trụ thì giới và phẩm hạnh đã bị hoen ố, hư hỏng, pháp xuất thế gian không thể phát sanh đến cho người ấy.

    - Đồng ý là thế, nhưng thưa đại đức, vẫn có những trường hợp khác nhau chứ? Người đã phạm mà cố ý phạm, biết rằng mình đã phạm và đang phạm, biết rằng đấy là tội nặng, là giới trọng... thì tâm sẽ ăn năn, ray rứt, nóng nảy. Chính trạng thái ray rứt, ăn năn của tâm làm cho những pháp xuất thế gian cao siêu không phát sanh được, trường hợp này là đúng.

    Nhưng có trường hợp khác. Đấy là người phạm mà không cố ý phạm, không biết rằng mình đã phạm, không nghi ngờ mình đã phạm, không thấy biết đó là tội nặng, là giới trọng; vẫn cứ nghĩ mình trong sạch, thanh tịnh, nên tâm họ không ray rứt, ăn năn, không nóng nảy. Những người như thế ấy thì làm sao mà không đắc đạo quả cao siêu được?

    - Câu hỏi ấy hay lắm, tuy nhiên, đại vương hãy nghe đây. Có người nông phu lựa chọn giống lúa tốt, gieo trên thửa ruộng tốt thì chắc chắn đám ruộng ấy cho năng xuất cao chứ?

    - Thưa vâng.

    - Cũng cùng giống lúa ấy mà cho gieo trên đám ruộng xấu thì thế nào?

    - Dĩ nhiên là năng xuất sẽ kém hơn.

    - Giả dụ, cũng lúa ấy, lại đem gieo trên núi đá thì sao nhỉ ?

    - Ai lại làm thế được? Gieo trên núi đá thì làm sao nẩy mầm được?

    - Đúng thế, tâu đại vương! đám ruộng tốt ví cho giới trong sạch, thanh tịnh, là nơi sanh trưởng nảy nở của các pháp xuất thế gian, những đạo quả cao siêu. Những đám ruộng vừa ví cho người có giới chưa được hoàn toàn, nhưng có tâm tu, cũng đạt được một vài thành quả lợi ích. Còn núi đá tượng trưng cho đám ruộng không sử dụng được, do vậy, không thể nẩy mầm những pháp cao siêu ở nơi những người có giới hư hỏng, ác nghiệp nặng, phạm giới như bất cộng trụ!

    Đức vua Mi-lan-đà lắc đầu:

    - Nghe thì rất có lý nhưng vẫn có cái gì đó chưa được tương hợp, thích đáng, chưa được thuyết phục cho lắm. Đại đức có ví dụ nào sít sao hơn thế chăng?

    - Có thể được! Ví như đại vương lấy những vật có ít hoặc nhiều trọng lượng như cục đá, khúc cây, miếng gỗ v.v... đại vương quăng lên hư không rồi xem thử chuyện gì xảy ra?

    - Chẳng cần xem làm gì! Một hạt cát nhỏ cũng có trọng lượng, có sức nặng, vậy những vật kia sẽ rơi xuống đất thôi!

    - Chúng không thể dính vào hư không được sao?

    - Không thể, vì chẳng phải nhân chẳng phải quả.

    - Vật có trọng lượng không thể dính vào hư không được vì chẳng phải nhân, chẳng phải quả ; cũng vậy, những người phạm bất cộng trụ, tội nặng dĩ nhiên là phải rơi xuống các cảnh giới đau khổ, thấp hèn. Chúng làm sao với tới, bay lên, chứng đạt được các cảnh giới cao siêu, vì nhân quả không thích hợp, không tương ứng, tâu đại vương!

    - Hay lắm!

    - Lại nữa! Ví như người ta nhen một đống lửa lớn trên một đám đất khô ráo, lửa sẽ cháy sáng rực rỡ phải không, đại vương?

    - Đúng vậy!

    - Trái lại, kẻ kia muốn có đám lửa sáng rực rỡ như thế, bèn nhen một đống lửa lớn, nhưng lại nhen ở trong nước. Thử hỏi đại vương, người kia có đạt được ý nguyện của mình chăng?

    - Thưa, không thể. Đấy chẳng khác gì việc làm của người ngu, y chẳng thấy đâu nhân, đâu quả.

    - Đúng vậy, những kẻ muốn có đạo quả cao siêu, trí tuệ chói sáng rực rỡ mà thân tâm bị chìm đắm trong nước bùn đen của dục ái, tham ái, ác giới; mới nhen lên đã tắt ngấm ngay, việc làm ấy quả là si mê, chẳng thấy nhân quả vậy. Nhân đã tắt, đã diệt thì quả làm sao thành?

    - Thưa có thể đúng đối với trường hợp người kia biết mình làm ác, biết mình phạm bất cộng trụ, biết thân tâm mình bị chìm đắm trong nước ái dục; còn đối với trường hợp sau, họ làm ác với tâm tự nhiên, chẳng nghĩ rằng đó là giới trọng, bất cộng trụ; họ hoàn toàn chẳng nghi ngờ gì cả, không hề nghĩ đấy là hư hỏng, xấu xa, giới phạm; tâm họ trong sáng, hồn nhiên, chẳng ăn năn, ray rứt, nóng nảy gì cả. Trường hợp ấy thì sao họ không thể chứng đạt đạo quả cao siêu, nếu họ cố gắng kiên trì tu tập?

    - Đại vương! Một người ăn phải thuốc độc, nhưng họ không biết đấy là thuốc độc, không nghi ngờ đấy là thuốc độc, thì người ấy có bị ngộ độc mà chết không?

    - Đã là thuốc độc thì biết hay không biết cũng chết thôi!

    - Một người bị rắn độc cắn nhưng y không biết đấy là rắn độc, không nghi đấy là rắn dộc, thì kết quả thế nào, tâu đại vương?

    - Tất sẽ chết!

    - Việc xấu ác, phạm trọng giới bất cộng trụ là những tội nặng, biết hay không biết nó cũng đã ngấm vào tâm rồi, như thuốc độc đã ngấm vào cơ thể vậy. Biết hay không biết, thuốc độc cũng mang hậu quả chết người. Cũng vậy, biết hay không biết, nhưng xấu ác, trọng giới, tội nặng - tất phải chịu trả quả đau khổ thôi. Chỗ tội báo nặng nề ấy không thể là vùng đất thanh cao, khô ráo cho các pháp xuất thế gian nảy sinh, đại vương nên hiểu cho như vậy.

    - Thưa, vâng.

    - Lại nữa, ví như đức Chuyển luân Thánh vương Kàlinga có con bảo tượng cao quý, nó di chuyển vô ngại giữa hư không. Hôm kia, đức Chuyển luân Thánh vương khởi ý chu du thiên hạ trên bảo tượng của mình. Con bảo tượng sau khi bay qua nhiều quốc độ, bay qua núi non, sông suối, rừng rậm, thị trấn, làng mạc; đến một con sông nhỏ, chợt khựng lại, không thể lướt qua được. Xuống ngựa, đức Chuyển luân Thánh vương quan sát, xem phương hướng, vị trí, xác định điểm dừng, thì thấy một cây đại thụ Bồ đề to lớn: chỗ ngồi thành đạo của Đức Phật!

    Chính cây Bồ đề này toát ra một năng lực siêu nhiên, dù bảo tượng có nhiều thần lực cũng không thể vượt qua, lướt trên đầu cây Bồ đề ấy. Thí dụ này như thế nào thì đại vương cũng nên hiểu câu hỏi của đại vương theo nghĩa ấy. Biết hay không biết cũng không thể chứng ngộ đạo pháp cao siêu do giới hạn của trọng tội, ác giới, phạm bất cộng trụ!

    - Những ví dụ thiện xảo của đại đức mở mang rất nhiều cho trí óc của trẫm.

    * * *


    152. Cư sĩ phá giới và sa môn phá giới, hậu quả tội lỗi nặng nhẹ ra sao?

    - Tu hành mà phá giới tất là tội nặng rồi, phải không đại đức?

    - Hẳn vậy.

    - Một người cư sĩ phá giới và một sa môn phá giới, ai tội nặng hơn ai?

    Đại đức Na tiên mỉm cười:

    - Đại vương thử phát biểu ý mình xem sao!

    - Vâng, theo trẫm, cả hai cùng phá giới, ắt sa môn sẽ tội nặng hơn!

    - Tại sao?

    - Vì sa môn ăn cơm của thí chủ, sàng tọa, y áo, thuốc men đều là nợ của thập phương. Sa môn còn giữ gìn phẩm hạnh để làm gương, để dạy dỗ thiện tín, môn đồ... Chỉ chừng ấy thôi, trẫm đã xác định là sa môn phải mang tội nặng, tối thiểu là gấp đôi so với cư sĩ.

    - Lời của đại vương chỉ đúng một nửa và cũng sai một nửa. Một nửa đúng là phá giới phải mang tội. Một nửa sai là do đại vương không biết rõ những phước báu của phẩm mạo sa môn.

    - Xin đại đức giảng cho nghe!

    - Tâu, vâng. Người cư sĩ phá giới thì mang tội, nhưng mang tội ấy chỉ hại cho mình nhưng chẳng được lợi ích cho ai. Còn sa môn phá giới, tuy có hại mình nhưng còn giúp ích cho rất nhiều người khác, đại vương có biết thế không?

    Đức vua Mi-lan-đà lắc đầu:

    - Phá giới mà còn lợi ích cho người khác! Quả thật trẫm nghe chưa lọt tai, phải nói là chối tai, nhức tai nữa là khác!

    - Rồi đại vương sẽ thuận tai ngay khi nghe đến những đức tính của phẩm mạo sa môn, dù y đã phá giới.

    - Xin cho nghe!

    - Tâu đại vương! Một sa môn phá giới nhưng y còn trong phẩm mạo sa môn, y còn đức tin với Tam Bảo, y có pháp học; tiếng nói của y có giá trị trong hàng Tăng lữ... thì chúng ta không nên xem thường, vì sao, vì y được bảo trợ, nâng đỡ bởi mười đức tính sau đây:

    Thứ nhất, y biết cung kính Đức Phật.
    Thứ hai, y biết cung kính Đức Pháp.
    Thứ ba, y biết cung kính Đức Tăng.
    Thứ tư, y biết cung kính các bậc phạm hạnh.
    Thứ năm, y biết dạy Pàli và chú giải.

    Thứ sáu, y có học pháp, nghe pháp nhiều.
    Thứ bảy, dẫu đã phá giới nhưng khi đi đâu y cũng giữ gìn tư cách, phẩm hạnh; biết thu thúc thân khẩu, không để cho bất cứ ai cười chê tư cách của mình.
    Thứ tám, y có khả năng hướng dẫn và lãnh đạo chúng đồ.
    Thứ chín, hoàn cảnh nào y cũng giữ được phẩm mạo sa môn, Tăng tướng; còn là kẻ dìu dắt, hướng dẫn, nâng đỡ các hàng xuất gia hậu học.
    Thứ mười, dẫu phá giới nhưng y làm chỗ khuất lấp không cho ai hay biết.

    Tâu đại vương, chính nhờ mười đức tính ấy mà sa môn phá giới tốt hơn cư sĩ phá giới nhiều. Sa môn phá giới hội đủ mười đức tính trên, y sẽ còn mang đến lợi lạc rất nhiều cho thiện nam tín nữ. Nói rõ hơn, sa môn phá giới cũng làm cho thành tựu quả bố thí, cúng dường của đàn na thí chủ. Tất thảy có mười trường hợp lợi ích:

    Một là, do phẩm mạo tăng tướng bên ngoài trong sạch, vô tội, nên sẽ phát sanh tâm trong sạch cho thí chủ.

    Hai là, đang trong phẩm mạo sa môn, đang đi trên lộ trình của pháp lành, dẫn đường cho thí chủ bước theo để họ biết bố thí, cúng dường.

    Ba là, vẫn làm cho sự bố thí của thí chủ có kết quả, do thực hiện pháp nhỏ, pháp lớn của Tăng sự, thực hành mọi phận sự do sự chỉ định của Tăng.

    Bốn là, vẫn còn các pháp nương nhờ do qui y Tam Bảo, là lý do làm cho việc bố thí của thí chủ được thành tựu.

    Năm là, do còn thọ trì những pháp đã thọ, không ở lâu một nơi, không dính mắc trú xứ.

    Sáu là, có nghiên cứu học hỏi giáo pháp nên vẫn là đám ruộng tốt cho thí chủ bố thí gieo hạt giống lành.

    Bảy là, đem kết quả bố thí cho thí chủ vì giảng thuyết pháp cao thượng đến cho mọi người.

    Tám là, do còn pháp là nơi nương nhờ, bảo trợ, nên sự cúng dường của thí chủ vẫn mang lại phước báu tốt lành.

    Chín là, do đức tin, tri kiến thấy rõ Đức Phật là bậc tối thượng, cao thượng, quý báu nhất trong tam giới, không ai sánh bằng.

    Mười là, có công đức quét dọn nơi làm lễ phát lồ nên sự cúng dường của thí chủ kết quả vẫn tốt đẹp.

    Tâu đại vương! Ngài hãy quay ngược lại tri kiến của mình, thay đổi quan niệm của mình, vì sa môn phá giới vẫn cho kết quả thù thắng cho những ai bố thí, cúng dường. Đừng theo lý lẽ và sự hiểu biết chung chung của người đời. Họ không biết rõ sự thật đâu.

    - Vâng, vâng!

    - Nước không được tinh sạch, không uống được nhưng cũng có thể rửa sạch vật dơ, bụi đất, mồ hôi đấy, đại vương!

    - Thưa, vâng.

    - Nước sôi sùng sục cũng có thể rưới tắt đống lửa được đấy, đại vương!

    - Thưa, vâng.

    - Vật thực dù mất hương vị cũng có thể làm no những kẻ đói lòng!

    - Thưa, vâng!

    - Tóm lại, người nam nữ cư sĩ nào trú trong ngũ giới, bát giới; thọ trì giới rất tốt, rất kiên trì; lại có tâm trong sạch, vật bố thí chánh mạng, hợp pháp đến cho sa môn phá giới nhưng biết tin nghiệp, tin quả, thì chắc chắn sẽ thành tựu phước quả như y muốn. Sa môn phá giới vẫn làm cho dakkhinà (vật cúng dường) của thí chủ được kết quả, tâu đại vương!

    Đức vua Mi-lan-đà vô cùng ngưỡng mộ nên hết lời tán thán:

    - Thật phi thường thay là những lời giải đáp này. Đại đức đã làm cho tỏ lộ những pháp vị sâu kín, xứng đáng để nghe và học hỏi. Trẫm hoan hỷ mà ai nghe cũng phải hoan hỷ.

    Đại đức! Khi trao một món thịt, người đầu bếp bình thường chỉ làm được một món; còn người đầu bếp thiện xảo sẽ kiếm gia vị, rau cải để nấu canh, chiên, xào, hấp nướng... chế biến thành hàng chục món ăn cũng từ một món thịt ấy thôi. Cũng thế, trẫm chỉ trao một câu hỏi, mà đại đức đã chiên, xào, nấu... thêm gia vị... để cho trẫm được ăn một bữa thịnh soạn xiết bao! Trẫm cảm ơn lắm. Trẫm đã hết nghi rồi!

    * * *


    153. Nước có sanh mạng chăng?


    - Thưa đại đức! Nước có sanh mạng chăng?

    - Tâu đại vương! Nước vốn không có tâm, không có thức, không có sự sống, làm sao lại có sanh mạng được!

    - Thưa, theo trẫm được hiểu, những người ngoại đạo quan niệm rằng, nước lạnh là nước sống, nước nóng là nước chết, nên họ chỉ uống nước nóng thôi. Họ chê trách các sa môn Thích tử uống nước lọc, nước lạnh là giết hại chúng sanh. Điều ấy phải nên giải thích như thế nào?

    - Đấy là tà kiến, thấy sai, hiểu lầm, tâu đại vương! Nước không có sanh mạng nên chẳng phải là chúng sanh.

    - Vâng, trẫm cũng biết thế, nhưng họ bảo rằng, nước có sanh mạng, là chúng sanh; vì khi đun nước, nước đau quá nên nước sôi lên, nước kêu lên, nước sủi bọt; chứng tỏ nước có tâm, có thức biết cảm giác như tất cả giống hữu tình khác.

    - Chẳng phải thế đâu, đại vương! Nước bị lửa đốt, nóng thì kêu lên, đấy là chuyện nhân quả xảy ra rất tự nhiên!

    - Nhưng họ bảo, vì nóng nên nước kêu lên; kêu lên, chứng tỏ nước có cảm giác, có tâm thức.

    - Thế gặp những năm hạn hán, nước trong hồ, trong giếng, sông rạch đôi khi khô cạn sao nước ấy lại không kêu? Nước ở sông, giếng, ao hồ không có sanh mạng sao?

    - Vì nước ấy không nóng sôi như nước nấu!

    - Tâu, nóng sôi thì kêu nhiều, nóng ít thì kêu ít! Nếu có tâm thức thì ít ra nước cũng phải kêu lên chứ, vì mặt trời thêu đốt cho đến nỗi nước khô cạn mà!

    - Vâng, lẽ ra phải thế!

    - Tuy nhiên, nước kêu bằng nhiều giọng khác nhau cũng không phải là nước có sanh mạng! Vì sao! Nước suối kêu, nước thác đổ kêu, nước biển kêu ì ầm năm này sang năm nọ, đâu phải vì nóng sôi mà kêu! Nó lạnh, mát là khác!

    - Vâng!

    - Nước nấu sôi do nóng mà kêu. Nước suối, nước thác kêu là do đổ xuống chỗ thấp, va đập vào đá; nước biển kêu là do gió thổi tạo thành làn sóng. Làn sóng này đập vào làn sóng kia, sóng đập vào bờ, vào chân núi nên có tiếng kêu. Nói tóm là do tác động của sức nóng, của gió, do va đập mà kêu chứ đâu phải nước có sanh mạng, có tâm, có thức, tâu đại vương!

    - Vâng!

    - Lại nữa, ví như nước nóng bốc hơi lên giữa hư không kết tụ làm mây, gió thổi đưa đám mây ấy tan tác, rơi chỗ này, chỗ kia gọi là mưa. Mưa ấy rơi xuống đất, một phần ngấm trong đất sau thành nước mạch, nước giếng, một phần thành hồ, thành ao, thành sông... rồi thành biển. Chỗ nước lặng, không kêu, không nổi thành sóng là nước trong vại, trong chum, không có sức nóng đốt và không có gió. Chỗ nước sôi động, kêu là do có sức nóng, do va đập, do gió. Đơn giản chỉ có vậy. Cho nên, nước nóng hay lạnh đều không có tâm, có thức, có sanh mạng!

    - Thưa vâng!

    - Người ta căng da trống, đánh lên, trống kêu đâu có sanh mạng gì đâu, đại vương!

    - Vâng,

    - Con voi lấy vòi hút nước uống, vì vòi voi dài, rỗng nên nước kêu lên chứ đâu phải là vì có tâm thức!

    - Thưa, vâng.

    - Thuyền chở hàng, căng buồm vượt biển lớn, sóng vỗ vào mạn thuyền mà kêu, tâu đại vương!

    - Vâng!

    - Có những loài cá to lớn sống dưới biển, thường hay đùa giỡn, hút nước phun lên giữa hư không; nước qua miệng và răng chúng nên kêu lên, chứ có sanh mạng nào ở đó, tâu đại vương! Vậy lời của ngoại đạo, sự chấp kiến của ngoại đạo hoàn toàn sai lầm.

    - Trẫm đã thấy rồi!

    * * *


    154. (Trùng với câu hỏi 141)

    * * *


    155. Trên thế gian này cái gì không sanh?

    - Thưa đại đức! Trên thế gian này, từ những bậc thượng đẳng như Đức Phật Toàn Giác, Phật Độc Giác, Phật Thinh Văn Giác... tuy được gọi là Vô sanh, nhưng quả thật những vị ấy đã có mặt giữa thế gian, đã sanh ra từ thế gian!

    - Vâng, bần tăng đồng ý.

    - Các đức Chuyển luân Thánh vương, vua chúa, chư thiên, loài người... đều được sanh ra như thế?

    - Tâu, vâng.

    - Nói rộng ra, người có của hoặc người không có của, là khổ hoặc vui, là nữ hay nam, có phước, có tội... tất thảy... đều y như thế?

    - Tâu, vâng.

    - Chúng sanh các loại, từ noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh... cũng vậy nữa?

    - Quả vậy.

    - Loài không chân, hai chân, bốn chân hoặc nhiều chân. Các loại dạ xoa, ma da, cưu bàn trà (kumbhanda), a tu la, càn thát bà, cẩn na la, rồng, đại bàng, voi, ngưa, trâu, bò, lạc đà, lừa, dê, cừu, nai, heo, sư tử, cọp beo, gấu, chó sói, chó nhà, chó rừng... hẳn cũng đều được sanh ra giống nhau.

    - Dĩ nhiên rồi!

    - Rồi, cả kim, ngân, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não, ngọc ma ni, hột xoàn, đồng đen, đồng đỏ, đồng trắng, đồng vàng... cho chí vải, gấm vóc, lụa là... cũng đều là vật được sanh?

    - Tâu, vâng!

    - Ngoài những thứ ấy, có cái gì, có vật gì... mà nó "không sanh", thưa đại đức?

    - Có ba cái "không sanh", tâu đại vương!

    - Xin kể nghe?

    - Những vật có tâm lý, có tác ý, có sinh khí, có cảm giác, là chúng sanh hữu tình đều là cái có sanh ra. Cho chí những vật được cấu tạo, hữu cơ hoặc vô cơ; chúng sanh vô tình như thảo mộc, hoặc đất đá vô tri... vẫn được sanh ra. Tất cả chúng phải nằm trong định luật già chết hoặc biến hoại, tiêu diệt. Vậy cái "không già, không chết, không biến hoại, không đổi khác" không được sanh ra trong thế gian, tâu đại vương!

    - Hay lắm! Vậy cho trẫm nghe cái "không sanh" thứ hai?

    - Tâu, vâng. Theo ngôn ngữ chế định, qui ước của thế gian thì gọi người, voi, gạo, ngọc, chanh, khế v.v... nhưng theo đệ nhất nghĩa đế, thắng nghĩa pháp, siêu lý thì "không có cái gì là người, voi hay ngựa cả!" Vậy cái "không phải người, voi, ngựa v.v..." cái không thuộc ngôn ngữ chế định, cái siêu lý, cái đệ nhất đế... chúng không sanh ra, không bị sanh, không được sanh trong thế gian, tâu đại vương!

    - Thật vi diệu.

    - Thứ ba: Tất cả hành đều vô thường, thay đổi không bền vững! Vậy cái "trường tồn, chân thường, vững bền", chúng "không sanh" trong thế gian, chúng không thể có mặt, hiện hữu trong thế gian, tâu đại vương!

    Đức vua Mi-lan-đà tán thán:

    - Đại đức đã hé cánh cửa cho trẫm thấy những pháp siêu thế, thật cao siêu, mầu nhiệm vậy. Rất tri ân đại đức.

    * * *


    156. Bậc A-la-hán còn phạm giới?

    - Bậc A-la- hán còn si mê không đại đức?

    - Tâu, đã xa lìa hẳn si mê rồi.

    - Thế các ngài còn phạm giới không?

    - Có đôi khi còn giới phạm, tâu đại vương!

    - Giới phạm do trường hợp nào, lý do nào?

    - Tâu, các bậc A-la- hán phạm giới thường là do vô tâm, vô ý hay không biết. Tất cả có bốn trường hợp:

    Thứ nhất: vô tâm, vô ý (hình thức thì có phạm nhưng nội dung, tính chất thì không, vì vị ấy không cố ý, không tác ý).
    Thứ hai: do không phải thời (phi thời) mà tưởng là thời.
    Thứ ba: ngăn vật thực rồi mà tưởng là chưa ngăn.
    Thứ tư: đồ dùng không phải dư mà tưởng là dư (không phải xả mà xả)

    Đức vua Mi-lan-đà lắc đầu:

    - Trẫm không đồng ý như thế. Bốn lý do đại đức đưa ra có thể tóm thành hai lý do: phạm giới do vô tâm, không lưu tâm, tất là không chú tâm, không chánh niệm; và tội do không biết, là si mê. Một vị A-la- hán không thể nào si mê và thiếu chú tâm, thiếu chánh niệm được!

    Đại đức Na tiên mỉm cười:

    - Chí lý lắm. Nhưng đại vương hãy nghe đây. Giới của Đức Thế Tôn đặt ra gồm có hai loại: những giới thuộc về thế gian, tức là những giới nằm trong định luật nhận quả, có khen chê, có tội phước. Loại giới thứ hai, Đức Thế Tôn chế định chỉ riêng cho bậc xuất gia mà thôi.

    Những tội thuộc về thế gian gọi là Loka vajja.

    Những tội thuộc về giới chế định gọi là Pannatti vajja.

    Những tội thuộc về thế gian, ví du nhự thập ác nghiệp: cư sĩ hoặc tỳ khưu đều phải thọ trì.

    Những tội thuộc về giới chế định chỉ dành cho hàng xuất gia: ví dụ ăn sái giờ, nhổ cỏ, đào đất v.v... Loại chế định này, cư sĩ không thọ trì, họ phạm không có tội, nhưng tỳ khưu phạm thì tội. Các vị A-la- hán tuyệt đối không phạm các tội thuộc về thế gian (loka vajja) ví dụ mười ác nghiệp. Nhưng các tội thuộc về chế định, đôi khi vô tâm, vô ý hoặc không biết, nên phạm phải cũng là lẽ thường thôi. Đại vương đừng nên đem chuyện thiếu chánh niệm và si mê áp dụng vào đây!

    - Xin đại đức giảng rộng hoặc ví dụ cho nghe về sự vô tâm, vô ý hoặc không biết ấy.

    - Tâu, vâng. Ví dụ có một vị A-la- hán trước đây là một nông phu, vị ấy chỉ biết về pháp hành, giác ngộ, giải thoát, ngoài ra, vị ấy có biết gì nữa không đại vương?

    - Vị ấy biết về gieo hạt, trồng tỉa, những chuyện liên quan về cày bừa, gặt hái v.v...

    - Thế thì thiên văn, địa lý, sử truyện, văn phạm, cú pháp v.v... vị ấy có biết không?

    - Dĩ nhiên là không biết.

    - Không biết ấy có phải là si mê không?

    - Thưa, cái biết ấy thuộc về kiến thức thế gian, thuộc về trí thế gian, không gọi là si mê được!

    - Đúng thế. Khi không thấy biết tham, sân của mình, hành động theo tham sân, đắm đuối trong ngũ trần mới gọi là si mê. Vậy tại sao đại vương dám khẳng định vị A-la- hán không biết, là si mê?

    - Vâng, trẫm biết mình sai rồi.

    - Lại nữa, ví dụ có vị A-la- hán sau khi đi khuất thực về, chánh niệm, tỉnh giác, lựa tìm một cội cây. Vị ấy chánh niệm, tỉnh giác soạn y bát ra, chánh niệm, tỉnh giác độ vật thực, chánh niệm tỉnh giác nhai, nuốt. Sau khi ăn xong, vị ấy dọn dẹp rửa ráy, cất đặt cũng hoàn toàn chánh niệm, tỉnh giác. Cũng chánh niệm tỉnh giác vị ấy đứng dậy hoàn toàn không hay biết, hoàn toàn không để ý lúc ấy đã quá ngọ. Như thế, vị ấy dùng vật thực phi thời (quá ngọ) - tức là phi thời mà tưởng là thời! Vị ấy đã phạm giới do vô tâm, vô ý không biết; nhưng tâm thái hoàn toàn sáng suốt, định tĩnh, chứ đâu có lơ là, dễ duôi, thất niệm hoặc si mê, hở đại vương!

    - Trẫm biết rồi!

    - Ngăn vật thực rồi, mà tưởng là chưa ngăn; y áo, vật dụng không phải là dư thừa mà xả đi, cũng do vô ý, vô tâm như trên cả, tâu đại vương!

    - Vâng!

    - Ngoài ra, còn rất nhiều điều vị ấy chưa biết nên thực hành sai, nói sai, phạm vào những giới cấm thuộc về chế định (Pannatti vajja) - cũng là thường thôi! Chỉ có một điều vị ấy biết chắc chắn, đó là sự giải thoát và biết những gì mình đã kinh nghiệm qua, thực hành, học hỏi hay thói quen trước đây. Vị ấy không thể biết gì ngoài trình độ và sự chứng đắc của mình. Những vị biết về một thông, hai thông, ngũ thông... cũng vậy. Những vị thuộc lòng một tạng, hai tạng, ba tạng... cũng y như thế. Sở học, chứng đắc ngang đâu thì biết ngang đó. Tất cả các vị A-la-hán đều có sự khiếm khuyết về kiến thức, về tâm, về tuệ. Chỉ có Phật Toàn Giác mới hoàn toàn mọi phương diện. Đại vương nên hiểu như vậy.

    - Xin Đại đức bi mẫn tha thứ cho những hiểu lầm của trẫm.

    - Không có chi!

    -ooOoo-

    Mời xem tiếp: 157-163

    Duới đây là "Danh Mục" thu gọn,
    xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn Bài xem
    xong bấm vào "CHỌN XONG, BẤM VÀO ĐÂY ĐỂ XEM":





    TRUYỆN PHẬT GIÁO

    TRỞ VỀ DIỄN ĐÀN

  • THỂ LOẠI: TRUYỆN PHẬT GIÁO | CẬP NHẬT bởi: atoanmt
    Xem: 908 | TẢI XUỐNG: 0 | ĐÁNH GIÁ: 0.0/0
    Tổng-số Ý-kiến: 0
    CHỈ CHO THÀNH VIÊN GÓP Ý
    [ ĐĂNG-KÝ | ĐĂNG NHẬP ]