Thứ Năm
18 Apr 2024
8:31 PM
ĐĂNG NHẬP


Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

File Catalog

TRANG CHÍNH » HỒ SƠ » TRUYỆN PHẬT GIÁO

MI-TIÊN VẤN ĐÁP 40
24 Apr 2015, 7:40 AM
193. Về Ghe Thuyền dính đá ngầm

- Xin đại đức cho nghe về trường hợp Ghe Thuyền dính đá ngầm?

- Thế nếu Thuyền dính đá ngầm thì tình trạng nó ra sao hở đại vương?

- Thưa, Ghe, Thuyền mà dính đá ngầm rồi thì không tới, không lui được.

- Tâu, vâng. Khi tâm của một hành giả đã diệt thảy tất cả mọi tà tư duy, đã làm cho yên lặng luyến ái, sân hận, đã phá vỡ si mê rồi - thì tâm ấy sẽ trạm nhiên, bất động, thanh tịnh; sẽ ở yên một chỗ, chẳng còn xao động, chẳng còn lăng xăng đi chỗ này, chỗ nọ, chỗ kia, chỗ khác nữa!

- Vâng, vâng! còn điểm nào nữa không hở đại đức?

- Tâu, còn điểm hai nữa. Là khi Thuyền dính đá ngầm rồi, hẳn là Thuyền phải chìm xuống. Cũng thế, một hành giả khi tâm đã trạm nhiên, thanh tịnh, bất động rồi, sẽ từ từ chìm lắng vào trong pháp. Khi tâm đã chìm lắng trong pháp, vững chắc trong pháp, thì không gì có thể lay động được nữa. Đúng như ngài Xá-lợi-phất đã thuyết: "Thuyền khi chìm trong biển thì không có gì lay động được. Một vị tỳ khưu tâm đã chìm vào trong pháp rồi, những lợi lộc, danh vọng, khen tặng... chẳng thể làm cho giao động được."

* * *


194. Về Cột Buồm

- Còn về cây trụ Buồm, thưa đại đức? Nó liên hệ gì với sa môn hạnh?

- Tâu, cây trụ Buồm sở dĩ nâng được lá Buồm to nặng, là do bản thân nó kiên cố, vững chắc; đồng thời có sự liên kết đồng bộ bởi dây neo chắc bền, các trụ phụ, dây ròng rọc để kéo v.v... Tương tự thế, một vị tỳ khưu sở dĩ nâng đỡ được pháp hành cao thượng, thành tựu sa môn hạnh thiêng liêng, là do tâm và tuệ của vị tỳ khưu ấy vững chắc, đồng thời nhờ sự hỗ trợ thường trực của chánh niệm và tỉnh giác. Chánh niệm, tỉnh giác khi đi tới, đi lui, lúc ngồi nằm, đắp y vai trái, tăng già lê, lúc ôm bát khất thực, lúc uống nước, ăn cơm, lúc đại tiện, tiểu tiện, khi đang nói, lúc im lặng v.v... Đúng như Đức Thiện Thệ đã thuyết: "Này các thầy tỳ khưu! Các thầy phải thường trực chánh niệm, tỉnh giác; hãy bổ túc sa môn hạnh bằng chánh niệm, tỉnh giác. Chánh niệm, tỉnh giác chính là giáo huấn tinh tủy của giáo pháp Như Lai."

* * *


195. Về Người cầm lái Thuyền


- Thưa đại đức! về Người cầm lái Thuyền thì có ba chi, mong đại đức cho nghe luôn thể.

- Vâng, thứ nhất, Người cầm lái Thuyền phải cẩn trọng, cẩn thận, tỉnh thức, chú ý đúng, hướng tâm đúng để dẫn con thuyền đến nơi an toàn. Tương tự thế, vị tỳ khưu phải cẩn trọng, thận trọng, tỉnh thức, hướng tâm đúng, chú ý đúng để dẫn mình đến nơi hạnh phúc tối thượng là Niết-bàn.

Đức Thế Tôn có dạy rằng: "Các thầy chớ nên dễ duôi, giải đãi mà hãy tinh cần, nỗ lực, tỉnh thức, kiên trì để giải thoát tâm ra khỏi mọi phiền não; như con tượng vương dù bốn chân bị dính chặt trong bùn, vẫn cố nỗ lực, kiên trì để thoát ra."

Điều thứ hai, Người cầm lái Thuyền thường biết rành rẽ nơi nào có đá ngầm, nơi nào có nước xoáy, nơi nào có dòng nghịch lưu...; để biết cách tránh né, chuyển phương, chuyển hướng v.v.. Vị tỳ khưu nào có khác gì? Phải biết rành rẽ chỗ này nguy hiểm, nơi kia không nguy hiểm, điều này tốt, điều kia xấu, cái này tội, cái kia không phải tội, người này nên thân cận, kẻ kia không nên gần gũi, pháp này cao thượng, pháp kia là hạ liệt vv... để tránh né đúng, viễn ly đúng, hướng tâm đúng, v.v...

Điều thứ ba, Người cầm lái hằng điều chỉnh kim vận tốc, kim phương hướng; tự tay mình điều chỉnh các loại kim đồng hồ chứ không dám tùy tiện giao phó cho ai. Các vị sa môn cũng y như thế, phải tự động điều chỉnh tâm mình, ý mình, phải tự thu thúc, điều chỉnh lục căn, cẩn thận cả từng suy tư, niệm tưởng để khỏi rơi vào tà tư duy, ác tưởng, tạp tưởng - chứ không thể nhờ cậy ai, phó thác cho ai. Đức Phật cũng có dạy trong kinh Samyutta rằng: "Này các thầy tỳ khưu! Các thầy đừng tư duy đến các điều ác, bất thiện pháp, vì ác, bất thiện là có tội báo. Những ác tư duy, những bất thiện tư duy ấy là gì? Đó là dục tư duy, sân tư duy và hại tư duy!"

Đấy là ba chi về Người cầm lái Thuyền, tâu đại vương.

- Rất rõ, cảm ơn đại đức!

* * *


196. Về Người Làm Công


- Về Người Làm Công thì phải biết chăm lo công việc của mình. Người Làm Công muốn nhận được tiền công xứng đáng, muốn nhận được sự khen thưởng thì phải siêng năng, cần mẫn, chăm lo từng công việc, từ nhỏ đến lớn, từ dễ đến khó, từ ngoài vào trong v.v... Một vị tỳ khưu muốn được qủa vị xứng đáng, muốn được phần thưởng tôn vinh cao quý là Niết-bàn, phải biết chăm lo bổn phận của sa môn. Các công việc thường xuyên như quán thân là bất tịnh, quán thân chỉ là đất, nước, lửa, gió; hoặc thực hành chỉ tịnh, quán minh v.v... mỗi mỗi, vị tỳ khưu phải làm cho tốt, làm cho thiện xảo... để thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, thóat khỏi sầu, bi, ưu, não v.v... Đúng như tôn giả Xá-lợi-phất đã thuyết:
"Các thầy phải thường xuyên quán tưởng thân để thấy rõ sự thật về thân. Khi thấy rõ sự thật về thân rồi thì các thầy sẽ diệt tận mọi nỗi khổ đau trên trần thế."

- Trẫm đã hiểu, thưa đại đức!

* * *


197. Về Biển Cả


- Tâu đại vương! Biển cả có năm đặc tính, năm điều cần phải ghi nhớ, chắc đại vương đã hiểu rõ, không cần phải giải bày, phải chăng?

- À, có thể trẫm đã hiểu rồi. Năm điều của Biển cả là:

Đẩy những xác chết bất tịnh lên bơ;
Biển chứa trong lòng nó những loại ngọc quý báu;
Nơi cư trú của nhiều loại động vật, thực vật;
Luôn luôn đầy nước;
Không bao giờ tràn bờ.

Có phải thế không, đại đức?

- Phải rồi, nhưng đại vương liên hệ, tương quan năm điều ấy với phẩm hạnh sa môn như thế nào?

- Thưa, vâng. Năm điều trên tương quan với năm điểm của sa môn như sau:

Thứ nhất, tâm của một tỳ khưu luôn đẩy những tham lam, sân hận, si mê, ngã chấp, bạc nghĩa, quên ơn, bỏn xẻn, ganh tỵ, điệu bộ, khoe khoang, kiêu ngạo, nói dối, trược hạnh... ra bên ngoài. Tâm ấy luôn luôn bảo vệ sự thanh khiết cho mình.

Thứ hai, tâm của vị sa môn hằng cất giữ những pháp quý báu như thiền định, quán minh, thần thông, đạo quả v.v..

Thứ ba, tâm của vị sa môn là nơi cư trú của những thiện pháp như: tri túc, thiểu dục, tàm quý, nhẫn nại, tinh tấn, đức tin, từ, bi, hỷ, xả v.v...

Thứ tư, tâm của vị sa môn luôn đầy đủ học giới, dù bị đe dọa sanh mạng cũng không để cho học giới của mình bị khiếm khuyết.

Thứ năm, tâm của vị sa môn không bao giờ tự mãn rằng kiến thức, hiểu biết của mình đã đầy, đã đủ, nên vẫn chăm chuyên nghe chú giải, học Pàli, kinh, bổn sanh, vi diệu tạng v.v...

Năm điều ấy của sa môn khả dĩ so sánh với năm tính chất của biển, phải vậy không, đại đức?

- Tâu, vâng, chính xác lắm.

Đức vua Mi lan đà lại hỏi tiếp:

- Đại đức còn nhiều ví dụ về sa môn hạnh lắm phải không?

- Vâng, còn, rất nhiều.

- Đại đức có thể liệt kê tiêu đề cho nghe được chăng?

- Được. Vậy đại vương hãy nghe. Sa môn hạnh còn có thể được ví với những điều sau đây:

Năm điều của quả đất;
Năm điều của nước;
Năm điều của lửa;
Bốn điều của gió;
Năm điều của núi;
Năm điều của hư không;
Năm điều của mặt trăng;
Sáu điều của mặt trời;
Ba điều của trời Đế thích;
Bốn điều của vua Chuyển luân;
Một điều của con mối;
Hai điều của mèo;
Một điều của chuột;
Một điều của bò cạp;
Một điều của chồn;
Hai điều của chó rừng;
Ba điều của bò;
Hai điều của heo;
Năm điều của voi;
Bảy điều của sư tử;
Ba điều của vịt nước;
Hai điều của chim Venàhikà;
Một điều của chim sẻ;
Hai điều của chim cu;
Một điều của con rít;
Hai điều của con dơi;
Một điều của con đĩa;
Ba điều của con rắn;
Một điều của con trăn;
Một điều của nhện giăng lưới;
Một điều của trẻ ngậm vú mẹ;
Một điều của rùa vàng;
Năm điều của rừng già;
Ba điều của cây đại thọ;
Năm điều của mưa;
Ba điều của ngọc ma ni;
Bốn điều của người săn thú;
Hai điều của người câu cá;
Hai điều của người thợ bào;
Một điều của người thợ gốm;
Hai điều của con quạ;
Ba điều của cái dù;
Ba điều của ruộng;
Hai điều của thuốc trị rắn độc ;
Ba điều của vật thực;
Bốn điều của người bắn cung v.v...

Nghe đến ngang đây, đức vua Mi lan đà nói:

- Vậy là quá nhiều rồi, thưa đại đức. Có thể trong số ví dụ ấy, trẫm đã được nghe vài lần rồi; nhưng mà vì lợi ích cho phần đông, đại đức bi mẫn nói lại, lặp lại cũng không sao. Trẫm sẵn lòng rửa tay để lắng nghe.

- Tâu, vâng!

* * *


198. Về Quả Đất

- Về Quả Đất thì có năm điều, tâu đại vương!

Nó tương tự với năm đức tính của sa môn hạnh như sau:

Thứ nhất, dù ai quăng bỏ lên đất những vật bất tịnh như đàm, dãi, nước mũi, đại tiểu tiện... quả đất cũng không hề khởi tâm thương hoặc ghét, vừa lòng hoặc không vừa lòng.

Một vị sa môn nên học hạnh quả đất. Dù ai khen, chê, dù được lợi lộc hay mất lơi lộc, dù được danh hay mất danh, dù bị ai nguyền rủa, phỉ báng, không vì vậy mà vị sa môn dậy tâm bất bình, thương ghét v.v...

Thứ hai, quả đất không hề trang sức, trang điểm cho mình; nhưng quả đất có đầy đủ ngọc ngà châu báu, đầy đủ tất cả vật thoa, vật thơm.

Một vị sa môn không nghĩ rằng mình có một cái ngã để trang điểm, một cái ngã để trang sức; nhưng quả thật vị sa môn luôn trang sức, trang điểm cho mình những hương liệu quý báu được toát ra từ giới đức, phẩm hạnh của mình.

Thứ ba, Quả Đấtt hằng nâng đỡ, che chở cho quốc độ, xóm làng, châu quận, người vật, núi sông, cây cỏ, vạn loài...

Cũng vậy, vị sa môn phạm hạnh là người hằng siêng năng làm nơi nâng đỡ, che chở cho chúng sanh, giáo huấn chúng sanh, nhắc nhở chúng sanh tinh tấn tu tập thiện pháp.

Thứ tư, Quả Đất đầy đặc cả một khối, không chắp vá, không vỡ vạc, không rời từng mảnh. Tương tự như vậy, học giới của vị sa môn phải được đúc thành một khối thuần nhất, không thể bị khuyết phạm, bể lủng, chắp vá hoặc đứt rời ra từng điều được.

Thứ năm, Quả Đất luôn luôn bình đẳng, không thiên vị, không hiềm hại ai mà cũng chẳng luyến ái chúng sanh nào. Cũng vậy, tâm vị sa môn cũng phải bình đẳng, không thiên vị; chẳng thương bên này ghét bên kia, thích chỗ này, bất bình chỗ kia v.v...

Cận sự nữ Culasubhaddà có nói:\
"Trước đây, tôi có vọng động giết hại chúng sanh bằng đùi gậy hay bằng giáo mác; tôi đeo tràng hoa, tôi thoa vật thơm và cảm thấy thỏa thích.Bây giờ học Phật, tâm tôi không còn bất bình, sân hận, không còn ngã chấp, luyến ái. Tâm của tôi giống như quả đất vậy, đúng là tâm của một bậc sa môn!"

* * *


199. Về Nước

Đại đức na-tiên nói:

- Nước có năm điều cần phải được học hỏi, đại vương còn nhớ chứ?

- Vâng, còn nhớ, nhưng xin đại đức cứ giảng cho.

- Cũng được, tâu đại vương.

Thứ nhất, bản chất của Nước vốn trong trẻo do nhiễm bẩn mà trở nên đục vẩn. Vị sa môn sống giữa thế gian cũng cần phải giữ tâm trong trẻo, đừng vì lời nói hay đẹp mà vừa lòng, đừng vì lời nói xấu ác mà mếch lòng.

Thứ hai, tính Nước thường mát mẻ, dịu hòa; bậc sa môn phải biết giữ tâm nhu hòa, từ ái, mát mẻ đối với tất cả chúng sanh.

Thứ ba, Nước có công năng tẩy sạch, giặt rửa những dơ bẩn; vị sa môn cũng hằng tẩy rửa những bất tịnh, xấu xa trong lòng mình y như thế.

Thứ tư, Nước là nhu cầu thiết yếu duy trì sanh mạng của tất cả chúng sanh; vi sa môn cũng phải là nơi cho chư thiên và loài người nương nhờ để duy trì phước mạng và tuệ mạng của họ.

Thứ năm, Nước hằng đem đến lợi ích, an vui cho người, vật, chim muông, cây cỏ - từ việc ăn uống, giặt rửa, trồng hoa qủa, rau trái v.v... cho đến sông ngòi, suối khe, khí hậu v.v... Vị sa môn cũng phải biết dùng lời từ ái, tâm bi, tâm hỉ, thuyết pháp, sống đời tri túc, nhẹ nhàng, an tịnh... để ban rãi sự sống trong lành, cao đẹp cho tất cả chúng sanh.

Đúng như đức Bồ tát có lần nói với trời Đế Thích: "Ngài là vị trời có nhiều quyền năng và quyền lực, nếu ngài muốn thành tựu cho tôi một ước nguyện, thì tôi sẽ không mong ước nguyện ấy thành tựu cho mình, tốt đẹp cho mình. Tôi sẽ ước nguyện rằng, cầu cho tất cả chúng sanh biết thương yêu nhau, đừng ai quấy phá, bức hại ai; đừng có chúng sanh này làm cho đau đớn chúng sanh khác, dù là tí chút."

Đấy là tất cả 5 điều về Nước, tâu đại vương!

* * *


200. Về Lửa

-Về Lửa cũng có năm điều, tâu đại vương.

Thứ nhất, Lửa có tính năng là đốt cháy, thiêu hủy mọi vật không phân biệt sạch, dơ, khô hoặc tươi. Vị sa môn cũng cần phải dùng tuệ diệt, tuệ thiêu hủy để đốt cháy tất cả phiền não bên trong và bên ngoài; cả chuyện vừa lòng lẫn cảnh nghịch ý.

Thứ hai, Lửa không có lòng dạ thương xót cỏ rác, gỗ mục hay hoa đẹp, cây xanh. Nó đốt hết. Cũng vậy, vị sa môn cũng không nên có lòng dạ thương tưởng đến các loại phiền não, dù phiền não ấy thô thiển hay tế vi, có sắc xấu hay sắc đẹp. Phải đốt hết, không một loại trừ nào cả.

Thứ ba, Lửa có tính năng đối đãi với lạnh, đối trị với lạnh, ngăn sự lạnh. Cũng vậy, vị sa môn cũng phải khởi lên sức lửa của tinh tấn để ngăn ngừa, đối trị với phiền não.

Thứ tư, Lửa tỏa nhiệt, tỏa hơi nóng. Người ta có thể dùng lửa để nấu ăn, để đốt vật dơ uế, để sưởi ấm, đem đến lợi ích cho nhiều người. Cũng vậy, vị sa môn cũng phải biết lấy lửa nhiệt tình, lửa ấm áp... ấy để đem đến lợi ích cho chư thiên và loài người.

Thứ năm, Lửa hằng chiếu sáng, soi rọi được những chỗ tối tăm. Cũng vậy, vị tỳ khưu phải biết dùng trí tuệ, tuệ minh để chiếu rọi mọi ngõ ngách thâm u của vô minh, ái dục và tà kiến. Tương tự như lời Đức Phật dạy cho Ràhula như sau: "Này Ràhula! Con hãy thường xuyên tham thiền về lửa, quán tưởng về lửa, đến một lúc, tâm con sẽ giống như lửa; khi ấy, các bất thiện pháp sẽ không còn đè nén, bức hại tâm con được."

* * *


201. Về Gió

- Về Gió cũng có bốn điều cần phải học hỏi, đại đức hãy giảng tiếp cho nghe?

- Tâu, vâng.

Thứ nhất, Gió mạnh làm cho cây gãy, lá rụng, đôi khi bật luôn cả gốc rễ; vị sa môn cũng phải tu tập, tạo sức gió mạnh - do định lực và tuệ lực - để cành nhánh, lá, gốc rễ của những pháp hành (Sankhàra), của phiền não bị rơi rụng, bậc gốc đi cũng y như thế!

Thứ hai, Gió thường ngao du, đi khắp giữa hư không, cũng vậy, vị sa môn cũng phải để tâm tiến tu, phải đi khắp vào các cõi xuất thế gian.

Thứ ba, Gió thổi mang mùi hương hoa rừng thơm ngát đi nơi này nơi kia; vị ẩn sĩ sa môn cũng phải mang hương hoa trong lành của giới, của giải thoát tỏa đi khắp các cõi người và trời y như thế.

Thứ tư, Gió không có trụ xứ, không lưu luyến chỗ ở, thanh thoát đi nơi này đến nơi kia, không ai tìm ra dấu vết. Cũng vậy, vị tỳ khưu không nên có chỗ ở, không lưu luyến trụ xứ, không quyến niệm ai, không ràng buộc bởi ai, thanh thản đi nơi này đến nơi kia không hề dính mắc. Đúng như lời Đức Tôn sư đã thuyết:
"Không có chỗ ở thì sẽ không có chuyện lưu luyến chỗ ở. Khi không có lưu luyến chỗ ở thì trần cấu, phiền não sẽ không có. Đấy là cảnh giới của bậc Mâu ni."

* * *


202. Về Núi

- Về nNúi cũng có năm điều, tâu đại vương!

Thứ nhất, Núi thường ở một chỗ, không chuyển động, không lay động,không dời đổi dù gió to hay bão dữ. Vị sa môn cũng phải biết học núi. Phải biết trụ tâm vững chắc, kiên định, không lay chuyển, không chấn động, không dời đổi giữa cõi thiện ác, phải trái, khổ vui, được danh, mất danh, được lợi, mất lợi; giữa tham và sân, giữa đúng và sai v.v... Đúng như Đức Đại Bi đã thuyết:
"Núi đầy đặc không trống bộng ở giữa, không hề di động hay chuyển động. Bậc trí tuệ cũng nên như thế, phải đầy đặc giới định tuệ, không trống rỗng ở giữa; khả dĩ an nhiên, tự tại... trước lời khen, tiếng chê của cuộc đời."

Thứ hai, Núi là một khối thuần nhất, độc lập; không thể dời núi đi đâu, không thể dồn núi vào chung một quần cư, không thể chất đống núi lại. Tương tự thế, vị sa môn không thể thay đổi, di dời chí nguyện và phẩm hạnh, không thể quần cư hỗn tạp chung với bất cư ai, dù là giới xuất gia hay là cư sĩ, người đời!

Thứ ba, trên đỉnh Núi không cây gì mọc được, cũng vậy, vị sa môn phải giữ tâm mình như đỉnh núi, không thể cho bất kỳ hạt giống phiền não nào nẩy mầm, tăng trưởng được.

Thứ tư, đỉnh Núi là chỗ cao nhất của ngọn núi, bởi vậy, hành giả cũng phải nên tu tập, tiến hóa đến đỉnh cao của trí tuệ. Đúng như Đức Đạo Sư đã thuyết: "Bậc trí thức ở đời phải biết khắc phục sự dễ duôi, giải đãi, buông thả, khi ấy mới có thể lên được trí tuệ đỉnh cao. Ở đấy, sẽ không còn si mê, ưu sầu; nhìn xuống thế gian thì chúng sanh đang si mê, ưu sầu ... khổ đau không thể tả.

Thứ năm, một ngọn Núi cao thì không bao giờ tự làm mình trở thành bình địa, cũng vậy, vị sa môn sống hạnh khước từ, xuất ly thế gian, không bao giờ để cho tâm mình đồng hóa với thế gian, biến thành như thế gian. Tương tự thế, nàng cận sự nữ Subbaddà có nói rằng: "Phàm tình chúng sanh ở trong đời, nếu được lợi thì kiêu mạn, cuồng vọng; nếu mất lợi thì ưu sầu, thở than. Là sa môn, chúng ta không như thế, không bao giờ vì lợi lộc, khen tặng mà để tâm trôi nổi theo thế gian thường tình."

Tất cả đấy là năm chi về Núi, tâu đại vương!

* * *


203. Về Hư Không


Đại đức Na-tiên nói:

- Về Hư Không thì chắc đại vương còn nhớ chứ?

- Vâng, còn nhớ. Nó có năm điều là:

Thứ nhất, không ai nắm bắt được.
Thứ hai, là nơi dạo chơi của chư thiên hoặc người có thần thông.
Thứ ba, không có chỗ ở.
Thứ tư, không cùng tột.
Thứ năm, trống rỗng, không ngăn lại.

Đại đức na-tiên đáp:

- Đúng vậy. Một vị tỳ khưu với sa môn hạnh của mình cũng không để tâm cho phiền não nắm bắt; phải dạo chơi ở chốn không bị ràng buộc bởi vô thường, khổ não, vô ngã; lìa tất cả mọi cảnh giới, không trú vào một cõi nào, tài tình danh lợi không vướng mắc; phải có tâm vô lượng, giới vô lượng, tuệ vô lượng, không có mé bờ.Thứ năm là tâm phải rỗng không, hoàn toàn không ngăn ngại trước mọi phe nhóm, thân quyến, lợi lộc v.v...

Tất cả năm điều ấy, đúng như Đức Đạo sư đã dạy Ràhula:
"Này Ràhula! Con nên thực hành, tiến tu, làm thế nào cho tâm trở nên rỗng không, như hư không vậy."

* * *


204. Về mặt Trăng

- Về mặt Trăng, xin đại đức giảng giải cho, nó có mấy điều cùng sự liên hệ với sa môn hạnh?

- Tâu, vâng. Mặt Trăng cũng có năm điều:

Thứ nhất, những đêm đầu tháng, Trăng thượng huyền tỏa ánh sáng rất yếu; nhưng rồi nó sẽ sáng dần lên cho đến khi Trăng tròn. Phàm sự tu tập cũng y như thế. Pháp học, pháp hành đều y như thế. Giới định tuệ cũng y như thế. Nghĩa là từ từ mà trau giồi học giới, từ từ mà an trú tâm định, từ từ trí tuệ sẽ sáng tỏ viên mãn.

Thứ hai, mặt Trăng là một vật rất lớn, phàm hành giả tu tập sa môn hạnh phải nuôi dưỡng đề mục, tinh tiến trong đề mục để thành tựu quả lớn lao cho mình.

Thứ ba, mặt Trăng mọc vào ban đêm, di chuyển trong đêm và sáng dần lên trong đêm; cũng vậy, vị tỳ khưu phải ở nơi thanh vắng, thực hành nơi thanh vắng, từ từ trí tuệ sẽ sáng dần lên nơi thanh vắng.

Thứ tư, mặt Trăng tự sáng cho chính mình, tự thắp lên ánh sáng cho chính mình, tự dựng ngọn cờ cho chính mình; vị tỳ kheo cũng nên như thế, tự trong sạch giới cho chính mình, tự tỏa hương giới cho chính mình, tự dựng ngọn cờ giới cho chính mình.

Thứ năm, dù chẳng ai cầu thì mặt Trăng vẫn cứ soi sáng cho thế gian; vị tỳ khưu cũng vậy, chẳng ai cầu vẫn mang ánh sáng trí tuệ ban rãi cho thế gian. Đúng như Phật ngôn trong Samyutta Nikàya:
"Này các thầy tỳ khưu! Các thầy nên đi đến mọi nơi, mọi gia đình, mang ánh sáng mặt Trăng mà đi; phải thu thúc, gìn giữ phẩm hạnh của mình, đừng buông thả, đừng khoe khoang hay kiêu ngạo."

Đấy là năm đức tính của mặt Trăng ở nơi một vị sa môn, tâu đại vương!

* * *


205. Về mặt Trời

-Về mặt Trời thì có sáu chi,như sau:

Thứ nhất, mặt Trời có tính dụng làm cho khô, thiêu đốt mọi vật; vị tỳ khưu cũng phải làm cho khô ráo nước ái dục, phải thiêu cháy tất cả mọi phiền não.

Thứ hai, mặt Trời trừ diệt những chỗ tối tăm; vị tỳ khưu cũng phải trừ diệt những tham lam đen tối, những sân hận đen tối, những si mê đen tối, những tà kiến đen tối, trược hạnh đen tối.

Thứ ba, mặt Trời hằng có kỷ luật của mình, hằng xoay vần quanh chính mình; vị tỳ khưu cũng phải như thế, phải sống theo giới luật của mình, phải xoay quanh phận sự của mình, đừng nên để cho giới luật mình hư hỏng, phận sự của mình trái lệch.

Thứ tư, mặt Trời có tính năng tỏa nhiệt, nung nóng trái đất, mọi loài, mọi vật; vị tỳ khưu khi tu tập phải nung nóng nhiệt tình làm cho chư thiên và nhân loại cũng phải nóng lên do hạnh kiểm, giới đức, thiền định, lục căn thanh tịnh, thất giác chi, tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ thần túc và giải thoát của mình.

Thứ sáu, mặt Trời trong hành trình của nó, nó sợ nhất là mặt trăng che ám; vị tỳ khưu cũng phải thế, phải hằng kinh cảm, thương xót chúng sanh lặn hụp trong bốn đường ác, đầy dẫy chấp thủ, tà kiến, phiền não, đi sai lầm đường nên phải chịu những thống khổ.

Thứ sáu, mặt Trời hằng soi chiếu, tỏ rõ mọi vật, vị tỳ khưu cũng phải soi chiếu, tỏ rõ tâm mình, pháp thực hành của mình v.v...

Tôn giả Vangìsa có thuyết rằng:
"Khi mặt Trời mọc lên, soi rõ thấy sắc của tất cả vật hữu sắc, xấu tốt, sạch dơ nó đều thấy cả. Vị tỳ khưu cũng phải vén mở vô minh và ái dụcđể nhìn thấy pháp, tỏ rõ pháp, đồng thời cũng phải giúp chúng sanh thấy rõ như mình đã thấy."

* * *


206. Về Trời Đế Thích

-Tâu đại vương! Trời Đế Thích có ba điều là, thứ nhất, hằng mãn nguyện trong phước báu an lạc của mình.Thứ hai, ngài là vị vua lớn của chư thiên, khi gặp chánh pháp rồi thì hằng tán dương chánh pháp, làm cho phước báu an lạc kia được tăng trưởng hơn nữa. Thứ ba là trời Đế Thích không bao giờ chán nản trong địa vị của mình, trong sự an lạc của mình.

Tương tự thế, trước hết, vị tỳ khưu cũng phải thỏa thích, an lạc trong cõi vắng lặng của mình. Thứ hai là hằng tán dương pháp, xem pháp là cao quý to lớn; luôn luôn hoan hỷ, tươi vui, giải trừ lười biếng, giải đải để cho an lạc, vắng lặng kia cũng được phát triển thêm nữa. Thứ ba là không bao giờ chán nản trong cõi thanh vắng, cõi an lạc mà mình đang thọ hưởng.

* * *


207. Về Chuyển Luân Thánh vương

- Về Chuyển Luân Thánh vương thì có bốn điều, tâu đại vương!

- Vâng, trẫm xin nghe.

- Thứ nhất là, đức Chuyển Luân cai trị quốc độ, sở dĩ muôn dân thuần phục là do bốn pháp tế độ (tứ nhiếp pháp: Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự); vị tỳ khưu cũng hằng nên như thế, dùng bốn pháp tế độ để sống chan hòa với tứ chúng, môn đệ.

Thứ hai, trộm cướp không bao giờ phát sanh trong quốc độ của vua Chuyển luân; vị tỳ khưu cũng phải làm cho "quốc độ lòng mình" yên vui, thanh bình; đừng để cho các loại đạo tặc là các tà tư duy (dục tư duy, sân tư duy, hại tư duy) phát sanh nhũng loạn, tác hại.

Thứ ba, Đức Chuyển Luân mỗi ngày thường nghĩ đến thiện ác, nghĩ đến phước tội; và thường giáo huấn, nhắc nhở muôn dân trong quốc độ của mình, rộng cho đến biên cương, hải đảo, sống đời hiền lương, trong sạch. Vị tỳ khưu cũng mỗi ngày phải giáo dục, nhắc nhở thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp cho tốt đẹp thêm, hoàn thiện thêm. Đúng như lời của Đức Tôn sư thuyết trong Anguttara: "Bậc xuất gia phải luôn luôn nghĩ rằng, ngày và đêm trôi qua, ngày và đêm cứ trôi qua như thế, ta phải làm gì với phẩm hạnh sa môn?"

Thứ tư, đức Chuyển Luân tuy sống trong quốc độ thái bình, an lạc, nhưng ngài luôn đề phòng cả bên trong lẫn bên ngoài không để cho bất cứ một hiện tượng xấu, ác nào phát sanh có thể làm nguy hại cho quốc gia. Cũng vậy, vị tỳ khưu phải thường trực chánh niệm và tỉnh giác để canh giữ giặc trong cũng như giặc ngoài, đừng để cho phiền não có cơ hội khởi động, tác hại quấy phá mình. Đúng như Đức Thế Tôn đã thuyết:
"Này các tỳ khưu! Các vị Thinh văn, A-la-hán thường có chánh niệm và tỉnh giác, thường trực ngăn niệm ác, giữ niệm lành; thường dứt pháp có tội và tiến tu pháp không tội, luôn để cho tâm mình thuần khiết, trong sạch."

-ooOoo-

Mời xem tiếp: 208-223

Duới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn Bài xem
xong bấm vào "CHỌN XONG, BẤM VÀO ĐÂY ĐỂ XEM":





TRUYỆN PHẬT GIÁO

TRỞ VỀ DIỄN ĐÀN

THỂ LOẠI: TRUYỆN PHẬT GIÁO | CẬP NHẬT bởi: atoanmt
Xem: 997 | TẢI XUỐNG: 0 | ĐÁNH GIÁ: 0.0/0
Tổng-số Ý-kiến: 0
CHỈ CHO THÀNH VIÊN GÓP Ý
[ ĐĂNG-KÝ | ĐĂNG NHẬP ]