Thứ Năm
25 Apr 2024
7:41 AM
ĐĂNG NHẬP


Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

File Catalog

TRANG CHÍNH » HỒ SƠ » TRUYỆN PHẬT GIÁO

MI-TIÊN VẤN ĐÁP 13
22 Apr 2015, 2:41 PM
59. Thương yêu cái thân?

Đức vua hỏi tiếp:

- Các vị tỷ kheo dường như là nâng niu, chăm sóc, thương yêu cái thân của mình quá lắm, tại sao lại như thế?

- Đại vương nhận xét như vậy là không đúng rồi!

- Các vị tỳ kheo từ chối khổ hạnh, không nhịn ăn, không mặc y bó tử thi, không còn ở trong nghĩa địa, không còn ngủ trên đất; họ ăn ngày một bữa đầy đủ do thí chủ mời thỉnh, mặc y do thí chủ dâng cúng nên phước tướng đẹp đẽ, da thịt hồng hào. Lại nữa, họ cạo râu tóc sạch sẽ, móng tay, móng chân cắt sạch sẽ, ngủ có điều độ, tắm rửa điều độ, giữ gìn từng bước đi, giữ gìn tay chân, thân khẩu. Một đời sống như vậy không phải là bảo trọng, thương yêu cái thân là gì?

- Đại vương trước đây đã từng cầm quân ra trận nhiều lần, phải chăng?

- Đúng thế.

- Và quân lính của đại vương có rất nhiều người bị thương, phải chăng?

- Đúng thế.

- Đại vương đã làm gì với những người lính bị thương ấy?

- Dĩ nhiên là cho họ lui tuyến sau, cử thầy thuốc chăm sóc vết thương.

- Họ thường chăm sóc ra sao?

- Họ chùi rửa vết thương cẩn thận, lấy thuốc đắp lên, lấy vải nhuyễn mịn băng bó lại.

- Người ta làm như thế có bảo trọng, nâng niu, thương yêu vết thương quá chăng?

- Không phải thế, chỉ mong cho vết thương chóng lành.

- Cũng như thế đó, các vị sa môn trong giáo pháp của Đức Thế Tôn chăm sóc cái thân không phải là vì thương yêu, nâng niu, bảo trọng cái thân - mà vì muốn dùng cái thân ấy để tu tập, phát triển giới hạnh. Cho nên, có ba việc mà thế gian lấy làm trọng là ăn, mặc, ngủ - thì các vị sa môn chỉ cần vừa đủ, biết đủ mà thôi.

Ngoài ra, các vị sa môn còn quán tưởng khi ăn, khi mặc, chỗ ở và thuốc men. Lại còn quán tưởng cái thân là vật bất tịnh, gồm có cửu khiếu ngày đêm tuôn chảy các mùi hôi thối dơ uế, luôn quán tưởng cái thân là đáng nhờm gớm v.v... Như vậy thì có phải vì thương yêu, bảo trọng, nâng niu cái thân không đại vương ?

- Nếu vậy thì quá hay, cao thượng lắm!

* * *


60. Bậc toàn giác biết tất cả?

- Thưa đại đức ! Đức Phật là bậc Toàn giác (Sabbannù), tức là ngài biết tất cả (Sabbadassàvì) phải không?

- Đúng thế, ngài là bậc Toàn giác nên ngài có tuệ biết tất cả (Sabbannutannàna), tâu đại vương!

- Đức Thế Tôn có tuệ biết tất cả, tại sao ngài không chế định giới luật trước mà đợi đến khi các vị tỳ khưu có giới phạm mới cấm chế sau?

- Đại vương biết trên thế gian này có nhiều thầy thuốc tài giỏi chứ?

- Có biết, rất nhiều thầy giỏi.

- Họ làm như thế nào? Họ chế thuốc trước cho người vô bệnh uống hay đợi đến khi có bệnh, tùy bệnh nặng nhẹ, cân đo liều lượng mới chế thuốc cho uống sau?

- Dĩ nhiên pha chế thuốc phải sau chứ.

-Cũng như thế đó, có giới phạm của chư tỳ kheo, mới chế định giới luật, như trị bệnh cho thuốc vậy, tâu đại vương !

- Dễ hiểu quá, cảm ơn đại đức.

* * *


61. Tại sao Phật không giống cha mẹ ngài?

Đức vua lại hỏi:

- Thưa đại đức ! phải chăng Đức Thế Tôn có ba hai quý tướng và tám mươi vẻ đẹp của bậc đại nhân? Ví dụ như nước da của ngài tươi sáng như vàng ròng, có hào quang tỏa chiếu xung quanh kim thân ngài chừng độ một sải tay?

- Đúng như thế, tâu đại vương .

- Thế phụ hoàng và mẫu hậu ngài có phước tướng sang cả như vậy chăng?

- Thưa không.

- Thật kỳ lạ. Con không giống cha thì giống mẹ, đấy là lẽ thường tình. Ở đây, Đức Thế Tôn có đầy đủ các phước tướng mà phụ hoàng và mẫu hậu thì không, như vậy chứng tỏ rằng người ta nói hơi quá chăng? Đức Phật chắc gì có các phước tướng ấy?

Na-tiên tỳ khưu chợt hỏi:

- Đại vương thấy hoa sen chưa?

- Thấy rồi.

- Hoa sen được sanh ra từ đâu?

- Thưa, từ bùn.

- Hoa sen sinh ra trong bùn, lớn lên trong nước, khi trổ hoa thì sắc hương nó giống bùn, giống nước không, đại vương ?

- Thưa không.

- Đức Phật cũng thế. Ngài sinh ra do phụ hoàng và mẫu hậu mà không giống phụ hoàng và mẫu hậu vì trong tự thân ngài có mầm mống giống khác, đó là Phật chủng. Hạt mầm Phật chủng này được tựu thành do công năng ba la mật mà ngài đã tích lũy trong vô lượng kiếp nên phước tướng vượt trội và khác hẳn bất cứ ai trong thế gian, tâu đại vương!

- Cái ví dụ về sen mọc trong bùn của đại đức thì không tương hợp lắm nhưng mà cái "hạt mầm Phật chủng" thì thật là hay! Cảm ơn đại đức, trẫm đã hiểu.

* * *


62. Thực hành phạm hạnh (Brahmacàri)

- Đức Thế Tôn thường thực hành phạm hạnh giống như các vị phạm thiên phải không, đại đức?

- Đúng vậy.

- Nếu thế thì Phật là học trò của phạm thiên rồi.

- Theo ý của đại vương , sự giống nhau ấy là thầy trò của nhau sao?

- Đúng vậy.

- Bần tăng nghe rằng đại vương có một con voi chúa mà đại vương đặt tên là "con voi hạnh phúc" phải chăng?

- Đúng vậy.

- Và người ta nói rằng tiếng rống của con voi ấy giống như tiếng kêu của loài chim Thứu trên Tuyết sơn?

- Đúng như vậy.

- Như thế có lẽ con voi hạnh phúc của đại vương là học trò của loài chim Thứu kia rồi!

- Thưa, không phải thế.

- Thế phạm hạnh của Đức Phật sao đại vương bảo là học trò của phạm thiên? Lại nữa, Đức Phật tự mình giác ngộ Chánh pháp, phạm thiên không tự mình giác ngộ Chánh pháp mà học hỏi Chánh pháp từ Đức Thế Tôn. Lẽ ra, ai thầy ai trò đại vương phải tự biết chứ?

- Phải ! Trẫm đã đặt câu hỏi lẩm cẩm mất rồi!

- Không phải lẩm cẩm đâu mà vì quá sắc bén đó thôi, tâu đại vương!

Đức vua chợt cười vui:

- Không dám đâu, thưa đại đức !

* * *


63. Ai truyền cụ túc giới cho Đức Phật?

Đức vua hỏi:

- Phải cần có những điều kiện nào để cho những người tu lên bậc trên được gọi là thành tựu cụ túc giới, thưa đại đức?

- Phải cần có đủ thầy yết ma, thầy hòa thượng tế độ và số Tăng hội chứng minh, tâu đại vương .

- Đức Thế Tôn có cụ túc giới không?

- Ngài là bậc có cụ túc giới viên mãn nhất.

Đức vua hỏi tiếp:

- Vậy ai là thầy yết ma, thầy hòa thượng tế độ cho Đức Phật? Và tăng chúng chứng minh có bao nhiêu vị, không thấy đâu nói tới?

- Tâu đại vương! Đức Thế Tôn cụ túc giới viên mãn nhất, nhưng ngài không có ai là thầy, lấy đâu ra Tăng hội!

Đức vua quay qua mọi người:

- Xin chư vị có mặt đây làm chứng cho câu nói của đại đức Na-tiên! Khi trẫm hỏi những điều kiện tựu thành cụ túc giới, đại đức bảo là phải có đủ thầy yết ma, thầy hòa thượng tế độ cùng số Tăng hội chứng minh. Trẫm hỏi là Đức Thế Tôn có cụ túc giới không, đại đức bảo là Đức Phật cụ túc giới viên mãn nhất, thế nhưng lại bảo là cụ túc giới của Đức Phật không có yết ma, hòa thượng, không có Tăng hội! Một vị sa môn như đại đức tại sao trước sau bất nhất, lời nói sau phủ nhận lời nói trước là thế nào?

Na-tiên tỳ khưu im lặng.

Đức vua tấn công tiếp:

- Như thế, rõ ràng Đức Phật chưa có cụ túc giới, đang tu bậc thấp, chưa tu lên bậc cao!

Đại đức Na-tiên bây giờ mới hỏi:

- Đại vương, bần tăng thấy đại vương có khí độ trầm tĩnh, ăn nói trầm tĩnh; những cách nói thô tháo, cộc cằn, phùng mang, trợn mắt không có nơi đại vương; đại vương cũng không vung tay, múa chân như những kẻ say rượu... Bần tăng không rõ tại sao đại vương lại được như thế?

- Có gì đâu, vì trẫm thấy những điều ấy là xấu, là biểu hiện một nhân cách tầm thường, nông nổi... nên tự chế và bỏ dần những tính xấu ấy đi.

- Có nhiều người cũng tự chế, cũng biết đấy là xấu nhưng sao không bỏ được?

- Có lẽ họ huân tập quá sâu dày, và có những tính xấu không phải chỉ một vài kiếp mà bỏ xong!

- Đại vương hãy nghe cho rõ đây! Giới luật, ban đầu là để ngăn ngừa những vọng động thô tháo của thân và khẩu rồi dần dần đi sâu vào ý. Đức Thế Tôn sở dĩ cụ túc giới viên mãn bởi vì ngài đã rèn luyện thân khẩu ý từ vô lượng kiếp; bởi ngài đã huân tập các công hạnh, nhất là ba mươi ba la mật rốt ráo và viên mãn nhất.

Lại nữa, ngài là bậc Toàn Giác, có tuệ biết tất cả thế gian pháp; biết rõ cái nào xấu cần phải ngăn ngừa, loại bỏ; biết rõ cái nào là tốt cần phải phát huy, tăng trưởng. Mọi giới luật cũng từ đấy mà ra. Nói cách khác, Đức Phật giác ngộ giới luật, sống với giới luật ở trong tâm, nên những biểu hiện ra bên ngoài của ngài về đi, đứng, nằm, ngồi, mặc y, thọ thực, đối nhân, xử thế... đều mẫu mực, đoan nghiêm, từ hòa, chín chắn, mô phạm... một cách tuyệt hảo và toàn bích.

Sở dĩ Đức Thế Tôn cụ túc giới viên mãn, không có ai là thầy, vì ngài đã cùng với cụ túc giới ấy là một; ngài giác ngộ cụ túc giới, đem ra giáo giới Tăng chúng, rồi Tăng chúng y cứ vào giới luật ấy để tu tập, để đi đến chỗ không còn lỗi lầm, không còn cả một tính xấu nhỏ. Các tầng Thánh quả là các cấp độ tu tập dần dần đến chỗ hoàn mỹ là vậy đó, tâu đại vương.

Ví như đại vương biết những tính xấu để tự chế... là đại vương cũng bắt đầu đi theo con đường như Đức Phật đã đi; nhưng lộ trình của Đức Phật sâu dày hơn, lâu xa hơn, đã vô lượng kiếp rồi, thế thôi!

- Trẫm đã có hiểu được chút ít, mong đại đức giảng thêm: tại sao cụ túc giới của Đức Phật là không ai hơn được?

- Điều này bần tăng nói rồi - là ba mươi pháp ba la mật của ngài như bố thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chơn thật, quyết định, tâm từ, tâm xả của Đức Phật đã trọn vẹn và toàn hảo trên thế gian không ai bằng được; nên ngài đã tự thành tựu cụ túc, nghĩa là pháp chưa từng sanh được sanh lên, là pháp phi thường mà thế gian chưa từng có. Không ai có đủ đức để ở trên, ở cao hơn cụ túc giới của Đức Phật, tâu đại vương .

- Cho xin nghe ví dụ được chăng?

- Đại vương là bậc tối thượng trong một nước, có ai trong nước này oai lực hơn đại vương chăng?

- Không có.

- Nếu có kẻ đòi ngồi lên đầu lên cổ của đại vương thì đại vương làm sao?

- Trẫm sẽ chém đầu.

- Cũng như thế đó là cụ túc giới của Đức Thế Tôn. Cụ túc giới của Đức Thế Tôn là có oai lực nhất. Ai có ý nghĩ truyền cụ túc giới cho Đức Phật, thì kẻ đó, vì thiếu giới đức, định đức, tuệ đức nên đầu của y sẽ bị vỡ thành bảy mảnh.

- Vậy là trẫm hiểu rồi, trên thế gian này chẳng có nhóm Tăng hội nào có đủ uy đức, oai lực để truyền giới cho Đức Thế Tôn cả.

- Không phải vậy đâu, đại vương !

Đức vua ngạc nhiên:

- Tại sao?

- Có cả thảy ba nhóm Tăng, tâu đại vương! Chính có ba nhóm Tăng này cu hội mà truyền giới cụ túc đến cho Đức Thế Tôn , đó là:

1. Nhóm ba-la-mật Tăng (Paramì sangha)
2. Nhóm thiện Tăng (Kusala sangha)
3. Nhóm quả Tăng (Phala sangha)

Cho nên Đức Thế Tôn có thuyết rằng: "Người nào có tâm chơn chánh, trực hạnh, thực hiện giới, định, tuệ, đi trên con đường bốn đạo và thành tựu bốn quả - người ấy được Như lai gọi là Tăng"

- Hay lắm vậy!

* * *


64. Nước mắt nào là thuốc? Nước mắt nào là độc dược?

- Thưa đại đức, trẫm có nghe các bậc hiền trí nói rằng, trên thế gian này có hai loại nước mắt. Một loại nước mắt có khả năng trị bệnh như một liều thần dược vì nó làm cho mát mẻ và sảng khoái tinh thần. Một loại nước mắt khác thì như độc dược, nguy hiểm vô cùng. Việc ấy có không, và nếu có, thì tại sao lại có chuyện lạ lùng như thế?

- Chuyện có đấy, tâu đại vương !

- Xin đại đức giảng cho nghe.

- Nước mắt do uất ức, hận thù, do sầu bi khổ ưu não...; là loại nước mắt được xúc cảm, bị thiêu đốt bởi tham luyến, sân hận và si mê... mà tiết ra, trào vọt ra; nước mắt ấy chẳng khác gì độc được. Nhưng nước mắt ứa ra được xúc cảm bởi các trạng thái tâm cao thượng, như nghe pháp, như phỉ lạc trong thiền định, niềm hỷ hoan tinh thần, tâm bi mẫn đối với đau khổ của chúng sanh...; thì đó là loại nước mắt mát mẻ do hỷ, phỉ, bi mà có, nên nó đúng là liều thần dược, tâu đại vương!

- Thật là hay, thật là bổ ích.

* * *


65. Tham luyến và dứt tham luyến

- Thưa đại đức , người còn tham luyến và người đã dứt trừ tham luyến, hai hạng người ấy khác nhau ở chỗ nào?

- Người còn tham luyến là người còn dính mắc, người không còn tham luyến là người không còn dính mắc, tâu đại vương!

- Trẫm nghĩ rằng sống trên đời này ai cũng ưa ăn sung, mặc sướng; ai cũng muốn thọ dụng ngũ dục khả ái, khả ý; thế thì chuyện dính mắc hoặc không dính mắc làm sao biết được, làm sao phân biệt được?

- Đúng là cả hai bên đều thọ dụng giống nhau, đều phải ăn, mặc giống nhau. Nhưng với kẻ còn tham luyến thì họ đắm say, hưởng thụ, tìm thỏa mãn trong ngũ dục, lại còn suốt đời miệt mài đeo đuổi ngũ dục nữa. Trái lại, người không còn tham luyến, họ ăn, mặc, ngủ rất chừng mực, điều độ. Ăn, mặc, ngủ đối với họ chỉ để nuôi mạng sống, duy trì thân thể để tu tập, để hành phạm hạnh. Như vậy được gọi là dính mắc và không dính mắc, tâu đại vương .

- Trẫm đã lãnh hội được điều ấy.

* * *


66. Trí tuệ ở đâu?

- Thưa đại đức , trí tuệ nó nằm ở đâu?

- Nó không có trú xứ làm sao mà chỉ nó ở đâu, đại vương!

- Ngài nói vậy e rằng không có trí tuệ rồi.

Tỳ khưu Na-tiên bèn hỏi lại:

- Thế gió nó ở đâu, tâu đại vương ?

- Không thể chỉ được.

- Đại vương nói vậy thì e rằng không có gió rồi!

Đức vua Mi-lan-đà chợt cười ha hả:

- Đại đức lanh trí lắm!

* * *

Mời xem tiếp: CÂU HỎI TỪ 67-72

Duới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn Bài xem
xong bấm vào "CHỌN XONG, BẤM VÀO ĐÂY ĐỂ XEM":





TRUYỆN PHẬT GIÁO

TRỞ VỀ DIỄN ĐÀN

THỂ LOẠI: TRUYỆN PHẬT GIÁO | CẬP NHẬT bởi: atoanmt
Xem: 935 | TẢI XUỐNG: 0 | ĐÁNH GIÁ: 0.0/0
Tổng-số Ý-kiến: 0
CHỈ CHO THÀNH VIÊN GÓP Ý
[ ĐĂNG-KÝ | ĐĂNG NHẬP ]