Thứ Sáu
19 Apr 2024
3:32 PM
ĐĂNG NHẬP


Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

File Catalog

TRANG CHÍNH » HỒ SƠ » TRUYỆN PHẬT GIÁO

MI-TIÊN VẤN ĐÁP 09
22 Apr 2015, 11:23 AM
28. Pháp hành thì sao?

Đức vua hỏi:

- Thế còn pháp hành (Sankhàra) thì sao, hở đại đức?

- Pháp hành, pháp hữu vi đã sanh rồi thì nó cứ sanh mãi, tương tục mãi như thế.

- Xin đại đức giảng cho rõ.

- Pháp hành này phải được hiểu là những pháp cấu tạo ở trong tâm. Đại vương đã từng hiểu mười hai duyên khởi rồi thì cứ từ cái duyên khởi ấy mà suy ra. Khi có lục căn, lục trần thì có lục xúc. Có xúc thì có thọ, ái, hữu, sinh, lão tử, sầu bi khổ ưu não. Khi thọ mạng chấm dứt thì nghiệp lực tạo sức mạnh cho thức tái sanh đi tìm cảnh giới mới. Như thế thì pháp hành (Ai, thủ, hữu) đã sanh rồi thì sanh sanh đến vô tận theo vòng luân hồi tử sanh của chúng sanh vậy.

- Trẫm hiểu. Nhưng đại đức có nói là có thể chấm dứt pháp hành ấy, nghĩa là có thể từ có mà trở thành không?

- Đúng thế.

- Xin đại đức giảng giải.

- Điều ấy đại vương hiểu rồi mà! Nghĩa là nếu không có vô minh thì không có hành, chấm dứt hành thì không có thức đi tìm cảnh thú tái sanh để cấu tạo nên danh sắc mới... cứ thế mà suy diễn ra, nếu mười hai duyên khởi không còn tồn tục được thì vòng luân hồi tử sanh ấy sẽ chấm dứt. Pháp hành từ có mà trở thành không là vậy, tâu đại vương.

- Hay vậy thay!

* * *


29. Tự nhiên sanh?

- Thế có vật gì mà do tự nhiên sanh, hở đại đức?

- Không có vật gì trên thế gian này mà do tự nhiên sanh cả, tâu đại vương .

- Thế sao đại đức bảo có vật từ không mà thành có?

Tỳ khưu Na-tiên mỉm cười:

- Trước đây khi dẫn quân đi chinh chiến, đại vương có ở trong cung điện này chưa?

- Thuở ấy chưa có cung điện này!

- Rồi sau sao lại có?

- Khi lập kinh đô, trẫm mới làm cung điện.

- Đại vương làm như thế nào?

- Trẫm cho người san bằng đất, chở đá sỏi từ nơi khác đến, cho lấy gỗ trong rừng và để thợ mộc làm cột, kèo, đòn tay, chạm trổ v.v... Sau đó làm thành quách, cửa ngõ, lối đi, trồng cây, đào ao hồ, nuôi chim, thả ca v.v...

- Thế thì cung điện này đâu phải do tự nhiên sanh mà do chính công kiến tạo, tập kết vật liệu, sức người làm, đá, sỏi, vôi, đường v.v... Tất cả chúng kết hợp lại mới thành cung điện, phải thế chăng?

- Đúng như thế.

- Cũng thế, không có thể trở thành có, nhưng có ấy không phải tự nhiên sanh mà do sự cấu tạo, kết hợp nhiều yếu tố, nhiều phụ liệu khác mà thành, tâu đại vương .

- Xin cho ví dụ.

- Ví như hạt lúa có thể trở thành cây lúa không, hở đại vương, nếu như nó không có đất, nước, ánh sáng, phân, công chăm sóc, thời gian và ý niệm trồng lúa của người chủ ruộng?

- Không thể thành cây lúa được nếu thiếu các yếu tố, điều kiện đi sau.

- Cũng như thế, chẳng có vật gì do tự nhiên sanh, do tự nó sanh mà do sự kết hợp nhiều yếu tố, nhiều điều kiện khác, tâu đại vương .

- Xin cho ví dụ nữa.

- Ví như đất sét có thể trở thành đồ gốm không, hở đại vương?

- Không thể được. Đất sét mang về phải lấy nước nhồi cho nhuyễn, xong rồi phải nặn thành cái nồi, niêu, chén, bát v.v...; kế nữa phải có củi, lửa, bỏ vào lò nung cho chín v.v...Ây mới thành đồ gốm dùng được.

- Thế rõ ràng là nó chẳng do tự nhiên sanh mà do sự kết hợp của nhiều yếu tố, nhiều điều kiện vậy.

- Đại đức còn ví dụ nào nữa chăng?

- Có thể được. Ví dụ như người gãy đàn. Nếu không có dây, phím, da bịt, thùng gỗ v.v... thì âm thanh có thể vang tiếng được không, tâu đại vương?

- Cây đàn, âm thanh như thế cũng không phải tự nhiên sanh, nó cần nhiều yếu tố và điều kiện vậy.

- Có người muốn cưa cây lấy lửa, nhưng y không có hai thanh gỗ, không có bùi nhùi, không có cả người cưa thì có thể tạo ra lửa không hở đại vương?

- Thưa không.

- Ví như người có kính thủy tinh, có ánh nắng mặt trời, lại có người cầm kính ấy chiếu lên đống cỏ khô, rơm khô... thì có thể tạo ra lửa được chăng?

- Thưa được.

- Ví như có gương soi, có người đứng trước gương, có ánh sáng thì có hình người hiện ra trong gương không, tâu đại vương?

- Thưa có.

- Hết thảy mọi sự mọi vật trong thế gian đều y như thế, chẳng có cái gì do tự nhiên sanh, phải cần các yếu tố, điều kiện, kết hợp lại mà thành. Nói cách khác, vạn pháp, muôn loài đều do nhân duyên sanh vậy, tâu đại vương!

- Hay lắm! Trẫm đã hoàn toàn lãnh hội.

* * *


30. Tự ngã trong thân?

Đức vua hỏi:

- Tất cả mọi nhận thức, hiểu biết dường như là do một tự ngã ở trong thân, phải vậy không, đại đức?

- Đại vương hiểu điều đó như thế nào, có thể nói rộng ra được chăng?

- Trẫm nhận thấy thế này. Tất cả chúng sanh có sanh mạng, phải có một chủ thể nhận thức nương gá ở trong thân, nhờ thế mới có thể thấy sắc bằng mắt, nghe tiếng bằng tai, ngửi hương bằng mũi v.v...Nghĩa là tự ngã ấy có thể thấy được ngoại cảnh bên ngoài qua sáu cửa sổ giác quan vậy.

Ví như chúng ta đang ngồi trong bảo điện này, nếu muốn nhìn thấy cảnh phía đông, ta mở cửa phía đông, muốn nhìn cảnh phía tây, phía nam, phía bắc thì ta mở cửa phía tây, phía nam, phía bắc. Mở bốn cửa sổ ở bốn hướng ta nhìn thấy ngoại vật như thế nào, thì tự ngã ở trong thân nhìn thấy ngoại vật qua sáu giác quan cũng y như thế. Đấy là ví dụ của trẫm, không biết có đúng chăng?

- Bần tăng đã hiểu. Như bốn cửa sổ ở bốn hướng này, ta muốn xem hướng nào thì mở hướng ấy?

- Đúng thế.

- Nếu tự ngã muốn thấy sắc thì nó mở nhãn môn để thấy sắc?

- Đúng thế.

- Vậy thì tự ngã ấy có thể thấy sắc bằng nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý môn được chăng?

- Không thể.

- Có thể nghe âm thanh bằng mắt, mũi, lưỡi, thân và ý chăng?

- Không thể.

- Có thể ngửi được mùi hương bằng mắt, tai, lưỡi, thân và ý chăng?

- Không thể.

- Tương tự như thế, nếm vị bằng mắt, tai, thân và ý? Xúc chạm bằng mắt, tai, mũi, lưỡi và ý? Và suy nghĩ bằng mắt, tai, mũi, lưỡi và thân?

- Không thể.

- Vậy tại sao đại vương lại bảo là muốn thấy hướng nào thì mở cửa hướng ấy bằng ví dụ những cửa sổ? Sáu giác quan mà ví dụ là sáu cửa sổ, ấy là thí dụ không thích đáng, không tương hợp chút nào cả. Đại vương có thấy như thế chăng?

- Trẫm đã thấy.

- Các cửa sổ ở cung điện này nếu được mở rộng ra thì ta có thể thấy ngoại cảnh xa rộng hơn. Nhưng mắt mà được khoét rộng ra thì có thể thấy ngoại cảnh xa rộng hơn chăng?

- Không thể.

- Tương tự như thế ấy. Nếu tai, mũi, lưỡi, thân, ý mở rộng ra thì ta có thể nào nghe xa rộng , ngửi xa rộng, nếm xa rộng, xúc xa rộng, suy nghĩ xa rộng được chăng?

- Thật không thể được.

- Như vậy chứng tỏ luận cứ của đại vương là không tương hợp, không thích đáng. Lại nữa, ví dụ đại vương đứng ở cổng thành bố thí cho dân nghèo, một người ở hướng đông đến, nhận vật bố thí rồi đi, đại vương có thấy chăng?

- Dĩ nhiên là trẫm thấy.

- Một người ở hướng tây lại, nhận của bố thí xong, người ấy không đi mà đứng yên trước mặt đại vương, thế đại vương có thấy chăng?

- Có thấy.

- Tương tự như vậy, khi lưỡi nếm vị, cái lưỡi biết rõ ấy là vị chua, ngọt, béo, bùi chăng?

- Dĩ nhiên là biết.

- Nhưng nếu cái vị ấy chưa đến lưỡi, còn đứng ở ngoài lưỡi, thì đại vương có thể nào biết nó là đắng, chát, ngọt, bùi không?

- Không thể biết được.

- Như vậy, rõ ràng là lối ví dụ so sánh của đại vương là không tương hợp, không thích đáng. Lại nữa, nếu ta đem mật ong đổ đầy trong lu lớn, bắt một người nằm vào trong và bịt kín miệng người đó lại, thì y có thể nào biết được cái ngọt của mật chăng?

- Không nếm thì làm sao biết được.

- Như vậy, thêm một lần nữa, đại vương biết rõ đâu là không tương hợp, không thích đáng.

Đức vua Mi-lan-đà suy nghĩ hồi lâu:

- Bây giờ trẫm đã thấy rõ sự kém cỏi, nông cạn của mình, xin đại đức giảng giải cặn kẽ cho trẫm nghe thêm.

Na-tiên tỳ khưu bèn thuyết như sau:

- Tâu đại vương! Con mắt tiếp xúc với sắc nhưng chưa chắc con mắt ấy biết rõ sắc ấy là xanh, đỏ, trắng, vàng đâu, nếu không có nhãn thức. Và nhãn thức ấy cũng không phải là một tự ngã, một chủ thể. Nhãn thức sanh lên khi căn xúc với trần, nhưng nó không phải sanh khởi một mình, nó có những tâm sở đồng sanh khác, gọi là biến hành tâm sở: xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư, nhất tâm, mạng căn.

- xúc là xúc chạm trần cảnh,
- tác ý là khởi ý đến trần cảnh,
- thọ là cảm giác,
- tưởng là tri giác, nhận biết,
- tư là tư tác do tham sân hoặc bất động,
- nhất tâm làm cho các tâm sở được liên tục
- mạng căn duy trì mạng sống của một tiến trình tâm.

Và nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức cũng được hiểu như thế. Tất cả căn, trần, thức, và những tâm sở đồng sanh ấy chúng tương quan tương duyên với nhau. Như vậy thì thức, cái nhận biết, đâu phải là chủ thể, đâu phải là cái độc lập, đâu phải là tự ngã thường hằng nương gá ở trong thân? Đại vương có biết rằng luận cứ của đại vương đã rơi vào thường kiến, một tà kiến nguy hiểm cho những người học Phật chăng?

- Cảm ơn đại đức, cái tự ngã ấy chỉ là ảo giác, ảo tưởng, trẫm đã rõ rồi.

* * *


31. Nhãn thức và tâm thức (Cakkhu vinnana - Mano vinnana)

- Bạch đại đức! Khi nhãn thức sanh khởi thì tâm thức có cùng sanh khởi không?

- Thưa, có.

- Vậy cái nào trước, cái nào sau?

- Nhãn thức sanh trước, tâm thức sanh sau, tâu đại vương!

- Điều này trẫm nghi ngờ lắm! Phải chăng nhãn thức và tâm thức quen biết nhau, hoặc giả nhãn thức có nói với tâm thức rằng: "Nếu tôi sanh tại chỗ nào thì anh cũng sanh tại chỗ ấy." Hoặc tâm thức nói với nhãn thức rằng: "Anh hãy sanh trước đi, tôi sẽ nương theo anh mà sanh sau."

- Chúng không giao hẹn với nhau như thế đâu, tâu đại vương.

- Nếu không có sự kết ước của hai bên, sao anh thì đi trước, anh thì đi sau luôn luôn như thế được?

- Ây là bởi có bốn tính chất sau đây khiến chúng cùng sanh một chỗ, đi liền nhau chứ không có ký kết, giao ước gì hết.

Một là hành trình theo chỗ thấp, xuôi chiều.
Hai là hành trình theo một hướng, một cửa.
Ba là hành trình theo dấu cũ, đường cũ.
Bốn là hành trình theo thói quen, theo huân tập, theo quán tính.

- Hành trình theo chỗ thấp, xuôi chiều là như thế nào, hở đại đức?

- Nước mưa trên trời rơi xuống, nó chảy về đâu, hở đại vương?

- Chảy vào chỗ đất thấp.

- Nếu có đám mưa khác nữa?

- Cũng chảy vào chỗ đất thấp ấy thôi.

- Thế trận mưa trước có nói với trận mưa sau rằng: "Hễ tôi chảy chỗ nào thì anh chảy chỗ đó." Hoặc đám mưa sau nói với đám mưa trước: " Chỗ nào anh chảy xuống thì chỗ ấy tôi sẽ chảy theo" không?

- Chúng không hề giao ước như vậy. Nước chảy xuống chỗ thấp là chuyện tự nhiên thôi.

- Nhãn thức sanh khởi trước, tâm thức sanh khởi sau cũng y như thế, chẳng giao ước gì cả, tâu đại vương .

- Trẫm đã hiểu ví dụ ấy. Còn hành trình theo một hướng, một cửa là thế nào?

- Ví như có một tòa trấn thành tường cao, hào sâu nhưng vào ra chỉ có một hướng, một cổng thành duy nhất. Vậy người bên trong muốn đi ra bên ngoài phải làm thế nào, đại vương?

- Phải đi ra bằng cổng lớn.

- Thế người thứ hai, thứ ba?

- Cũng từ cổng ấy mà ra.

- Những người ấy có hò hẹn gì với nhau chăng mà họ đi ra cùng một cửa?

- Thưa không.

- Người ra trước có nói với người ra sau, người ra sau có nói gì với người ra trước mà họ lại cùng đi chung một hướng, một cửa như thế?

- Thưa không.

- Nhãn thức đi trước và tâm thức đi sau cùng ra một hướng, một cửa là thế đó, tâu đại vương .

- Thế còn hành trình theo dấu cũ, đường cũ là sao?

- Ví như có chiếc xe đi qua cánh rừng để lại một dấu vết, chiếc xe theo sau có theo dấu vết đó mà đi hay tự mở con đường mới?

- Dĩ nhiên là theo dấu vết, theo đường cũ mà đi.

- Họ có hẹn ước gì với nhau chăng?

- Thưa không.

- Nhãn thức và tâm thức cũng thường theo dấu vết cũ, đường cũ mà sanh khởi y như thế đó, tâu đại vương .

- Tính chất thứ tư của chúng là theo thói quen, huân tập, quán tính là thế nào, đại đức?

- Ví như các môn học tập viết, làm toán v.v... ban đầu ai cũng vụng về, chậm chạp. Nhưng về sau do sự cố gắng, tập luyện, làm nhiều, viết quen tay...; từ vụng về, chậm chạp đã trở nên mau lẹ, nhậm lẹ, tính nhanh, viết thạo. Đấy chính là thói quen, là huân tập, lâu ngày trở thành quán tính, như phản xạ tự nhiên vậy. Nhãn thức và tâm thức cùng sanh khởi trước sau cũng mau lẹ, theo thói quen, theo quán tính như vậy đó, tâu đại vương!

- Trẫm đã hiểu.

- Không những nhãn thức mà cho chí nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức cũng phải được hiểu như trên, cũng có đầy đủ những tính chất nêu trên, tâu đại vương .

- Trẫm đã hết nghi về điều ấy rồi.

* * *


32. Hành tướng của Xúc (Phassalakkhana)

Đức vua Mi-lan-đà hỏi tiếp:

- Còn xúc tâm sở thì thế nào? Khi nhãn thức sanh khởi thì xúc tâm sở có cùng sanh khởi chăng?

- Cũng cùng sanh khởi. Khi nhãn thức sanh, không phải chỉ có xúc tâm sở cùng sanh mà những tâm sở khác cùng biến hành sanh khởi: thọ, tưởng, tư, nhất tâm v.v... như bần tăng đã trình bày cho đại vương nghe rồi.

- Đúng vậy, trẫm có nghe rồi nhưng chưa nắm vững lắm. Đại đức hãy giảng cho trẫm nghe về hành tướng của xúc ấy là thế nào?

- Xúc là đụng chạm, chạm nhau, giao nhau...

- Đại đức cho xin ví dụ?

- Như hai con dê đấu nhau, hai cái sừng của chúng đụng nhau. Cái sừng của con này là nhãn căn, sừng của con kia là sắc trần; và chỗ mà hai cái sừng của chúng chạm nhau chính là xúc. Ví như hai bàn tay vỗ vào nhau, chỗ mà hai bàn tay chạm vào nhau là xúc. Ví như cái nồi mới chồng lên cái nồi cũ, chỗ tiếp giáp hai cái nồi là xúc.

Nói tóm lại, con mắt giao tiếp với sắc thì có nhãn xúc. Lỗ tai giao tiếp với âm thanh thì có nhĩ xúc. Cái mũi giao tiếp với mùi hương thì có tỷ xúc. Cái lưỡi giao tiếp với vị thì có thiệt xúc. Cái thân giao tiếp với vật trơn, nhám thì có thân xúc. Cái ý giao tiếp với pháp thì có ý xúc. Xúc là cái giao tiếp, là cái gạch nối, là cái va chạm, cái đụng nhau giữa căn và trần, tâu đại vương .

- Hay lắm. Thật rõ ràng.

* * *


33. Hành tướng của Thọ (Vedanalakkhana)

- Thế Thọ tâm sở có hành tướng thế nào, ra sao, để dễ nhận biết, thưa đại đức?

- Khi nào có khổ, lạc, xả, thì đấy được gọi là Thọ tâm sở, tâu đại vương .

- Xin cho nghe ví dụ.

- Ví như đại đức thuở mới lập quốc, đã ban thưởng trọng hậu cho các bậc công thần, tức là những người đã từng xông pha trận mạc lập được nhiều chiến công hiển hách cho đại vương. Vị công thần ấy sau khi được đại vương ban cho chức vị, phẩm hàm, bổng lộc nên y đã sống một đời vinh hoa phú quý. Sống đời vinh hoa phú quý, được cảm thọ rất nhiều lạc thú về ngũ dục - chính là Thọ đấy, tâu đại vương!

Lại nữa, ví như có người, thuở bình sanh ưa làm việc lành, tích lũy điều hành, biết giữ giới, biết bố thí, sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên cõi trời, cảm thọ năm loại dục lạc đó là thiên sắc, thiên thanh, thiên hương v.v...Cảm thọ năm loại thiên lạc ấy là thọ đấy, tâu đại vương!

- Cảm ơn đại đức .

* * *


34. Hành tướng của Tưởng (Sannalakkhana)

- Vậy thì Tưởng tâm sở? Đức vua hỏi.

- Là ghi nhận, chụp bắt cái tướng tổng quát của vật, ấy là Tưởng, tâu đại vương .

- Xin cho ví dụ.

- Ví như đại vương có một vị quan giữ kho siêng năng và cần mẫn trong bổn phận của mình. Tất cả những tài sản quý giá, ngọc ngà, châu báu... y đều nắm vững số lượng một cách tổng quát... chính xác, rõ ràng và không bao giờ nhầm lẫn. Nhận biết, chụp bắt, ghi nhận cái tổng quát ấy là chức năng của Tưởng, tức là tri giác đấy, tâu đại vương!

* * *


35. Hành tướng của Tác Ý (Cetanalakkhana)

- Đại đức cho biết luôn về Tác ý tâm sở?

- Tác ý là khởi ý, khởi ý làm việc gì đó cho mình (tự tác) hoặc cho người (tha tác).

- Trẫm muốn nghe thí dụ.

- Ví như có người chế tạo độc dược, tự mình uống rồi ép người khác uống theo. Như vậy, không những tự làm khổ mình mà còn làm khổ kẻ khác.

Trong thế gian này, có một số người tác ý làm điều ác, xui khiến kẻ khác làm điều ác; đến khi chấm dứt thọ mạng, họ đọa vào bốn đường khổ và những người làm ác kia cũng rơi vào bốn đường khổ giống nhau.

Lại nữa, ví như có người chế tạo một loại nước ngọt, ngon ngọt bổ dưỡng, tự mình uống rồi mời người khác cùng uống. Uống xong, tự mình cảm nghe sảng khoái, thích thú mà người được mời uống cũng cảm thấy thích thú, sảng khoái. Cũng vậy, có người làm việc lành, khuyến hóa kẻ khác làm việc lành; đến khi chấm dứt thọ mạng, cả mình và người đều được hóa sanh đến cảnh trời an vui, sung sướng.

Như vậy, Tác ý này chính là nghiệp đấy, tâu đại vương!

- Hay lắm.

* * *


36. Hành tướng của Thức (Vinnanalakkhana)


- Còn Thức? Đức vua hỏi - hành tướng và chức năng của nó là thế nào, đại đức?

- Thức có chức năng thứ nhất là nhận thức, chức năng thứ hai là thu thập kinh nghiệm của lộ trình tâm, tâu đại vương!

- Xin cho nghe ví dụ.

- Như người lính đứng canh cổng thành của đại vương. Người ấy thấy rõ những người đến cung điện từ hướng đông, tây, nam, bắc; biết rõ người ra kẻ vào, biết rõ là vua, quan hay dân, nam hay nữ, tâu đại vương. Ví dụ ấy như thế nào thì thức biết rõ sắc, thanh, hương, vị, xúc pháp cũng như thế ấy.

- Còn thu thập kinh nghiệm của lộ trình tâm?

- Ví như người lính canh cổng thành ấy, nhờ thói quen, nhờ kinh nghiệm mà biết rõ những người vào ra, đến đi, kẻ nào gian kẻ nào ngay; biết rõ người nào đáng kính trọng, người nào cần phải nghi ngờ, người nào mình thích và người nào mình ghét v.v... Các cảm giác (thọ), tri giác (tưởng) tham sân (hành) ở trong các tiến trình của tâm sở ấy; Thức ghi nhận, thu thập, lưu giữ kinh nghiệm cũng y như thế, tâu đại vương!

* * *


37. Hành tướng của Tầm (Vitakkalakkhana)

- Đại đức giảng luôn cho nghe về Tầm tâm sơ?

- Tầm chính là tìm kiếm. Đi tìm kiếm đối tượng là Tầm, tâu đại vương .

- Xin cho nghe ví dụ.

- Ví như con ong bay đi tìm kiếm đóa hoa để hút mật, nó thấy đóa hoa, bay quanh đóa hoa, tìm chỗ để đậu xuống trên đóa hoa - Đấy là Tầm tâm sở, thưa đại vương .

- Rõ lắm.

* * *

Mời xem tiếp: CÂU HỎI TỪ 38-43

Duới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn Bài xem
xong bấm vào "CHỌN XONG, BẤM VÀO ĐÂY ĐỂ XEM":





TRUYỆN PHẬT GIÁO

TRỞ VỀ DIỄN ĐÀN

THỂ LOẠI: TRUYỆN PHẬT GIÁO | CẬP NHẬT bởi: atoanmt
Xem: 1073 | TẢI XUỐNG: 0 | ĐÁNH GIÁ: 0.0/0
Tổng-số Ý-kiến: 0
CHỈ CHO THÀNH VIÊN GÓP Ý
[ ĐĂNG-KÝ | ĐĂNG NHẬP ]