Dịch giả : HÒA THƯỢNG GIỚI NGHIÊM (THITASÌLA MAHATHERA)
MỤC LỤC [00] Tiểu sử Hòa thượng Giới Nghiêm Lời nói đầu Kệ lễ bái Tam bảo [00.1] I. PHẦN DẪN NHẬP
1. Ngoại thuyết (Bàhirakathà) 2. Câu chuyện liên quan trong tiền kiếp (Pubbapa yoga)
2.1. Chuyện về ĐỨC VUA MI-LAN-ĐÀ 2.2. Chuyện về ĐẠI ĐỨC NA-TIÊN 2.3. Thấp thoáng bóng Sư Tử [01] II. NỘI DUNG MI-TIÊN VẤN ĐÁP
1. Danh 2. Con số hạ lạp 3. Đàm thoại như một Trí giả hay như một Vương giả 4. Thỉnh mời vào Hoàng cung 5. Cứu cánh của Sa môn hạnh 6. Tái sanh - Vô sanh 7. Chú tâm 8. Hành tướng của chú tâm và trí tuệ cùng sự khác nhau giữa chúng 9. Tất cả Pháp lành lấy Giới làm sở y 10. Hành tướng của Tín 11. Hành tướng của Tấn 12. Hành tướng của Niệm 13. Hành tướng của Định 14. Hành tướng của Tuệ 15. Ngũ căn - riêng và chung 16. Tương quan thân trước và sau 17. Tái sanh và vô sanh 18. Trí tuệ 19. Bậc vô sanh có còn đau khổ không? 20. Cảm thọ [02]
21. Cái gì dẫn dắt đi tái sanh? 22. Không nên hỏi lại câu đã hỏi 23. Danh sắc tương quan liên hệ 24. Thời gian và không còn thời gian 25. Nguyên nhân của thời gian 26. Thời gian tối sơ? 27. Có rồi không! Không rồi có! 28. Pháp hành thì sao? 29. Tự nhiên sanh? 30. Tự ngã trong thân? 31. Nhãn thức và tâm thức 32. Hành tướng của Xúc 33. Hành tướng của Thọ 34. Hành tướng của Tướng 35. Hành tướng của Tác Ý 36. Hành tướng của Thức 37. Hành tướng của Tầm 38. Hành tướng của Tứ (hay Sát) 39. Lại hỏi về "Chú Tâm" 40. Những tâm sở đồng sanh 41. Về năm giác quan 42. Bất bình đẳng sai khác của chúng sanh là do nghiệp 43. Sớm ngăn ngừa điều ác 44. Lửa địa ngục 45. Nước dựa khí 46. Niết bàn 47. Ai sẽ đắc Niết bàn 48. Làm sao biết Niết bàn là tối thượng lạc [03]
49. Có Phật không? 50. Phật là tối thượng tôn bảo 51. Phật tối thắng như thế nào? 52. Thấy Phật 53. Khi chết ngũ uẩn diệt theo 54. Vedagù? 55. Nếu chết mà diệt hết thì thoát khỏi nghiệp 56. Nghiệp trú ở đâu 57. Biết còn tái sanh? 58. Phật ở đâu? 59. Thương yêu cái thân? 60. Bậc toàn giác biết tất cả 61. Tại sao Phật không giống cha mẹ Ngài 62. Thực hành phạm hạnh (Brahmacàri) 63. Ai truyền cụ túc giới cho Đức Phật? 64. Nước mắt nào là thuốc? Nước mắt nào là độc dược? 65. Tham luyến và dứt tham luyến 66. Trí tuệ ở đâu? 67. Luân hồi 68. Trí nhớ 69. Ai cũng có trí nhớ 70. Có bao nhiêu loại trí nhớ 71. Tương quan phước và tội 72. Diệt khổ chưa đến? [04]
73. Cõi Phạm Thiên bao xa? 74. Thời gian tái sanh 75. Sự liên hệ giữa kiếp này với kiếp kia 76. Vào cửa nào để đầu thai? 77. Nhân sanh giác ngộ 78. Điều lành nhỏ, phước quả lớn. Điều ác lớn, tội báo nhỏ 79. Kẻ trí làm điều ác, tội báo nhỏ. Người ngu làm điều ác tội báo lớn 80. Bay bằng thân 81. Xương dài 100 do tuần 82. Biển 83. Ngưng hơi thở 84. Pháp xuất thế gian 85. Tuệ xuất thế gian nằm ở đâu 86, 87. Thức, tuệ và sanh mạng 88. Thì giờ phải lẽ rồi 89. Phật và chư tăng ai phước báu nhiều hơn [05] SỰ CHUẨN BỊ CỦA ĐỨC VUA VỀ NHỮNG CÂU HỎI MENDAKA
90. Lễ bái, cúng dường xá lợi, kim thân Phật, cây Bồ đề... không có phước 91. Đức Phật có toàn giác không? 92. Đức Thế tôn có tâm Đại bi hay không? 93. Nghi vấn về sự bố thí Ba-La-mật 94. Bố thí hai mắt lại được thiên nhãn 95. Hoài nghi về sự thụ thai [06]
96. Nghi về thời gian giáo pháp tồn tại 97. Đức Thế Tôn còn khổ chút ít nào không? 98. Đức Thế Tôn đã thật sự hoàn tất mọi phận sự chưa? 99. Tại sao Đức Thế Tôn không dùng "tứ thần túc" để duy trì thọ mạng 100. Chánh pháp của Đức Thế Tôn có vẻ không được hoàn hảo? 101. Tại sao có những câu hỏi mà Đức Thế Tông làm thinh không trả lời? 102. Chúng sanh sợ hãi diêm chúa? 103. Tụng kinh Paritta thật không có lợi ích! [07]
104. Oai lực của Đức Phật thua Ma vương? 105. Vì Đức Phật thuyết pháp mà làm cho sáu mươi vị tỳ kheo hộc máu. 106. Bậc Thánh cư sĩ sao lại phải đảnh lễ, cúng dường phàm Tăng? 107. Giáo hội của Đức Tôn Sư có bị phân ly, chia rẽ không? 108. Tỳ kheo tạo nghiệp do không biết, tại sao lại không có tội? 109. Đức Thế Tôn có lãnh đạo, bảo quản giáo hội tỳ khưu không? 110. Tại sao Đức Thế Tôn không thu thúc lục căn? 111. Sao Đức Thế Tôn có lời nói khiếm nhã? 112. Cái cây có tâm lý không? 113. Bữa cơm của Cunda có vấn đề! [08]
114. Tại sao chư Tăng không được cúng dường nhục thân Như Lai? 115. Quả đất dường như có tâm thức? 116. Đức Phật thuyết về bố thí là để nhận được lợi lộc cúng dường? 117. Tại sao Đức Thế Tôn không muốn thuyết pháp sau khi đắt đạo? 118. Ai là thầy của Đức Thế Tôn? 119. Thế nào gọi là Sa-môn? 120. Có nên hoan hỷ không khi người ta tán dương Tam Bảo? 121. Sao Đức Thế Tôn lại dùng lời ác khẩu, ác ngữ? 122. Đức Thế Tôn còn bất bình, sân hận! 123. Phải chăng Đức Thế Tôn không có tâm bi mẫn? 124. Phẩm mạo xuất gia cao siêu đến cỡ nào? [09]
125. Đời sống Sa-môn vô tư, như nai trong rừng, sao lại xây chùa, tạo thất 126. Tai sao Đức Thế Tôn không thu thúc cái bụng? 127. Đức Phật muốn che dấu Pháp? 128. Lý do nặng nhẹ của tội nói dối! 129. Phước báu của Đức Thế Tôn không ưu thắng, tối thượng bằng đệ tử 130. Thần thông của đức Mục-kiền-liên không đương cự nổi thần lực của 131. Kiếp áp chót, tại cung trời Đảu suất, Đức Bồ-tát quán sát thế gian để 132. Rơi đi bằng phi pháp? Rơi đi bằng pháp? Cắt đứt sự rơi? 133. Tâm từ vô lượng không tiêu trừ được các sự họa hại? 134. Quả của thiện và ác nghiệp rất lạ lùng 135. Sự tà hạnh của người nữ? [10]
136. Các vị A la hán còn sợ hãi? 137. Đức Phật dạy cắt đức sợ hãi? 138. Cái gì nơi Đức Thế Tôn là cao quý không ai sánh bằng? 139. Đức Thế Tôn là người khai sáng Đạo hay Đạo có sẵn từ ngàn xưa? 140. Đức Phật từ bỏ sự tinh tấn, lại khuyên đệ tử nên tinh tấn? 141. Tại sao có đắc quả nhanh, chậm khác nhau? 142. Về cư sĩ A-la-hán! 143. Tại sao bồ tát Loma Kassapa giết hại chúng sanh để tế lễ? 144. Tượng vương Chaddanta thì cung kính y cà sa - mà bồ tát Jotipàla lại 145. Về cái nhà không mái của người thợ gốm? [11]
146. Tại sao có lúc Đức Phật lại xưng mình là Bà-la-môn, có khi xưng mình là 147. Tại sao không có hai Đức Phật xuất hiện một lần? 148. Không nên cho kẻ phàm tục xuất gia trong giáo hội thanh tịnh của Đức 149. Thân thọ khổ, tâm có thọ khổ? 150. Giải thêm về "tâm không động" 151. Người đã phạm "bất cộng trụ", xin tu lại, có đắc được đạo quả không? 152. Cư sĩ phá giới và sa môn phá giới, hậu quả tội lỗi nặng nhẹ ra sao? 153. Nước có sanh mạng chăng? 154. Trùng câu 141. 155. Trên thế gian này cái gì không sanh? 156. Bậc A-la-hán còn phạm giới? [12]
157. Cái gì không do nhân, nghiệp, thời tiết sanh? 158. Trùng câu 157 159. Sao không thấy tử thi của dạ xoa? 160. Tại sao Đức Thế tôn không cấm chế giới luật một lần? 161. Mặt trời có bệnh chăng? 162. Lại bệnh của mặt trời nữa! 163. Về chuyện Bồ tát Vessantara bố thí vợ con! 164. Chư Phật quá khứ có tu khổ hạnh không? [13]
165. Năng lực của thiện và ác nghiệp cái nào mạnh hơn? 166. Hồi hướng phước có hiệu quả không? 167. Hồi hướng "ác" có được không? 168. Tại sao có chiêm bao? 169. Chết đúng thời và chết không đúng thời 170. Tại sao nhập Niết bàn lại có hiện tượng phi thường? 171. Chúng sanh nào có khả năng đắc đạo? 172. Niết bàn có xen lẫn khổ? 173. Tại sao không diễn tả Niết bàn một cách cụ thể? 174. Làm sao rõ Niết bàn? 175. Niết bàn không ở đâu cả! [14]
176. Có ai thấy Phật không? [15]
177. Đầu đà khổ hạnh có ích lợi gì? [16] NHỮNG CÂU HỎI VỀ VÍ DỤ
178. Về con lừa 179. Về con gà 180. Về con sóc 181. Về con cọp cái 182. Về con cọp đực 183. Về con rùa nước 184. Về cái kèn 185. Về cây súng 186. Về con quạ 187. Về con khỉ 188. Về dây bầu leo 189. Về hoa sen 190. Về hạt giống 191. Cây Sàla xanh tốt 192. Về chiếc thuyền 193. Về ghe thuyền dính đá ngầm 194. Về cột buồm 195. Về người cầm lái thuyền 196. Về người làm công 197. Về biển cả 198. Về quả đất 199. Về nước 200. Về lửa 201. Về gió 202. Về núi 203. Về hư không 204. Về mặt trăng 205. Về mặt trời 206. Về trời Đế thích 207. Về chuyển luân Thánh vương [17]
208. Về con mối 209. Về con mèo 210. Về con chuột 211. Về con bò cạp 212. Về con chồn 213. Về chó rừng 214. Về con nai 215. Về con bò 216. Về con heo 217. Về con voi 218. Về sư tử 219. Về vịt nước 220. Về chim Venàhikà mái 221. Về chim sẻ 222. Về chim cu 223. Về con rít 224. Về con dơi 225.Về con đỉa 226. Về con rắn 227. Về con trăn 228. Về nhện giăng lưới 229. Về hài nhi 230. Về rùa vàng 231. Về rừng 232. Về cây đại thọ 233. Về mưa 234. Về ngọc mani 235. Về người săn bắn 236. Về người câu cá 237. Về thợ bào gỗ 238. Về người thợ gốm 239. Về con quạ 240. Về cái dù 241. Về đám ruộng 242. Thuốc trị độc rắn 243. Về vật thực 244. Về người bắn cung [18] III. SAU CUỘC VẤN ĐÁP
Kính cáo Thi điếu ---o0o--- TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG GIỚI NGHIÊM (THITASÌLA MAHATHERA) (1921 - 1984) Nguyên:
- Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravàda) Việt Nam. - Thành viên Hội Đồng Chứng Minh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. - Phó Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. - Phó Chủ Tịch Hội Hữu Nghị Việt Nam - Campuchia.
Hòa thượng Giới Nghiêm (Thitasìlamahathera), thế danh Nguyễn Đình Trấn, sinh ngày 5/5/1921 tại làng Giạ Lê Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Ngài xuất thân trong một gia đình có truyền thống đạo đức lâu đời, tại một quê hương nghèo khổ, nhưng lại phát tích rất nhiều tu sĩ và cao tăng thuộc cả hai truyền thừa Nam Bắc tôn. Chỉ riêng trong gia đình, bác của Ngài - Hòa thượng Thích Phước Duyên - và chú của Ngài đều là bậc xuất gia. Còn vị thân sinh - Hòa thượng Thích Quang Diệu (Nguyễn Đình Tải) - sau nửa cuộc đời lập gia đình với mẹ của Ngài là cụ bà Huỳnh Thị Thành, cũng xuất gia, sống đời phạm hạnh. Lớn lên trong truyền thống gia đình như vậy, nên năm chín tuổi, Ngài đã tìm đến một ngôi chùa hẻo lánh, nổi tiếng nhiều thú dữ, ma thiêng nước độc, thuộc địa phận làng Bãng Lãng, để tu học. Ngài thọ giới Sa-di ở đây.
Đến năm 1940, vì quê nhà chiến tranh loạn lạc, sự tu hành bị trở ngại, Ngài đã vào Đà Nẵng, xin ở chùa Phổ Đà, sau đó thọ Đại Giới đàn Tỳ kheo, thuộc hệ phái Bắc truyền.
Bấy giờ, Phật giáo Nam tông (Theravàda) bắt đầu du nhập vào Việt Nam, nhờ vậy Ngài có cơ hội nghiên cứu giáo lý Nguyên Thủy. Vốn tâm cơ linh mẫn, bén nhạy, và do túc duyên của nhiều đời nhiều kiếp, Ngài cảm thấy đây mới thật đúng là Chánh Pháp, là giáo lý chơn truyền chưa hề bị pha trộn, xen tạp các tư tưởng của các đạo giáo khác.
Duyên may đã đến. Năm 1944, Ngài được thiện hữu trí thức giới thiệu và giúp đỡ sang du học tại Phnôm-pênh, Campuchia. Năm 1947, Hòa thượng Niếp-Tích truyền giới Tỳ-kheo (Bhikkhu) theo truyền thống Phật Giáo Nam Tông (Theravàda) cho Ngài. Ngài lại còn được kỳ duyên học đạo với Đức Vua Sãi Campuchia, là Trưởng lão Hòa thượng Chuon-Natch.
Do nhu cầu trí tuệ, hiếu học, hiếu tu; từ Campuchia, Ngài tiếp tục sang Thái Lan và Miến Điện để tầm sư học đạo. Rời Pháp học, Ngài quay sang Pháp hành; và ở tại Miến Điện, Ngài được học Thiền Tứ-niệm-xứ với Hòa thượng Thiền sư Mahasì Sayàdaw.
Thế là sau hơn mười năm bôn ba xứ người tầm cầu Chánh Pháp, Ngài hồi hương với chí nguyện, mang giáo lý nguyên thủy rất cũ xưa mà cũng rất mới mẻ về Việt Nam để quảng bá, hoằng truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp tín đồ.
Tại Sài Gòn - Gia Định, năm 1957, Ngài cùng với các vị trưởng lão cao tăng, thạc đức khác, như: hòa thượng Hộ Tông, hòa thượng Bửu Chơn, hòa thượng Thiện Luật, hòa thượng Tối Thắng, hòa thượng Giác Quang, hòa thượng Kim Quang, pháp sư Thông-Kham vận động thành lập Giáo hội Tăng già Phật giáo Nguyên thủy (Theravàda) Việt Nam.
Về sự nghiệp xây dựng chùa chiền: từ miền Nam đến Cao nguyên, rồi ra miền Trung, đâu đâu cũng có bàn tay và dấu chân của Ngài trong sứ mạng khai sáng Giáo Pháp chơn truyền của Đức Từ Phụ.
Ngài đã xây dựng hoặc đứng ra chủ trì xây dựng tất cả mười sáu ngôi chùa sau đây:
Huế: Định Quang Tự ở Giạ Lê; Tăng Quang Tự ở Gia Hội. Đà Nẵng: Tam Bảo Tự, tổ đình Phật giáo Nam tông miền Trung. Hội An: Nam Quang Tự. Quảng Ngãi: Tăng Bảo Tự. Quy Nhơn: Huệ Quang Tự ở Qui Nhơn; Phước Quang Tự ở Bình Định. Nha Trang: Như Ý Tự. Phan Thiết: Bình Long Tự. Đà Lạt: Bửu Sơn Tự; Pháp Quân Tự. Mỹ Tho: Pháp Bảo Tự. Biên Hòa: Phước Sơn Tự. Bà Rịa - Vũng Tàu: Tam Bảo Thiền Viện. Thành phố Hồ Chí Minh: Phật Bảo Tự; Diệu Quang Tự (Dành cho Tu nữ).
Về sự nghiệp phiên dịch kinh điển của Ngài, gồm có:
NHỮNG TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN:
Hạnh phúc kinh. Tiểu sử Phật Thích Ca. Giải về kiếp. Thiền Tứ Niệm Xứ. Giải về bạn. Mi Tiên Vấn Đáp (Quyển I, II, III)
SẮP XUẤT BẢN:
Pháp Đoàn kết. Giải thoát giáo. Giải về cõi trời. Phật bổn sanh. Giải về lửa. Dạ Xoa hỏi Phật. Nhà của Tâm. Vô Ấn Tượng Pháp. Kinh Ổ Mối. Vi Diệu Pháp vấn đáp. Ba mươi bảy Pháp trợ Bồ-đề. Pháp Số giảng giải. Vi Diệu Pháp vắn tắt. Tam Tạng, quyển 1, 2, 3, 4. Tam Tạng, quyển 40, 41.
Ngoài những sự nghiệp vĩ đại ấy, Ngài lại còn có số đệ tử xuất gia đông đảo nhất của Phật giáo Nam tông. Một số du học ở nước ngoài, đã thành tài, đã trở nên cao tăng, danh tăng đang hoằng pháp ở Mỹ và ở Pháp, như Hòa thượng Tiến sĩ Pháp Nhẫn, Thượng tọa Tịnh Đức, Thượng tọa Chơn Trí, Thượng tọa Đức Minh v.v... Ở trong nước hiện nay, nhiều đệ tử do Ngài tế độ hoặc hướng dẫn đã trở nên những bậc trưởng lão cho tứ chúng y chỉ, hoặc đạo cao đức trọng, hoặc tài đức uyên thâm, hoặc thâm niên cao hạ... như Hòa thượng Hộ Nhẫn ở Huế, cố Hòa thượng Pháp Tri ở Sài Gòn, Thượng tọa Viên Minh ở Bửu Long, Thượng tọa Tâm Hỷ, Thượng tọa Hộ Chơn v.v...
Như vậy, cuộc đời Ngài đi qua trần gian không dài, nhưng đã làm việc hết sức mình cho chánh pháp, cho xã hội, cho môn đồ.
Năm 1984, đến khi lâm trọng bệnh, mặc dù đã được hội đồng y - bác sĩ bệnh viện Chợ Rẫy hết sức cứu chữa cùng với sự quan tâm giúp đỡ của Giáo hội, của các cấp chính quyền, nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Ngài đã an nhiên thị tịch lúc 10h30' ngày 13 tháng 7 năm Giáp Tý, tức ngày 9/8/1984 tại chùa Phật Bảo, hưởng thọ 63 tuổi.
Hàng năm, vào mùa Vu Lan Báo Hiếu, toàn thể Tăng tín đồ Phật giáo Nam tông và Giáo hội Phật giáo Việt Nam làm lễ tưởng niệm cố Hòa thượng, một vị trưởng lão sáng lập Hệ phái Tăng già Nguyên thủy Việt Nam, một thiền sư đạo hạnh nghiêm minh, một bậc thầy từ hòa khả kính, một cao tăng nhiệt tình trong hàng Giáo phẩm tôn túc của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Trước sự mất mát to lớn ấy, các hàng đệ tử đã đóng góp tịnh tài và công sức xây dựng ngôi Bảo tháp tại chùa Phật Bảo, tôn trí di cốt của Ngài để tưởng niệm công đức và thể hiện hạnh tri ân, quanh năm trầm hoa kính viếng, chiêm bái, phụng thờ.
Dẫu Ngài đã đi vào cõi vĩnh hằng nhưng bóng mát của tàn đại thụ mãi còn che phủ các ngôi già -lam, nơi Ngài đã dày công kiến tạo và giáo huấn môn đồ suốt một đời không mệt mỏi.
Cầu nguyện cho công hạnh ba-la-mật của Ngài sớm được tựu thành viên mãn.
Đệ tử, Tỳ-khưu Chánh Niệm, (Nguyễn Đình Pháp) Trụ trì chùa Phật Bảo, cẩn bút.
* * *
Lời nói đầu
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena. Những câu hỏi thì đa trí, sắc bén mà lời giải đáp lại thâm sâu, quảng kiến, lợi tuệ; nhiều khi chỉ là những ví dụ cụ thể, bình dân, giản dị, rất bổ ích cho các nhà học giả, người nghiên cứu, kẻ đa nghi cũng như sự học Phật của các hàng hậu tấn.
Đi sâu vào những lời đối thoại, người nắm giáo nghĩa của Phật giáo Nguyên Thủy (Theravàda) dễ nhận ra rằng, những vấn đề được đề cập hoàn toàn là tinh yếu của Tam Tạng Pàli văn, chưa hề pha tạp tư tưởng và kiến giải của các bộ phái phát triển sau này. Do vậy, không lạ gì Phật giáo Miến điện xếp bộ kinh Milindapanha vào Thánh điển, và Phật giáo Tích lan đặt chung với năm bộ Nikàya để tôn thờ và phụng hành.
Chúng ta cần biết rằng, các bộ phái Bắc truyền cũng có phổ biến kinh này do người Trung hoa phiên dịch vào các thế kỷ sau T.L kỷ nguyên. Và hiện tại có vài bản tiếng Việt đang lưu hành rộng rãi lấy tên là "Na-tiên tỳ-kheo kinh" như bản của Đoàn trung Còn, và bản của Cao hữu Đính, xuất bản vào năm 1971.
So sánh giữa Milindapanha và Na-tiên tỳ-kheo kinh của Cao hữu Đính, chúng ta thấy rằng bản dịch sau đã giản lược chưa bằng một phần ba so với bộ kinh trước; nhưng có nhiều ưu điểm là: cách phân câu, cú pháp, hành văn rõ ràng, mạch lạc, sáng sủa hơn. Tuy nhiên, nếu chịu khó đọc kỹ cả hai bổn, ta sẽ thấy Na-tiên tỳ kheo kinh đã bỏ sót trên 150 câu hỏi, lượt bớt câu hỏi, bỏ sót những chi pháp quan trọng và bỏ sót những ví dụ sống động xoay quanh một vấn đề, làm giảm sút giá trị của bộ kinh cựu truyền không ít vậy.
Ngoài ra, thật đáng tiếc hơn, Na-tiên tỳ kheo kinh lại va vấp nhiều lỗi lầm quan trọng về tinh yếu của giáo pháp, ví dụ:
* Câu 7: Yoniso manasikàra (như lý tác ý), nghĩa là khởi tâm đến đối tượng một cách đúng đắn, hợp với sự thật, mà dịch là "Nhứt tâm"!
* Câu 13: Nàma-rùpa là danh sắc mà dịch là "danh thân"! Tưởng là giống nhau nhưng "sắc" chính xác hơn nhiều. Thân (kàya) theo Abhidhamma có hàng chục nghĩa khác nhau, không đơn thuần là thân tứ đại. Còn danh thân là thân của các tâm sở. Danh là phần tâm và tâm sở, sắc là thân xác tứ đại.
* Câu 22, 23, 24, 25:
- Vedanalakkhana: hành tướng của thọ, mà diễn giảng là: "cảm thọ vui là tự mình nhận biết và hưởng thọ cái vui ấy"! Xin thưa, "nhận biết" là thuộc về "tưởng", còn "hưởng" là thuộc về ái dục, nó nằm nơi "hành"!
- Sannàlakkhana: hành tướng của tưởng mà dịch là giác, không chính xác, dễ lầm lẫn, nên dịch là tri giác: nhận biết đối tượng một cách tổng quát.
- Cetanàlakkhana: hành tướng của "tư", mà dịch là "sở niệm"! Lại còn diễn giảng: Sở niệm tức là Tư tưởng! Xin thưa, tư chính là tư tác, nó tạo nghiệp do tham, sân, si khởi lên, nó chi phối "hành" trong ngũ uẩn.
- Vinnànalakkhana: Hành tướng của thức, thức ở đây là thức ghi nhận tiến trình kinh nghiệm từ sắc thọ, tưởng, hành...thức; mà ở đây lại nói là "nội động" thì chẳng ai hiểu ra làm sao cả! Thế mà còn định nghĩa: nội động là cái tư tưởng mong cầu xao xuyến trong nội tâm! Suy diễn như thế thì quả là đã đi xa từ và nghĩa nguyên thủy của giáo pháp.
* Câu 26: Bản dịch nói: năm cái xúc, thọ, giác, sở niệm, nội động một khi "dung hợp" thành "nỗi lòng" rồi...
Ôi! Sao lại gọi ngũ uẩn là "nỗi lòng"?! Và sao ngũ uẩn lại "dung hợp" được như các lượng vật chất? Có lẽ ai cũng hiểu rằng, ngũ uẩn chính là tiến trình sinh diệt của tâm sinh lý, và ngay chính các trạng thái tâm sinh lý cũng sinh diệt, tiếp nối tương tục không gián đoạn.
Sai lầm của bản kinh Na-tiên tỳ kheo, đáng buồn thay không phải chỉ có bấy nhiêu, mà ít nhất là vài chục chỗ tương tự thế trong số sáu mươi hai câu hỏi của bản kinh này!
Nêu ra như vậy, không phải chúng tôi "cầu toàn trách bị", bới lông tìm vết; cũng không phải chúng tôi vội quy kết những lỗi lầm trên là do dịch giả tiếng Việt, dịch giả tiếng Hán hay từ bản gốc bằng tiếng Pràkrit của phái Nhất thiết hữu bộ kết tập . Chỉ mong nhờ các bậc học giả lỗi lạc so sánh, đối chiếu để truy cứu vấn đề cho sáng tỏ hơn mà thôi.
[* Nhiều người lầm tưởng Nhất thiết hữu bộ thuộc Thượng tọa bộ. Không phải vậy. Nhất thiết hữu bộ là một trong 18 bộ phái được tách ra khỏi Thượng tọa bộ sau kỳ kết tập kinh điển lần thứ hai. Các nhà học giả thường gọi đây là 18 bộ phái Tiểu thừa.]
Nhận thấy tầm mức quan trọng của bộ kinh, ngoài công việc Tam Bảo bề bộn, chúng tôi phải bỏ thời gian gần hai mươi năm để phiên dịch, trước sau phân thành ba quyển hầu cống hiến bạn đọc. Nay tuổi già sức yếu, biết tuổi thọ không còn mấy năm, chúng tôi ráng dành thì giờ soạn lại, gộp chung thành một quyển. Lần này cũng khá vất vả vì dường như chúng tôi phải làm lại từ đầu: viết lại lời tựa, chỉnh lại văn cú, lược bỏ các đoạn trùng lặp, sắp xếp lại chương mục, bỏ hết câu, chữ, kệ Pàli không cần thiết, chỉnh lại đây đó một số nghĩa, số từ cho chính xác hơn. Làm việc ấy, chúng tôi xem như một bổn phận của mình, những mong hoàn thành một dịch phẩm ít lỗi lầm so với dịch phẩm trước đây để đáp đền Tam Bảo thâm ân.
Bộ kinh Milindapanha này, đúng ra phải dịch là "Mi-lin-đà sở vấn", nhưng tên gọi cũ đã quen tai, chúng tôi thấy không cần thiết phải sửa lại.
Về tên gọi của hai ngài, Nàgasena, chúng tôi dùng tên phổ thông là "Na-tiên tỳ kheo", và Milinda, chúng tôi âm là "Mi-lan-đà". Các đoạn đối thoại giữa hai vị, chúng tôi ghi "-" ở đầu dòng cho gọn.
Dẫu đã rất nhiều cố gắng, nghiêm túc và nhiệt tâm, chúng tôi cũng không sao tránh khỏi những khuyết điểm sau đây:
* Để hợp với tư duy người Việt, văn Việt nên đôi chỗ phải phỏng dịch, phóng tác mà vẫn trung thành với câu chuyện, với giáo pháp.
* Chúng tôi đã tự ý bỏ tất cả các phẩm, chỉ ghi thứ tự câu hỏi để cho độc giả tiện theo dõi.
Cốt ý của chúng tôi là muốn phổ biến một tư liệu quý hiếm rất gần với giáo pháp uyên nguyên; giải đáp, tháo gỡ những thắc mắc cho kẻ hoài nghi để phá bỏ sở tri chướng cho người tu Phật. Chỉ chừng ấy thôi thì công năng diệu dụng của "Mi-tiên-vấn-đáp" thật là bất khả tư nghì rồi.
Xin các bậc thức giả cao minh hoan hỷ chỉ giáo cho để lần tái bản được hoàn bị hơn.
Mong thay, Phật Bảo Tự, Phú Thọ Hòa Mùa An Cư 1982 - PL.2526 Tỳ Khưu Giới Nghiêm (Thitasìlo Bhikkhu)
-ooOoo-
Kệ lễ bái TAM BẢO
Đê đầu đảnh lễ Phật Bảo chí tôn Oai đức vô lượng Trí giác vô biên Tự mình Điều Ngự Viên mãn công hành Hữu tình lợi lạc.
Đê đầu đảnh lễ Pháp bảo chí tôn Thiết thực hiện tiền Khéo bày, khéo giảng Cứu độ chúng sanh Pháp học, Pháp hành Pháp thành viên mãn Ai dục, vô minh Tử sinh đoạn tận.
Đê đầu đảnh lễ Tăng Bảo chí tôn Đạo quả Thánh nhân Tròn đầy trí hạnh Xứng đáng cúng dường Tán dương, tôn trọng Vô thượng phước điền Chư thiên, nhân loại.
-ooOoo-
Chương mục
I. PHẦN DẪN NHẬP
Ngoại thuyết (Bàhirakathà) Câu chuyện liên quan tiền kiếp (Pubbayoga)
Chuyện về đức vua Mi-lan-đà Chuyện về đại đức Na-tiên Thấp thoáng bóng sư tử
II. NỘI DUNG MI-LAN-ĐÀ VẤN KINH
Gồm 244 câu hỏi: [**]
- Câu hỏi có khả năng cắt đứt sự nghi ngờ (vimaticchedanapanha) - Câu hỏi vượt tầm mức của chúng sanh trong tam giới, chỉ có các vị Bồ tát mới đáp được (mendakapanha) - Câu hỏi có tính cách xác định, khẳng định, kết luận (anumanapanha) - Câu hỏi về tính chất, tướng, đặc tính của Pháp (lakkhanapanha) - Câu hỏi bằng lối ví dụ, so sánh... (upamàpanha)
III. SAU CUỘC VẤN ĐÁP
Do chúng tôi sắp xếp.
[**] Xét rằng, chỉ có phẩm 5 là phần dành riêng cho ví dụ, còn 4 loại câu hỏi còn lại đều nằm lẫn lộn, xen kẻ suốt trong các phẩm, khó phân định rạch ròi.
---o0o--- Nguồn: http://www.budsas.org/uni/u-kinh-mitien/mitien-00.htm
Mời xem tiếp: DẪN NHẬP Duới đây là "Danh Mục" thu gọn, xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn Bài xem xong bấm vào "CHỌN XONG, BẤM VÀO ĐÂY ĐỂ XEM":
|