Thứ Ba
17 Jun 2025
1:55 PM
ĐĂNG NHẬP

Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

[ BÀI VIẾT MỚI · Forum rules · TÌM KIẾM · RSS ]
Những đoá hoa Thiền
LongTracAn Date: Thứ Năm, 09 Aug 2012, 5:07 PM | Message # 301
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1496. Vật ngã bất nhị.

Cư sĩ Phùng Tế Xuyên thấy ở trên tường am Minh Nguyệt có họa một cái đầu lâu, bèn đề một bài kệ ở bên cạnh:

屍在 這 裏
Thi tại giá lý
其人 在 何
Kỳ nhân tại hà
乃知 一 靈
Nãi tri nhất linh
不居 皮 袋
Bất cư bì đại.

Nơi đây thây chết
Còn người đâu ta
Tánh linh nếu biết
Chẳng mặc áo da.

Thiền sư Đại Huệ tới am, trông thấy, không đồng ý bèn viết thêm một bài kệ nữa:

即此 形 骸
Tức thử hình hài
卽是 其 人
Tức thị kỳ nhân
一靈 皮 袋
Nhất linh bì đại
皮袋 一 靈
Bì đại nhất linh.

Chính đây hài cốt
Chính đây người ta
Áo da linh tánh
Linh tánh áo da.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Bài kệ 1: chỉ ngộ thường lý sắc thân không phải là chân ngã, tánh linh mới là chân ngã, thường trụ bất diệt, có thể lìa khỏi nhục thể, tự do đến đi, không bị nhục thể trói buộc cho nên mới nói “nếu biết tánh linh, chẳng mặc áo da”. Còn chưa ngộ vật ngã bất nhị, tánh tướng một thể.
Bài kệ 2: Người chân ngộ biết một là tất cả, tất cả là một. Không phân biệt tự tha, vật ngã.

1497. Rồng kêu trong cây khô.

Một ông tăng hỏi Hương Nghiêm:
- Thế nào là Đạo?
- Rồng kêu trong cây khô.
Thế nào là người trong Đạo?
- Con mắt trong đầu lâu.
Ông tăng không hiểu đi hỏi Thạch Sương:
- Rồng kêu trong cây khô là sao?
- Do còn vui.
- Con mắt trong đầu lâu là sao?
- Do còn thức.
Ông tăng vẫn chưa hiểu đi hỏi Tào Sơn:
- Rồng kêu trong cây khô là sao?
- Huyết mạch chẳng đoạn.
- Con mắt trong đầu lâu là sao?
- Trời bất tận.
- Người nào nghe được?
- Tận đại địa chưa có ai là không nghe.
- Không biết rồng kêu là ở điển tích nào?
Không biết ở điển tích nào, nhưng người nghe thẩy đều mất mạng.
Lại đọc cho một bài kệ:

枯木 龍 吟 真 見 道
Khô mộc long ngâm chân kiến đạo
髑髏 識 盡 眼 初 明
Độc lâu thức tận nhãn sơ minh
喜識 盡 時 消 息 盡
Hỷ thức tận thời tiêu Tức tận
當人 那 辨 濁 中 清
Đương nhân na biện trọc trung thanh

Rồng kêu là kiến Đạo
Con mắt là sơ minh
Hỷ, thức, tiêu tức, tận
Chẳng phân trọc trong thanh.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Rồng kêu trong cây khô và con mắt trong đầu lâu là chỉ chân không diệu hữu. Đại đạo không lời nhưng không có gì là không nói được; không biết nhưng không gì là không biết. Khi thức biến thành trí thì không còn phân biệt trọc và thanh nữa.

1498. Tình và vô tình.

Hoàng Sơn Cốc hỏi Hối Đường:
- Hữu tình và vô tình cùng viên chủng trí, câu nói này có thật không?
- Câu nói này là thật nhưng từ miệng ông ra thì không thật.
- Tại sao vậy?
Hối Đường không trả lời, lấy một cái đũa đánh con chó đang nằm dưới gầm bàn. Con chó kêu oẳng một tiếng rồi chạy đi. Hối Đường lại lấy đũađánh xuống bàn một cái rồi nói:
- Chó là loài hữu tình, đánh một cái liền chạy. Bàn là vật vô tình mặc cho đánh vẫn ở lại. Tình và vô tình sao thành một thể?
Hoàng Sơn Cốc không biết làm sao trả lời. Hối Đường lại bảo:
- Núi có thần núi, sông có thần sông, cây có thần cây, hoa có thần hoa. Sơn hà đại địa diệu dụng vô tận. Tạp trúc xanh xanh là bát nhã. Hoa vàng xum xuê là diệu đế. Do đó tình và vô tình cùng viên cảnh trí.
Nghe Hối Đường nói, Hoàng Sơn Cốc đầy bụng nghi ngờ vì thấy thiền sư trước sau mâu thuẫn. Hối Đường kết luận:
- Nếu có suy nghĩ thì không phải là thiền đạo, làm sao hiểu vạn vật là chính mình?
Hoàng Sơn Cốc cuối cùng khế ngộ.
(Tinh Vân thiền thoại)
Sinh công thuyết pháp đá cũng gật đầu. Đó là hữu tình thuyết pháp cho vô tình nghe. Ở cõi Tịnh độ, chim chóc, hoa lá cây rừng đều niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng. Đó là vô tình thuyết pháp cho hữu tình nghe. Nhìn nước chẩy, hoa rụng, khiến chúng ta cảm thấy vô thường. Do đó, chúng ta không nên cảm thấy cô độc, phân biệt tình và vô tình. Chúng ta phải điều hợp vì tất cả đều là tự tánh lưu lộ. Hoa hương, điểu ngữ tất cả đều không dấu diếm gì. Tâm nhãn còn chưa mở sao?

1499. Tu gì?

Một ông tăng đến tham Tề An. Tề An hỏi:
- Tọa chủ tu gì?
- Kinh Hoa Nghiêm.
- Kinh chỉ mấy loại pháp giới?
- Nói rộng thì vô tận pháp giới, nói tóm thì chỉ có 4 loại.
Tề An giơ phất tử lên:
- Đây thuộc loại pháp giới nào?
Ông tăng trầm ngâm suy nghĩ.
- Tư mà biết, lự mà giải chỉ là đồ quỷ. Dưới ánh mặt trời, đèn hết chiếu sáng.
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Ngộ là chuyện của riêng mình, tự mình tâm địa phát sáng, không phải do trí giải, nghe người khác nói chẳng ích lợi gì.

1500. Ngồi không.

Một hôm Dược Sơn đang ngồi tĩnh tọa, lão sư là Thạch Đầu trông thấy bèn hỏi:
- Ngươi đang làm gì?
- Không làm gì cả.
- Vậy là ngươi ngồi không?
- Nếu ngồi không thì là đã làm.
- Ngươi nói không làm là không làm cái gì?
- Dù thánh nhân tới cũng trả lời không được.
Thạch Đầu rất tán thưởng.
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Xem đối thoại trên, chúng ta thấy trong sinh hoạt hàng ngày không thể chấp vào danh trạng, vì nó sẽ rơi vào phân biệt, dẫn tới đau khổ. Phân biệt là công cụ tốt để xử lý sinh hoạt hàng ngày; nhưng đó chỉ là xử lý sự vật, không thể xử lý sinh hoạt tánh linh. Vì có phân biệt nên luôn luôn có đối lập, tự tha, vật ngã. Cảnh chẳng bao giờ ngưng, ta luôn luôn ham muốn và phải tranh đấu để đạt được những dục vọng ấy. Đó là căn nguyên của bất an và thống khổ.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 09 Aug 2012, 5:12 PM | Message # 302
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1501. Sơn hà đại địa từ đâu ra?

Một ông tăng hỏi Vân Cư:
- Sơn hà đại địa từ đâu sinh ra?
- Từ vọng tưởng sinh ra.
- Vậy có thể từ vọng tưởng sinh ra một đính vàng không?
Vân Cư không thể trả lời được, muốn bỏ đi nhưng ông tăng không chịu muốn thiền sư giải đáp vấn đề này. Hai người tranh luận không thôi.
Đương thời Vân Môn Khuông Chân nghe được chuyện này bình luận:
- Chỉ là dây leo.
(Thiền thị thập ma)
Theo đạo lý mà nói câu trả lời của Vân Cư không sai vì sắc tức là không, không tức là sắc. Sơn hà đại địa là do nhân loại điên đảo vọng tưởng mà ra. Nhưng như ông tăng hỏi nếu cứ vọng tưởng có thể sinh ra một đính vàng thì trên thế giới này vàng không còn giá trị gì nữa. Câu bình luận của Khuông Chân có nghĩa là muốn biết sơn hà đại địa có phải là do vọng tưởng sinh ra không thì phải tự mình thể nghiệm và chứng thực, chứ không phải dùng lời tranh luận, chỉ là lọai dây leo. Tương tự hai người đứng bên cạnh một cái bàn, trên có đặt một chén nước. Một người nói chén nước này nóng, người kia nói chén nước lạnh. Hai người tranh luận không thôi, ai cũng nói mình đúng, người kia sai. Làm sao giải quyết? Thực tế rất giản dị, chỉ cần uống một ngụm nước là biết ngay nước nóng hay lạnh.

1502. Là Cái gì?

Phật tổ đang ngồi, bỗng thấy có 2 người khiêng một cái đầu heo đi ngang qua, bèn chỉ cái đầu heo hỏi mọi người chung quanh:
- Cái này là cái gì?
Mọi người đều cười ồ cả lên, lại có người còn nói:
- Chẳng phải Phật là bậc có đầy đủ trí huệ sao, chẳng lẽ ngay cả cái đầu heo cũng không biết?
Nhưng Phật vẫn trịnh trọng nói:
- Cũng nên hỏi qua.
Trong lịch sử một ngàn năm cũng chỉ là một chớp mắt. Mã Tổ sau khi được Hòai Nhượng chỉ dẫn, khai ngộ và trở thành một vị đại tôn sư, trụ trì ở Khai Nguyên Tự, Giang Tây. Đương thời người bốn phương tụ lại để nghe vị thiền sư ở phương Nam thuyết pháp có gì xảo diệu không? Nhưng mọi người lấy làm ngạc nhiên cả 3 năm trời Mã Tổ rất ít khi giảng kinh thuyết pháp; nhưng mỗi khi thị giả mang cơm chay tới, Mã Tổ đều giơ cái bánh nướng lên hỏi đại chúng:
- Là cái gì?
Đại chúng đều cảm thấy lạ. Bánh nướng ai chẳng biết, sao mỗi ngày Mã Tổ đều hỏi? Chẳng lẽ có hàm ý gì? Chẳng lẽ giơ cái bánh nướng lên là thuyết pháp? Mà thuyết pháp gì? Mọi người đều nghĩ không ra .
(Thiền thị thập ma)
Từ câu hỏi “Là cái gì?” giúp chúng ta phản quán tất cả mọi hiện tượng mà tìm ra căn nguyên, do tướng vào thể, do văn vào nghĩa, lãnh hội chân nghĩa của Phật pháp.

1503. Trà vẫn vậy, nhưng người đã khác.

Có một hàn sĩ lên kinh ứng thí. Trong khi chờ đợi, ra ngoại ô du ngoạn để tiêu khiển. Mải xem phong cảnh, chiều xuống lúc nào không hay. Vừa mệt vừa khát nhìn phía trước ông thấy một ngôi chùa nhỏ, bèn vào xin tá túc qua đêm. Hàn huyên xong, vị trụ trì bưng ra mời khách một chén trà xanh. Vị hàn sĩ uống một hơi cạn chén trà, cảm thấy vị trà như cam lộ, trên thế gian này không có thức uống nào bằng. Về sau vị hàn sĩ thi đậu, được bổ làm quan to. Tuy ông đã thưởng thức rất nhiều danh trà, nhưng không có loại trà nào bằng vị trà nơi chùa cũ. Một hôm, không nhịn được, ông dẫn vài tùy tùng quay trở lại chốn xưa. Sau khi cảm tạ vị trụ trì, ông nâng chén trà lên uống. Ông phát giác vị trà đã biến đổi, không còn thơm ngọt như cũ. Ông lấy làm lạ bèn hỏi trụ trì. Vị trụ trì bảo ông:
- Trà vẫn vậy, nhưng người đã khác.
(Thiền thị thập ma)
Tuy cùng uống một loại trà, nhưng tâm cảnh đã khác. Lần thứ nhất là một vị hàn sĩ, vừa mệt vừa khát đương nhiên chén trà xanh phổ thông cũng trở thành cam lồ. Lần thứ hai, đã là một vị quan to, ăn toàn cao lương, uống toàn danh trà, cho nên trà xanh phổ thông sẽ thành vô vị. Trên thế gian này nhiều sự tình cũng đều như vậy: xấu, tốt; đúng, sai; đẹp, xấu trong mọi tình huống đều chỉ vì tâm cảnh bất đồng tạo thành phân biệt. Chỉ cần bảo trì được một loại tâm bình hòa thì thế giới trước mắt chúng ta sẽ dần dần hiển hiện bộ mặt chân thật.

1504. Tọa thiền.

- Đạo do tâm ngộ há ở ngồi sao?
(Thiền thị thập ma)
Đối với nhiều người tu thiền là tĩnh tọa. do đó tham thiền trong khi tĩnh tọa gọi là tọa thiền. Quan niệm này có đúng không? Trong công án 1011, Hoài Nhượng hỏi Mã Tổ:
- Khi xe không đi, ngươi đánh xe hay đánh bò?
Câu trả lời rất giản dị, ai cũng biết là phải đánh bò. Ở đây bò chỉ tâm, cái xe là chỉ tọa thiền. Nếu muốn ngộ sự bí ảo của thiền phải bắt đầu từ chỗ sâu thẳm của tự tâm tức là con bò, chứ không phải là từ cái xe. Trong xã hội ngày nay nhiều người chỉ chú trọng đến hình thức mà không để ý gì đến nội dung. Thậm chí có người coi nhập định quán hơi thở là tham thiền. Nếu tâm không ngộ không thông hiểu ý nghĩa ảo diệu của thiền, dù nhập định chỉ tức lâu bao nhiêu đi nữa cũng chỉ là khô mộc thiền, không có lợi ích gì. Tỷ dụ như trong công án trên, xe không đi đánh xe bao lâu cũng vô ích.

1505. Không cách.

Tuyết Phong 3 lần đến Đầu Tử, 9 lần đến Động Sơn, đắc pháp nơi Đức Sơn, sau thành đạo ở Ngao Sơn trấn, đệ tử có 1.500 người. Thiền tông có 5 tông thì 2 tông Vân Môn và Pháp Nhãn là tử tôn của Tuyết Phong. Một hôm ông hỏi một ông tăng:
- Từ đâu đến?
- Vừa rời Chiết Trung.
- Đi thuyền hay đi bộ đến?
- Cả 2 đều không dùng.
- Sao tới được đây?
- Có gì ngăn cách?
Tuyết Phong giơ gậy đánh, ông tăng bỏ chạy; mười năm sau trở lại; Tuyết Phong lại hỏi:
- Từ đâu đến?
- Hồ Nam.
- Từ Hồ Nam đến đây bao xa?
- Không cách.
Tuyết Phong giơ gậy lên hỏi:
- Có cách cái này không?
- Nếu cách tức là không đến đây được.
Tuyết Phong cũng đánh, ông tăng bỏ chạy. Ông tăng này sau đó ngồi ở đạo trường mắng chửi Tuyết Phong. Một ông tăng đồng tham hỏi ông:
- Tuyết Phong có câu gì mà ông mắng chửi vậy?
Ông tăng bèn thuật lại câu chuyện trên. Bạn đồng tu bèn chỉ cho ông chổ sai lầm. ông tăng đó về sau thường bi thống, rơi lệ hướng về đạo trường của Tuyết Phong sám hối.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Tông chỉ của thiền là một pháp chẳng lập. Học nhân bất tri bất giác rơi vào khái niệm là có gián cách là có phân biệt cho nên mới nói là còn mang một sợi tơ là chưa được giải thoát. Ông tăng trong công án trên vẫn còn chấp vào không cách mà không tự biết.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 09 Aug 2012, 5:19 PM | Message # 303
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng


1506. Phật tánh.

Khi Triệu Châu đã ngoài trăm tuổi, một hôm Triệu Vương và Yến Vương đến tham phỏng. Triệu Châu ngồi yên không đứng dậy. Yến Vương hỏi:
- Nhân Vương đáng tôn quý hay Pháp Vương đáng tôn quý?
- Ở Nhân Vương thì Nhân Vương tôn, ở Pháp Vương thì Pháp Vương tôn.
Hai vương thán phục, bái Triệu Châu làm thầy.
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Yến Vương muốn đánh Triệu Vương để cướp địa bàn, nhưng có người biết coi thiên tượng bảo Yến Vương:
- Triệu Châu có thánh nhân cư trú, nếu đánh sẽ thua.
Yến Vương nghe lời bèn hòa với Triệu Vương, lại hỏi Triệu Vương:
- Ở Triệu Châu có vị thánh nhân nào chăng?
- Cách đây 120 dậm ở Quán Âm Viện có vị lão thiền sư có minh nhãn.
Hai người cùng đến xem thử.
Câu đáp của Triệu Châu biểu thị chân như Phật tánh, vô tướng pháp thân ở Nhân Vương tối tôn quý, ở Pháp Vương cũng tối tôn quý.

1507. Đánh thành một phiến.

Hương Lâm Trừng Viễn thiền sư khi được 80 tuổi bảo viên tri phủ sở tại:
- Lão tăng sẽ đi hành cước.
Một viên quan đứng cạnh nói:
- Vị lão tăng này điên rồi! 80 tuổi mà đi hành cước, đi đâu chứ?
Mọi người đều nghi hoặc; khi trở về chùa thiền sư bảo đại chúng:
- Lão tăng 40 năm mới đánh thành một phiến.
Nói rồi viên tịch.
(Thìền thị thập ma)
Câu chuyện trên cho thấy tham thiền công phu cao thâm như Hương Lâm Trừng Viễn mà cũng phải mất 40 năm trời mới đánh thành một phiến cho thấy tu hành không phải là dễ. Do đó, ngộ rồi là phải bảo nhiệm tức là đánh thành một phiến.

1508. Không gián đoạn.

Đồng An hỏi Động Sơn:
- Chư vị thánh nhân có pháp gì để an thân lập mạng?
- Giữ tâm niệm không gián đoạn.
- Còn có pháp nào cao hơn không?
- Có.
- Là công phu gì?
- Tâm niệm không theo gián đoạn.
(Thiền thị thập ma)
Đối với một số người tâm niệm không gián đoạn và tâm niệm không theo gián đoạn là đồng nghĩa. Nhưng nếu nghĩ kỹ lại thì không gián đoạn bao hàm ý phải tu hành, còn không theo gián đoạn là mặc nhiên đạt được cảnh giới không gián đoạn.

1509. Uống trà đi.

Một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Thế nào là Đạo?
- Uống trà đi!
(Thiền thị thập ma)
Lịch sử ghi lại chuyện này là Triệu Châu trà, về sau biến thành trà thiền nhất vị; còn ảnh hưởng trực tiếp đến trà đạo của Nhật Bản. Như chúng ta thấy uống trà là một chuyện bình thường, phổ thông chẳng lẽ trong đó có hàm chứa thiền lý thâm ảo gì chăng? Từ xưa đến nay có biết bao người uống trà, nhưng ngộ đạo thì có mấy người? Ý của Triệu Châu là dùng tâm bình thường mà uống trà thì đó là Đạo. Nhưng thế nào là tâm bình thường? Có phải là tâm thái chúng ta trong sinh hoạt thường ngày không? Không phải. Tâm bình thường là tâm không tìm kiếm huyền ảo, kỳ đặc, nhưng ở trong đơn giản, phác thực của sự sinh hoạt hàng ngày thể nhận được chân tướng của tâm.
Mã Tổ Đạo Nhất đã giảng rất rõ:
- Tâm bình thường là tâm không tạo tác, không thị phi, không thủ xả, không đoạn thường, không phàm, không thánh.
Như vậy tâm bình thường không có ở điên đảo, phiền não, vọng tưởng, si mê, cũng không có ở thiền định tu tâm thần kỳ mà ở tại sinh hoạt bình thường.

1510. Thư mẹ.

Thiền sư Huệ Tâm, lúc 15 tuổi còn là một tiểu sa di, vì thông minh lanh lợi, được Hoàng đế triều kiến và ban nhiều tặng phẩm. Ông gửi tặng phẩm vua ban về quê tặng lại mẹ để tỏ lòng hiếu kính. Mẹ ông gửi cho ông một lá thư, trong viết: “Con gửi cho mẹ những phẩm vật Hoàng Đế ban cho con. Mẹ đương nhiên rất vui, nhưng khi mẹ cho con xuất gia làm tăng là mong con trở thành một thiền nhân có tu, có chứng chứ không phải mong con sống trong trường danh lợi. Nếu con chỉ ham hư vinh thì đã trái với nguyện vọng của mẹ. Mẹ hy vọng khi con nhận được thư này hãy ghi nhớ trong lòng thế nào là chân tham, thật học.” Sa di Huệ Tâm nhận được thư mẹ, lập chí làm một vị hoằng pháp độ chúng học theo kinh Hoa nghiêm.”nguyện vì chúng sinh lìa khổ, chẳng màng sự an lạc của chính mình”, không truy cầu danh lợi nữa.
Huệ Tâm được mẫu thân làm cho cảm động, nhờ người nhắn mẹ năm tới sẽ xin phép sư phụ về quê thăm viếng. Không lâu, mẹ ông lại gửi cho ông một lá thư nữa: “Mẹ cho con xuất gia, nhập đạo; con đã thuộc về Phật môn, thuộc về chúng sinh, con không thuộc về riêng mẹ nữa. Từ nay trở đi con phải là Phật tử, hiếu kính sư trưởng, thân cận tam bảo, không chỉ nghĩ đến mẹ. Năm tới về thăm mẹ, con phải nhớ như vậy.
(Tinh Vân thiền thoại)
Huệ Tâm được mẹ dạy dỗ hai lần, tinh cần học đạo, phát tâm lập nguyện sau trở thành một vị tăng bảo chân chính.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 09 Aug 2012, 5:22 PM | Message # 304
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1511. Lão bán dầu.

Một hôm Triệu Châu đến Đầu Tử Sơn ở Thư Châu thăm Đầu Tử. Hai người gập nhau trên đường. Triệu Châu hỏi:
- Ông có phải là Đầu Tử sơn chủ?
- Muối, trà, dầu, tùy ý mua.
Triệu Châu không ngó tới, đi về chùa, Đầu Tử tay cầm một bình dầu theo sau. Triệu Châu trách:
- Nghe danh Đại Đồng đã lâu, gập mặt chỉ là một gã bán dầu.
- Ông chỉ thấy gã bán dầu, không thấy Đầu Tử. Nghe danh Triệu Châu đã lâu nguyên lai chỉ là một tục nhân.
- Ta là gã tục nhân sao? và thế nào là Đầu Tử?
Đầu Tử giơ bình dầu lên:
- Dầu, dầu.
(Tinh Vân thiền thoại)
Đầu Tử trước khi mất có nói:
- Nếu tháp của ta có mầu hồng, ta sẽ trở lại.
Một trăm năm sau, khi các tín đồ tu sửa tháp thấy xá lợi có mầu hồng mã não, gập lúc Nghĩa Thanh đến quải đơn. Mọi người đều nói thiền sư Đại đồng đã trở lại. nghĩa Thanh có làm một bài tụng:

白雲 鎖 不 住
Bạch vân tỏa bất trú
青峯 以 何 收
Thanh phong dĩ hà thâu
月色 籠 寒 塔
Nguyệt sắc lung hàn tháp
松聲 半 夜 秋
Tùng thanh bán dạ thu.

Mây trắng chẳng thể khóa
Núi xanh lấy gì thu
Ánh trăng rải tháp lạnh
Thông reo giữa đêm thu.
Thế nào là Đầu Tử? Dầu, củi, gạo, muối trong sinh hoạt hàng ngày là pháp mạch trôi chẩy của Đầu Tử.

1512. Mặc kệ nó.

Nơi một chùa kia, có một đứa nhỏ con nhà nghèo khổ, được vị trụ trì từ bi thâu nhận, cho làm việc trong vườn rau. Nhiều năm trôi qua, đứa nhỏ lớn lên và trở thành viên đầu (ông tăng coi việc trồng rau). Một hôm ông bảo một vị sư huynh:
- Đệ thấy các sư huynh mỗi ngày đều tham thiền nhập định; đệ cũng muốn tập không biết có được không, xin sư huynh trình với sư phụ.
Vị sư huynh này trình lại cho sư phụ hay.
Vị trụ trì thấy khó quá vì ông tăng không biết chữ, chẳng đọc qua một quyển kinh nào, lại còn phải bận rộn chăm sóc vườn rau đâu có lúc nào rảnh để ngồi thiền tĩnh tu, bèn thuận miệng bảo:
- Mặc kệ nó.
Nào ngờ vị viên đầu nghe được câu này rất phấn khởi. Mỗi ngày khi làm việc đều niệm thầm câu này chẳng kể trời mưa, trời nắng, khi ăn, khi ngủ. Về sau ông cảm thấy dù không niệm tâm tánh cũng tự nhiên yên tĩnh. Mỗi khi gặp phiền não hay vọng tưởng ông lại niệm “Mặc kệ nó “. Vài năm sau, một hôm ông đang tưới rau, bình tưới bỗng vỡ làm ướt cả người. ông bỗng nhiên ha hả cười lớn vì ông cảm thấy thân tâm thanh tịnh như hư không, các tâm niệm điên đảo vọng tưởng biến mất không còn tung tích.
(Thiền thị thập ma)
Chỉ cần mặc kệ vọng tưởng, mặc kệ phân biệt, tự tánh quang minh tự nhiên hiển lộ.

1513. Cầu độc mộc.

Thần Sơn bảo Động Sơn:
- Dù đến nơi đâu, nếu có bạn tốt thì không bị lạc. Thỉnh sư cho một lời.
- Sư huynh có thái độ ấy sao thành công được?
Câu Động Sơn khải thị khiến Thần Sơn tỉnh ngộ, từ đó lời nói khác thường. Khi 2 người gập cây cầu độc mộc; Động Sơn qua rồi, nhấc mộc kiều lên gọi:
- Qua mau! Qua mau!
- Giới xà lê!
Động Sơn bèn hạ mộc kiều xuống.
(Động Sơn lục)
Bạn tốt ở đây chỉ thiện trí thức, dù bạn tốt cách nào cũng không được nhờ cậy mà phải trông vào chính mình. Động Sơn nhấc mộc kiều lên là hỏi không có mộc kiều làm sao qua?

1514. Tâm bất biến.

Một hôm trời rất nóng, có một văn sĩ đến chùa thăm một vị thiền sư. Vào đến phòng thiền sư cảm thấy nóng bức đến toát mồ hôi, bèn hỏi:
- Thiền sư, sao phòng nóng quá vậy?
- Tâm tĩnh tự nhiên mát.
(Thiền thi thập ma)
Trong đời sống: sinh, lão, bệnh, tử, biệt ly, địa vị thăng trầm, của cải trồi sụt và chủng chủng phiền não đều là do tâm có sai biệt. nếu ta nắm lấy then chốt của vấn đề là cảnh chuyển mà tâm không chuyển thì tất cả mọi phiền não đều bị tiêu diệt.

1515. Cao Phong.

Một hôm Tổ Khâm hỏi Cao Phong:
- Ban ngày ngươi có làm chủ được không?
- Làm được.
- Trong mộng có làm chủ được không?
- Làm được.
- Không mộng, không tưởng, không thấy, không nghe, chủ ở đâu?
Cao Phong không trả lời được bèn đến Lâm An tu hành. Một hôm bạn đồng tu làm gối đầu rơi xuống đất phát ra tiếng. Cao Phong hoát nhiên đại ngộ bèn làm một bài kệ, trong đó có 2 câu:
Nguyên lai chỉ là người lúc trước
Nếu không đổi lúc trước làm sao trở về.
(Thiền thị thập ma)
Làm chủ là giữ được tâm bình thường. Khi không nghe, không thấy là không khởi một niệm làm sao bảo nhiệm tâm bình thường? Sách thiền không ghi chép cao Phong ngộ gì. Nhưng từ tâm bình thường chúng ta có thể suy đoán ông đã ngộ “Mộng tỉnh là một, ngủ và định là một” nên đã thấy được bản lai diện mục.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 09 Aug 2012, 5:25 PM | Message # 305
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1516. Phật Di Lặc.

Động Sơn kể cho vân Cư chuyện Nam Tuyền hỏi ông tăng nghiên cứu kinh Di Lặc Hạ Sanh..
- Di Lặc bao giờ hạ sanh.
- Trên trời không có Di Lặc, dưới đất cũng không có Di Lặc.
Vân Cư theo đó hỏi:
- Nếu trên trời không Di Lặc, dưới đất không Di Lặc, không biết ai đặt tên Di Lặc?
Động Sơn bị hỏi khiến thiền sàng rúng động, bảo:
- Ưng xà lê, khi ta ở nơi Vân Nham từng hỏi lão sư; khiến hỏa lò chấn động. Hôm nay bị ngươi hỏi cả mình toát mồ hôi.
(Động Sơn lục)
Di Lặc ở đây chỉ tâm.

1517. Pha tương.

Động Sơn hỏi Vân Cư:
- Ngươi làm gì đó?
Pha tương.
- Dùng bao nhiêu muối?
- Liên tục cho vào từng chút.
- Vị thế nào?
- Được lắm.
(Động Sơn lục)
Ý của Vân Cư là tu hành thì phải chuyên cần tinh tấn.

1518. Nhập định.

Khâm sơn, Nham Đầu, Tuyết Phong cùng ngồi thiền. Động Sơn bưng trà ra. Khâm Sơn nhắm mắt lại. Động Sơn hỏi:
- Ngươi đi đâu?
- Nhập định.
- Định vốn không cửa, từ chỗ nào vào?
(Động Sơn lục)
Định chân chính không ra, không vào, không tĩnh, không loạn.

1519. Sự kỳ lạ.

Một hôm A Nan bạch Phật:
- Hôm nay vào thành con thấy một sự kỳ lạ.
- Sự kỳ lạ gì?
- Khi vào thành con thấy một đám người vui vẻ nhẩy múa,khi ra thành thì thấy vô thường.
- Hôm qua ta vào thành cũng thấy một sự kỳ lạ.
- Là sự kỳ lạ gì?
- Ta thấy một đám người vui vẻ nhẩy múa, khi ra thành cũng thấy một đám người vui vẻ nhẩy múa.
(Chỉ nguyệt lục)
Phật giáo cho rằng tất cả mọi sự vật trên thế gian đều không cố định, đều ở trong tiến trình: thành, trụ, hoại, không.

1520. Bài kệ phó pháp của Ca Diếp.

Sau khi kết tập kinh điển xong, Tôn giả Ca Diếp cảm thấy mình già yếu, định đến núi Kê Túc sơn nhập định để đợi Phật Di Lặc. Tôn giả vời ngài A Nan lại bảo:
- Tôi không còn trụ thế lâu nữa, nay đem chánh pháp giao cho ông, ông phải giữ gìn cho khéo. Hãy nghe bài kệ của tôi:

法法 本 來 法
Pháp pháp bản lai pháp
無法 無 非 法
Vô pháp vô phi pháp
何於 一 法 中
Hà ư nhất pháp trung
有法 有 不 法
Hữu pháp hữu bất pháp.

Bản lai pháp mỗi pháp
Không pháp không phi pháp
Trong một pháp mà sao
Có pháp có không pháp.
(Chỉ nguyệt lục)
Câu 1: Học pháp phải học bản lai pháp.
Câu 2: Không có pháp cũng không có gì không là pháp
Câu 3: Hà tất trong một pháp
Câu 4: Phân ra cái này là pháp, cái kia là phi pháp.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 09 Aug 2012, 5:32 PM | Message # 306
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1521. Đốt Bích Nham Lục.

Đại Huệ Tông Cảo người chủ xướng tham thoại đầu là một vị thiền sư trứ danh đời Tống. Từ nhỏ ông đã tỏ ra thông minh mẫn tiệp. 13 tuổi học ở trường làng, một hôm cùng bạn đùa nghịch ném nghiên mực qua cửa sổ, chẳng may trúng vào mũ thầy, chỉ còn cách bồi thường và về nhà tự học. Thủa thiếu thời ông nói: “Đọc sách thế gian chẳng bằng đọc sách xuất thế gian”. Bèn xin xuất gia ở Huệ Vân Viện. Năm 17 tuổi xuống tóc, rất thích đọc các bộ ngữ lục của Thiền tông. Ông thường nghi ngờ tại sao thiền từ một người truyền pháp là tổ Đạt Ma, tại sao lại phân thành 5 tông”. Năm 19 tuổi vân du tham phỏng chư thiền đức, sau gập Viên Ngộ Khắc Cần. Viên Ngộ bảo ông tham câu “Núi Đông đi trên nước.”Ông trình 49 đáp án đều không được Viên Ngộ chấp nhận. Một hôm Viên Ngộ thượng đường bảo đại chúng:
- Nếu có người hỏi ta về công án “Núi Đông đi trên nước” thì ta sẽ đáp “Gió thơm từ phương Nam tới, điện các đều mát mẻ.
Đại Huệ nghe câu nói trên có chỗ sở ngộ, bèn trình lên Viên Ngộ. Viên Ngộ bảo:
- Ông đạt được cảnh giới này không phải là dễ, nhưng tiếc là còn chết đi nhưng chưa sống lại. Đó là đại bệnh.
- Con được thế này cũng là khoái hoạt, không mong muốn được gì nữa.
Viên Ngộ bảo ông trú ở Mộc đường sinh hoạt cùng với các vị cư sĩ. Ngày ngày cùng mọi người nói chuyện gia thường và đều vào phòng sư phụ độc tham không dười 3, bốn lần. Mỗi lần Viên Ngộ đều đưa câu hỏi hữu cú vô cú ra. Đại Huệ vừa mở miệng, Viên Ngộ đều bảo không phải. Như vậy được nửa năm, tâm đại Huệ không còn vọng niệm. Một hôm ăn cơm, giơ đũa lên mà không và. Viên Ngộ cười bảo :
- Gã này đã được Hoàng dương một thiền.
- Đạo lý này giống như con chó đứng trước chảo mỡ nóng., muốn liếm không được, bỏ đi cũng không được.
- Thí dụ của ông rất hay
Đại Huệ vẫn chưa triệt ngộ. lại nửa năm nữa trôi qua, một hôm ông lại hỏi Viên Ngộ:
- Nghe nói lúc trước Hòa thượng có hỏi Ngũ Tổ Pháp Diễn về hữu cú, vô cú. Không biết Ngũ Tổ trả lời ra so?
Viên ngộ chỉ cười không trả lời.
- Hòa thượng thường trả lời mọi người, sao nay không nói?
- Ta hỏi “hữu cú,vô cú như dây leo cây ý là thế nào?” Ngũ Tổ đáp “Theo nhau vậy”.
- Con hiểu rồi!
Viên Ngộ bèn đặt nhiều câu hỏi để khảo nghiệm, Đại Huệ đều trả lời trôi chảy, không ngần ngại.
- Ông đã biết ta không lừa dối ông.
Không lâu, phân tọa mời Đại Huệ thuyết pháp.
Về sau khi Viên Ngộ đã viên tịch, Đại Huệ một hôm đem bản khắc để in Bích Nham Lục của sư phụ ra hỏa thiêu. Đây là 1 việc làm chấn động thiền giới. Đối với người thường thì đây là một hành động phản nghịch, khi sư diệt tổ.
(Nhất vị thiền:Quyển Nguyệt)
Đại Huệ có nỗi khổ tâm khi phải đem đốt bản khắc Bích Nham Lục của sư phụ. Mặc dầu thiền chủ trương bất lập văn tự, nhưng lúc đó những người học thiền chỉ chúi đầu vào đọc những sách thiền như Bích Nham Lục, cố tìm những bí ẩn, những lý giải trong các câu nói của các thiền sư, hoặc nghiên cứu những động tác, hành động của các thiền sư coi đó như một loại văn tự, mà chẳng chú trọng đến sự thực sự tu hành. Đại Huệ đốt bản khắc là để phá cái chấp tệ hại đó.
(200 năm sau người ta thu thập những tài liệu còn sót lại để tái tạo bộ Bích Nham lục mà chúng ta được đọc ngày nay.)

1522. Không tướng nhân, ngã.

Pháp Hội Linh Thứu có 500 tỳ khưu có đầy đủ 5 thần thông, nhưng chưa đắc pháp nhẫn. Vì có túc mạng thông nên họ đều thấy trong quá khứ mình đã giết cha, hại mẹ, cùng phạm những trọng tội khác; nội tâm hoài nghi mình không thể chứng được pháp thậm thâm. Do đó, Văn Thù, theo thần lực của Phật, tay cầm kiếm sắc bức Thế Tôn. Thế Tôn nói:
- Ngưng! Ngưng! Không được phản nghịch, không được hại ta. Nếu ta bị hại là do thiện mà bị hại. Văn Thù! Xưa nay vốn không ngã nhân. Nếu nội tâm thấy có ngã nhân thì ta tất bị hại.
Do hoạt cảnh trên, 500 tỳ khưu ngộ bản tâm như mộng, như ảo, trong mộng ảo không có tướng nhân, ngã, không có phụ mẫu. 500 vị đồng thanh tán thán Văn Thù:
- Văn Thù đại sĩ thâm đạt đến tận nguồn gốc, tự tay cầm kiếm sắc bức Phật. Kiếm, Phật một tướng không hai, không tướng, không sinh làm sao có giết?
(Thiền thất dữ công án đích áo bí)
Do sự chỉ điểm của Văn Thù, 500 vị tỳ khưu hiểu rằng không có tướng nhân, ngã thì làm gi có người làm hại, người bị hại và vật làm hại; do đó chứng được vô sinh pháp nhẫn.

1523. Khâm Sơn.

Khâm Sơn đến tham Động Sơn. Động Sơn hỏi:
- Từ đâu đến?
- Từ Đại Từ đến.
- Còn thấy Đại Từ không?
- Thấy.
- Thấy trước “sắc” hay sau “sắc”?
- Thấy phi trước sau.
Động Sơn im lặng. Về sau Khâm Sơn bảo mọi người:
- Ta lìa sư phụ quá sớm, không hiểu hết ý người.
(Động Sơn lục)
“Sắc” ở đây dẫn từ kinh Kim Cương:
“Nếu lấy sắc cầu ta,
Lấy âm thanh cầu ta,
Đó là hành tà đạo,
Không thể thấy Như Lai”.
Khâm Sơn trả lời đúng nên Động Sơn im lặng chấp nhận.

1524. Hoa Nghiêm Hưu Tĩnh

Hoa Nghiêm Hưu Tĩnh đến bái phỏng Động Sơn, hỏi:
- Con không có lý lộ, bị vọng niệm lừa dối.
- Ngươi nghĩ có đường ấy sao?
- Con thừa nhận chưa khai ngộ.
- Ngươi vọng tưởng ở đâu?
- Đó là điều con muốn hỏi.
- Vậy ngươi hãy hướng nơi vạn dậm không tấc cỏ mà đi.
- Con nên đến đó sao?
- Bất luận đi đâu, ngươi đều nên đi.
(Động Sơn lục)
Hoa Nghiêm hỏi Động Sơn làm sao trừ vọng niệm, Động Sơn bảo ông hãy trụ ở tự tánh (vạn dậm không tấc cỏ, xem công án 668).

1525. Tứ ân, tam hữu.

Động Sơn thượng đường bảo đại chúng:
- Trong các ngươi có ai không đáp ứng tứ ân, tam hữu không?
Đại chúng không ai trả lời.
- Nếu không theo tôn chỉ này thì không thể giải thoát khỏi thống khổ của sanh tử. Bất luận đi đâu, mọi thời khắc tâm đều không xúc vật, thường không gián đoạn, sẽ được tương ứng. Phải nỗ lực, đừng nhàn nhã qua ngày.
(Động Sơn lục)
Tứ ân là “ân cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân chúng sanh; tam hữu là tam giới: dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Trên báo tứ ân, dưới cứu 3 giới là lý tưởng của con nhà Phật.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 09 Aug 2012, 5:36 PM | Message # 307
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1526. Ngựa Ích Châu ăn cỏ, bò Mục Châu no.

(Thanh tịnh lưu ly)
Theo thường lý, câu nói này vô lý vì Ích Châu và Mục Châu là 2 địa phương khác nhau sao có thể dung hợp làm một?Do vì chúng ta đối với sự tướng có quan niệm đối đãi, cá biệt không thể dung hợp hóa, chỉnh thể hóa mà quán chiếu toàn thể. Do đó mà trước mắt chúng ta l2 chủng chủng chướng ngại. Nhưng đối với người giác ngộ có thể đem thời, không mâu thuẫn chướng ngại điều hòa lại những sai biệt ta người, vật ngã thì thấy thế giới là viên dung, thống nhất.

1527. Không vọng tâm.

Vương cư sĩ là một người giữ gìn giới luật rất nghiêm khắc, lời nói, hành động đều rất thận trọng; ai nấy đều kính ngưỡng. Nhưng về sau có một bạn đồng tu phát hiện có khi chiều xuống là cư sĩ đi đến chỗ yên hoa, liễu ngõ. Chẳng lẽ Vương cư sĩ cũng không thoát khỏi nữ sắc? Mọi người bàn tán sau lưng cư sĩ. Có một người háo sự, lén đi theo cư sĩ để coi hư thực ra sao. Quanh co qua nhiều ngõ hẻm cuối cùng đến một căn nhà Thuý Hoa Viên, nhiều cô nương xinh đẹp thấy Vương cư sĩ đều thỏ thẻ tiếng oanh ân cần chào hỏi, dẫn cư sĩ lên lầu. Bạn đồng tu cũng len lén theo sau, tới nơi ông thấy một cảnh tượng làm kính sợ. nguyên lai bầy cô nương huyên náo cười cợt lúc nãy người người đều ngồi ngay ngắn trước Phật đường trang nghiêm im lặng nghe Vương cư sĩ nói pháp.
(Thanh tịnh lưu ly)
Vương cư sĩ ở trong bùn mà không nhơ, trong lửa đỏ mà trồng sen thanh tịnh, biến dục não thành mát mẻ; trong vọng cảnh mà định lực không dao động. Thật là một vị thiền giả tùy duyên phóng khoáng, nhậm vận tiêu dao.

1528. Vô dư Niết Bàn.

Tôn giả Phạm Chí chứng đắc thần thông, có thể biết túc mạng của mọi người; chẳng hạn chỉ xương cốt của một người nào đó cho ông, ông có thể nói cho biết ngay người đó là ai, chết vào năm, tháng nào. Một hôm, Phật chỉ một bộ xương bảo ông xác nhận. Phạm Chí ngưng thần coi xét rất lâu trên trời, dưới đất, 10 phương 3 thế mà không biết là ai, cũng không biết trú ở đâu. Phật khai thị cho ông:
- Đây là một người đã chứng ngộ Niết Bàn, tinh thần ông đã đến chỗ vô thủy, vô chung, vô nội, vô ngoại, quang minh thế giới; có thể vô sinh, vô tử; khế cơ, khế lý quảng biến 10 phương, quán thông pháp giới. Do đó ông không có cách nào từ hài cốt của ông ta mà nhận ra vì ông ta chính là Đông phương Thế giới, Phổ Hương Sơn, Nam Ưu Đà Diên tỳ khưu.
(Thanh tịnh lưu ly)
Câu chuyện trên cho thấy các vị A La Hán chứng đắc Vô Dư Niết Bàn không thể từ nhục thân sinh diệt mà nhận ra được, vì họ đã nghiệp tận, báo tức không còn bị phàm thân quái ngại nữa.

1529. Xá Lợi Phất.

Xá Lợi Phất khi mới ngộ đạo gập Mục Kiền Liên ở trên đưởng. Mục Kiền Liên hỏi:
- Xá Lợi Phất! có phải ông đã tìm được con đường thoát vòng sinh tử không? Sao tướng mạo ông trang nghiêm như một bông sen vậy?
- Không sai.
Về sau Xá Lợi Phất về quê nhà nhập diệt. Đệ tử ông là Quân Đầu đem hài cốt đến gập Phật khóc lóc thảm thiết. Phật khai thị ông:
- Quân Đầu, sư phụ ngươi nhập Diệt, công đức vô lậu giới định và trí huệ thâm sâu của ông ấy có bị tiêu diệt không?
- Dạ không!
- Nếu tất cả thống khổ đều diệt, tất cả công đức thanh tịnh đều không mất, vậy ngươi còn khóc làm gì?
Quân Đầu nghĩ lại bèn ngưng khóc.
(Thanh tịnh lưu ly.)
Sinh mạng của chúng ta ở thế gian này không quan trọng; quan trọng là ở công đức giới định huệ và bồ đề thiện căn. Hữu dư sinh mạng có tận nhưng vô dư huệ mạng thì thường còn.

1530. Bài thi của Mã Tổ Đạo Nhất.

爲道 莫 還 鄉
Vi đạo mạc hoàn hương
還鄉 道 不 成
Hoàn hương đạo bất thành
溪邊 老 婆 子
Khê biên lão bà tử
喚我 舊 時 名
Hoán ngã cựu thời danh

Mải Đạo quên quê cũ
Về quê Đạo chẳng thành
Bên suối một bà cụ
Gọi tên lúc tuổi xanh.
(Thanh tịnh lưu ly)
Mã Tổ ngộ đạo rồi, trở về cố hương, thân bằng cố lý đều lại thăm. Có một bà cụ sau khi gặp mặt nói:
- Thì ra là thằng nhỏ nhà họ Mã đã trở về.
Bà cụ là hàng xóm, đã thấy Mã Tổ từ nhỏ cho đến khi trưởng thành. Tuy bây giờ đã là một vị thiền sư nhưng dưới mắt bà cụ thì vẫn chỉ là đứa nhỏ nhà họ Mã. Thiền sư nhân đó cảm khái viết bài thi trên. Bài thi khải thị chúng ta không nên chìm đắm trong quá khứ êm đềm, đừng hạn chế tâm thức trong không gian nhỏ hẹp như ếch ngồi đáy giếng, phải mở rộng tầm con mắt. Đại trượng phu chí ở bốn phương, bốn bể đều là huynh đệ tu hành, không chỉ hạn chế ở quê hương.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 09 Aug 2012, 5:38 PM | Message # 308
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1531. Bài kệ của Thần Chiếu Bản Như.

處處 逢 歸 路
Xứ xứ phùng quy lộ
頭頭 達 故 鄉
Đầu đầu đạt cố hương
本來 現 成 事
Bản lai hiện thành sự
何必 待 思 量
Hà tất đãi tư lương.
神照 本 如
Thần Chiếu Bản Như

Đường về khắp mọi chốn
Nơi nơi đều cố hương
Xưa giờ tự hiển hiện
Cần gì đợi tư lương.
(Thiền môn khai ngộ thi)
Tự tánh ở khắp mọi nơi, mọi sự việc đều là tự tánh hiển lộ, không cần phải suy tư để tìm ra nó.

1532. Tâm bất sinh.

Có một người bị bệnh cùi muốn xuất gia, xin Bàn Khuê xuống tóc. Thiền sư đồng ý và tự mình cử hành nghi thức thế độ. Lúc đó, viên quan lại được Lãnh chúa sai đến phụ giúp Bàn Khuê tỏ ý bất mãn sao một vị cao tăng tôn quý lại tiếp xúc với một người bệnh không tinh khiết như vậy. Bàn Khuê bảo ông:
- Ta thấy tâm ông còn bẩn hơn người này!
(Thiền dữ nhân sinh)
Có sự phân biết sạch bẩn, giầu nghèo, sang hèn, v . v . là còn ở trong thế giới hiện tượng của nhị nguyên đối đãi. Nếu có thể trở về cái tâm lúc chưa phân biệt, thì đó là cái tâm chưa bị ô nhiễm. Cái tâm ấy, Bàn Khuê gọi là tâm bất sinh.

1533. Người thợ lò rèn.

Có một người thợ lò rèn vì nuôi dưỡng gia đình, phải gắng sức làm việc mỗi ngày, cảm thấy rất khổ sở. Một hôm có một vị cao tăng đến hóa duyên, ông thuận mồm hỏi vị cao tăng này con đường thoát khổ. Vị cao tăng chỉ cho ông pháp môn niệm Phật: hễ mỗi lần dùng búa nện xuống thanh sắt lại niệm một tiếng Phật, mỗi động tác kéo bễ lại niệm một tiếng Phật. Từ đó người thợ rèn cảm thấy sinh hoạt rất có ý nghĩa, ngày ngày làm việc rất vui vẻ. Vài năm sau tâm ông đã đạt tới tịnh độ pháp giới. Một hôm ông đọc bài kệ:

叮叮 噹 噹
Đinh đinh đang đang
百煉 成 鋼
Bách luyện thành cương
太平 將 至
Thái bình tương chí
我往 西 方
Ngã vãng Tây phương

Đinh đinh! Đang đang!
Luyện mãi thành gang
Bình an sẽ đến
Ta về tây phương.

Nói xong liền mất.
(Thiền ngữ không nhân tâm)
Sự chứng ngộ không phải do suy nghĩ, hoặc dưỡng tĩnh mà là ở trong thực hiện sinh hoạt mà không bị sinh hoạt kháng chế. Đó là tĩnh tâm, là chân không diệu hữu nhập vô sinh pháp nhẫn vậy.

1534. Nguy hiểm.

Đời Đường, một hôm thi sĩ Bạch Cư Dị đến bái phỏng Điểu sào thiền sư, thấy thiền sư trú ở trên cây, bèn nói:
- Chỗ ở của thiền sư rất nguy hiểm.
- Nếu so sánh thì chỗ ở của thái thú còn nguy hiểm hơn.
- Chỗ ở của đệ tử có gì nguy hiểm?
- Tự mình không ngừng khởi tâm động niệm, nơi nơi bị cảnh chuyển, giống như củi để gần lửa, khiến cho mình lo lắng không tự tại, lại không nguy hiểm sao?
(Thiền ngữ không nhân tâm)
Tự tại là chân chính tỉnh giác, chân chính tự do, chân chính từ trong hư ảo mà giải thoát.

1535. Cây bách thành Phật.

Có ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Ý tổ sư từ Tây sang là sao?
- Cây bách trước sân.
Nhiều ông tăng hỏi câu hỏi này nhiều lần, Triệu Châu đều lập lại câu trả lời. Một hôm, một ông tăng hỏi:
- Cây bách có Phật tánh không?
- Có.
- Vậy cây bách lúc nào thành Phật?
- Đợi hư không rơi xuống đất, sẽ thành Phật.
- Hư không lúc nào rơi xuống đất?
- Lúc cây bách thành Phật.
(Thiền ngữ không nhân tâm)
Câu đáp của Triệu Châu “Đợi hư khôngrơi xuống đất sẽ thành Phật” là khẳng định cây bách cũng là khẳng định tự kỷ. Vấn đề này không cần truy vấn thêm vì chỉ tạo tranh luận không khế hợp với Đạo. Dưới con mắt thiền giả một cái cây, một cọng cỏ đều khẳng định sự tồn tại của nó. Thái độ trọng tự nhiên của người xưa thực người ngày nay khó theo kịp. Thiền giả coi chủng chủng hiện tượng của khí thế giới là một loại thần tánh tự mình khẳng định. Tuy chúng là một vật vô tình, nhưng có thể thuyết pháp cho hữu tình nghe; tương đối hỗ tương khẳng định sự tồn tại của nhau. Do đó biểu hiện ra tinh thần đại từ, đại bi không còn khởi tâm phân biệt vô tình và hữu tình.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 09 Aug 2012, 5:58 PM | Message # 309
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1536. Giáo pháp.

Một ông tăng hỏi Pháp Nhãn:
- Thế nào là giáo pháp chân chính?
- Giáo là tâm.
- Tâm con còn phiền muộn làm sao liễu ngộ để giải thoát?
- Gió cuốn mây phiền, thái hư vắng lặng.
- Làm sao triệt ngộ thanh tịnh?
- Một vầng hạo khiết chiếu sáng vạn dậm.
(Thiền ngữ không nhân tâm)
Hãy bỏ xuống tất cả lợi hại, được mất, thân thế, địa vị v . v . thì tâm sẽ được an nhiên tự tại.

1537. Mê.

Triều Đường, thiền sư Vô Nghiệp nói:

迷者 不 了
Mê giả bất liễu
即爲 境 惑
Tức vi cảnh hoặc
一爲 境 惑
Nhất vi cảnh hoặc
流轉 不 窮
Lưu chuyển bất cùng.

Bị cảnh mê hoặc
Người mê không xong
Một khi mê hoặc
Trôi hoài chẳng ngưng.
(Thiền ngộ không nhân tâm)
Một khi đã bị mê thì càng mời gọi nhiều phiền não tới, không bao giờ được yên. Để đối trị chúng ta nên dùng lòng từ bi làm cơ sở tu hành, trên báo tứ ân, dưới độ tam đồ.

1538. Bài thi của Hà Sơn Thủ Thần.

終日 看 天 不 舉 頭
Chung nhật khán thiên bất cử đầu
桃花 爛 漫 始 抬 蛑
Đào hoa lạn mạn thủy đài mâu
饒君 更 有 遮 天 網
Nhiêu quân cánh hữu già thiên võng
秀得 牢 關 即 便 休
Tú đắc lao quan tức tiện hưu.

Cả ngày nhìn trời, đầu chẳng ngửng
Thấy đào tươi thắm,ngó coi chơi
Dù có che trời bằng thiên võng
Rõ được lao quan rồi mới thôi.
(Thiền môn khai ngộ thi)
Lao quan là cửa thứ 3 mà người tu phải vượt qua.

1539. Sơn thần thọ giới.

Đời Đường Tung Nhạc nguyên Khuê là một vị cao tăng, sau kết am cỏ ở phía nam Tung Nhạc. Một hôm có một vị Sơn thần đến xin thọ giới. Thiền sư bảo:
- Ngươi cầu giới, tức đã được giới.
- Nhưng con vẫn muốn thiền sư chính thức truyền giới, thâu con làm đệ tử.
- Được, khi ta truyền ngũ giới cho ngươi, giới nào ngươi giữ được thì nói giữ được.Giới nào không giữ được thì nói không giữ được.
Ngươi có giới dâm được không?
- Con đã có vợ, phải làm sao?
- Không phải ý này, mà là không tà dâm.
- Giữ được.
- Ngươi có thể giữ được giới không trộm cắp không?
- Con là Sơn thần tài vật không thiếu, cần chi phải trộm cắp?
- Không phải ý này, mà là nếu ngươi tốt gập người xấu ngươi cũng có thể tha thứ; nếu ngươi không tốt gập người tốt ngươi cũng có thể làm hại.
- Giữ được.
- Ngươi có thể giữ giới không giết không?
- Con nắm quyền bính xử phạt không thể không giết sao?
- Không phải ý này, mà là không có đức hiếu sinh.
- Giữ được.
- Ngươi có giữ được giới không uống rượu không?
- Giữ được.
Lễ truyền thọ ngũ giới đã hoàn tất.
(Thiền giới không nhân tâm)
Qua công án trên chúng ta thấy giới là để bồi dưỡng Tĩnh. Có thể Tĩnh thì không giả, là vô tâm. Tâm vô tâm là chân tâm. Lúc đó sẽ có óc sáng tạo, tự do, giải thoát.

1540. Một ông tăng lanh lợi.

Đời Đường, Nam Tuyền trú ở am cỏ. Một hôm có một ông tăng đến tham phỏng. Nam Tuyền bảo:
- Ta phải lên núi làm việc, đến bữa ngươi cứ tự nhiên thổi cơm ăn và mang cho ta một phần.
Đến bữa ông tăng thổi cơm ăn, rồi lên giường nằm ngủ một giấc. Nam Tuyền không thấy ông tăng mang cơm tới bèn trở về am. Thấy ông tăng đang ngủ ngáy khò khò; Nam Tuyền cười cười leo lên giường ngả mình bên cạnh ông tăng. Được một lúc, ông tăng tỉnh giấc. nam Tuyền bảo:
- Lúc trước ta có gặp một ông tăng lanh lợi, hoạt bát, cho đến nay chưa gặp lại.
Nói rồi giơ phất tử vẩy vẩy trước mặt ông tăng:
- Ông tăng lanh lợi ấy có giống cái này không?
- Không giống.
- Sao biết? Ngươi gập hắn ở đâu?
- Nếu thầy muốn biết con gặp hắn ở đâu thì hãy bỏ phất tử xuống.
- Ta chứng thực ngươi có cặp mắt trí tuệ.
(Thiền ngữ không tâm nhân)
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy nếu chúng ta không tự tại thì liền mất tự do. Ông tăng trên là một người lanh lợi, không sợ hãi, tự do tự tại nên mới tự nhiên thỉnh thiền sư bỏ phất tử xuống.
(Đây là một thoại khác của công án 241)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 09 Aug 2012, 6:01 PM | Message # 310
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1541. Địa ngục.

Để trả lời câu hỏi của một ông tăng về địa ngục. Triệu Châu bảo:
- Ta không vào, thì ai vào mà cứu ngươi?
(Thiền thú 60)
(Xem công án 71) Triệu Châu là một vị thiền sư rất khôi hài, lưu lại không biết bao nhiêu là chuyện thú vị. Phật có 10 danh hiệu, mỗi danh hiệu biểu hiện một đức tính. Nếu là hiện đại, Phật cũng nên có thêm một danh hiệu nữa là khôi hài đại sư thì mới khế hợp với người hiện đại tự do, tự tại. Dưới con mắt nhà thiền, vạn pháp đều do tâm tạo. Những gì tâm tạo đều là ảo tướng. Người bình thường chấp ảo là thật nên mới cho là có thiên đường, địa ngục thật, vì vậy mới có vấn đề đặt ra câu hỏi:
- Thiền sư là bậc cao tăng sao vào địa ngục được?
Nhưng trong tâm thiền sư ngay khái niệm về địa ngục còn không có thì làm gì có vấn đề vào hay không vào? người chấp có địa ngục sẽ tự sáng tạo ra những cảnh thân bị dìm dưới nước sâu, bị lửa đốt. Vì vậy, Triệu Châu mới khôi hài:
- Ta không vào thì ai vào cứu ngươi?

1542. Tỷ thí.

Triệu Châu sau khi tranh luận với Văn Viễn, thừa nhận:
- Được! Ta thua rồi, mang bánh trái ra đây .
(Thiền thú 60)
Văn Viễn là thị giả của Triệu Châu. Triệu Châu rất thích đùa cợt với ông. Có một lần Triệu Châu đi nhà cầu, thấy Văn Viễn đi ngang bèn gọi:
- Văn Viễn!
- Dạ.
Văn Viễn định chạy lại, Triệu Châu bảo:
- Không thể thuyết pháp cho ngươi ở nhà cầu.
Khiến Văn Viễn cười suýt bể bụng.
Trong công án này (xem công án 1074) khi Triệu Châu nói:
- Ta là con lừa!
Và Văn Viễn nói:
- Con là con nhặng!
Hai người không phải chỉ nói khơi khơi mà thực sự họ đã chứng ngộ vật ngã là một, chủ khách đồng thời dung hợp vô ngã không tính. Cuối cùng, Triệu Châu phục Văn Viễn đã khéo nghĩ “Con ở trong đó độ hạ” bèn nhận là mình thua. Thực ra thắng hay thua có gì phân biệt? Cổ nhân nói thắng cũng vui, thua cũng thích. Vì vậy người thua được ăn bánh. Người thường coi phân là bẩn, là thối; nhưng đối với con nhặng không có những quan niệm về sạch bẩn, thơm thối thì đó là kho lương thực, là nơi tiêu dao khoái lạc.

1543. Ngươi rất khỏe.

Mã Tổ bảo ông tăng đến tham Thạch Đầu:
- Ngươi rất khỏe có thể vác một đống củi từ Nam Nhạc về Đây.
(Thiền thú 60)
(Xem công án 888) Ông tăng trên đường đi, tâm không bỏđống củi xuống được nên Mã Tổ mới cười ông là rất khỏe. Trong công án trên khi Thạch đầu bảo:
- Mã đại sư có giống đống củi này không?
Là ám chỉ pháp thân bình đẳng, tạo cơ hội cho ông tăng bầy tỏ kiến địa của mình. Rất tiếc ông tăng tâm như đống củi đã hạnh phụ tâm ý của Thạch Đầu.

1544. Giết trâu.

Buổi tiểu tham đêm Trừ tịch, Bắc Thiền bảo đại chúng:
- Năm cùng, tháng tận chẳng có gì cho các ngươi lão tăng thổi cơm nấu canh, thịt một con trâu trắng; đốt củi sưởi ấm; đại chúng cùng ăn, cùng hát dân ca.
Nói rồi xuống tòa giảng, đi về phòng phương trượng.
Tới khuya, Duy Na vào phòng phương trượng thưa:
Lính huyện đến bắt hòa thượng. –Tại sao?
- Hòa thượng giết trâu mà không nộp thuế.
Thiền sư ném mũ xuống đất, nhẩy xuống thiền sàng, ôm chặt Duy Na la lớn:
- Có trộm, có trộm.
Duy Na nhặt mũ đội lại lên đầu thiền sư:
Trời lạnh, trả lại hòa thượng.
Thiền sư ha hả cười lớn. Duy Na đi ra.
(Thiền thú 60)
Thiền giả giống như con nít chơi trò diễn kịch. Bắc Thiền có lòng từ bi muốn mọi người cùng ăn thịt trâu trắng. Đáng tiếc thịt trâu trắng chỉ có thể tự ăn. Phật tánh phải tự kiến, tự ngộ. Sư phụ có lòng đem ngộ kiến tặng đồ đệ cũng không thể làm được. Vì trâu trắng chỉ có thể tự giết, tự nấu, tự ăn nên Duy Na chạy đến phòng phương trượng vấn tội nói lính huyện đến bắt vì tự giết trâu mà không nộp thuế. Hai người náo loạn một lúc rồi sao? độc giả hãy tự thể hội?

1545. Ăn xong, uống trà.

Có người hỏi Thể Ẩn:
- 12 giờ một ngày làm sao tu?
- Mặc áo, ăn cơm.
- Còn việc nào khác không?
- Có.
- Là việc gì?
- Ăn xong, xin một chén trà.
(Thiền thú 60)
Tu hành là mặc áo, ăn cơm; lại nữa đừng quên ăn xong uống một chén trà. Đó là “Tâm bình thường là Đạo” của thiền tông Trung Hoa. Đây là giai đoạn đã ngộ. nếu ngay từ đầu đã nói mặc áo, ăn cơm là đạo thì là dối người. người ngộ đạo thưởng trăng, ngắm hoa, du sơn ngoạn thủy . . . đều là đạo. Đối với người chưa ngộ thì tụng kinh, lễ Phật, tọa thiền, trì giới . . . mới là Đạo. 2 hạng người trên như trâu và ngựa chẳng hợp.
Có một người tiều phu mang một ít dưa lên núi kiếm củi. Ông mang dưa ra ăn. Cắn một miếng thấy không ngọt bèn vứt ngay xuống đất. Lại thử quả thứ hai, thứ 3 . . . đều không vừa ý, vứt cả xuống đất. ông than:
- Chẳng có quả nào ăn được!
Ông bắt đầu đốn củi. một lúc sau mồ hôi ra ướt cả lưng, khát không thể nhịn được, lại không có nước uống đành nhặt một quả dưa đã vứt xuống đất lên ăn tạm .
- Cũng không đến nỗi!
Chiều tới, khi tiều phu xuống núi, những quả dưa vứt trên đất đã chui hết vào bụng.
Tu hành cũng vậy từ “Không có quả nào ăn được” tiến hóa đến “quả này cũng không đến nỗi” . . . “đại khái cũng được “ . . .


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 09 Aug 2012, 6:04 PM | Message # 311
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1546. Phật pháp.

Thị giả Hội Thông một hôm muốn từ biệt ra đi. Điểu Sào thiền sư hỏi:
- Ngươi định đi đâu?
- Hội Thông này vì pháp xuất gia, chẳng được hòa thượng từ huấn, nay đi khắp nơi để học hỏi Phật pháp.
- Nếu là Phật pháp thì ở đây ta cũng có chút ít.
- Phật pháp của hòa thượng là gì?
Thiền sư rút một sợi tơ từ trong áo ra thổi phù. Hội Thông tức khắc lãnh ngộ huyền chỉ.
(Thiền thú 60)
Công án này là một thoại khác của công án 89 . Phật pháp được coi là chân lý tối cao, là tâm pháp giải thoát. Điểu Sào thiền sư chưa hề đối mặt Hội Thông nói qua. Hội Thông là một người có đạo tâm, vì Điểu Sào thiền sư không bảo cho ông nên ông chỉ còn cách đi nơi khác tìm minh sư. Không ngờ khi Hội Thông đã tuyệt vọng lại nghe Điểu sào thiền sư nói: “Nơi đây ta cũng có chút Phật pháp” khiến ông lại hy vọng lại còn háo kỳ: tại sao thiền sư lại bảo có một chút Phật pháp? Do vậy Hội Thông để hết tinh thần quán chú. Ai ngờ Điểu Sào thiền sư không nói gì chỉ rút một sợi tơ từ trong áo giơ lên thổi phù một cái. Tiếng thổi tuy nhỏ nhưng đối với Hội Thông thì như tiếng sấm đập vào tâm ông: nguyên lai, Phật pháp không xa, ở ngay cạnh mình, nơi nơi đều có. Cổ nhân nói: “Đại đạo ở ngay trước mắt”. Điểu Sào thiền sư từ trước vốn không nói Phật pháp nhưng trong sinh hoạt mỗi cảnh, mỗi vật, mỗi lời, mỗi hành động không gì không là chỉ bầy Phật pháp.

1547. Đừng kêu loạn.

Vân Môn đến tham phỏng Sơ Sơn Nhân. Nhân hỏi:
- Ở chỗ đắc lực, hãy nói một câu.
- Nói to lên.
Nhân lớn tiếng hỏi lại:
- Hôm nay đã ăn cháo chưa?
- Ăn rồi.
- Đã ăn rồi còn kêu loạn lên làm gì?
(Thiền thú 60)
Vân Môn Văn Yển là sáng tổ của dòng thiền vân Môn, là một thiền sư có khẩu tài. Trong công án này Sơ Sơn muốn Vân Môn nói ra ngộ kiến của mình. Nếu Vân Môn mở cái hộp nói của mình ra thì nói 3 ngày đêm cũng chưa hết ý. Nhưng ông dùng một phương pháp cao minh hơn không đáp mà đáp. Hỏi ngộ kiến của người khác thì cũng giống như lớn tiếng kêu loạn. Để trả lời Sơ Sơn có nhiều cách:
1.- Trả lời thẳng vào câu hỏi như: các pháp đều không.
2.- Dùng thể ngữ trả lời: như giơ một ngón tay lên, hay vẽ một vòng tròn.
3.- Dùng 1 câu vô ý thức để diễn tả, không thể dùng lời nói như 3 cân gai, cây bách trước sân . . .

1548. Sư tử gỗ cắn người.

Vân Môn đút tay vào miệng sư tử gỗ, kêu lên:
- Cắn chết ta! Cứu mạng!
(Thiền thú 60)
Công án này tình tiết rất ngắn nhưng đầy kịch tính. Con sư tử bằng gỗ này là toàn thể vũ trụ cụ thể hiển hiện, là tam thế, thập phương chư Phật, là vô tận trí tuệ, vô tận chân lý. Con sư tử gỗ của Vân Môn dũng mãnh vô tỷ cắn chết người thiên hạ; cũng như Vân Môn bị nó cắn một miếng, một đời dùng hoài không hết, trước khi chết còn không nhịn được cười: “Cắn tốt lắm!”

1549. Mời uống trà.

Để trả lời ông tăng mới đến, ông tăng đã đến và Viện chủ Triệu Châu đều bảo:
- Mời uống trà.
(Thiền thú 60)
Xem chi tiết công án 1000. Trà có công dụng làm tỉnh người. uống trà là một chuyện bình thường, nhưng từ miệng Triệu Châu nói ra nó có một hàm ý: uống trà là trở về thân cận và không xa lìa bản lai diện mục; đó mới là chân chính làm tỉnh người. Đương nhiên các học tăng khi gặp Triệu Châu vị tất đã hiểu ý này. Cũng chẳng sao vì Triệu Châu đợi xem phản ứng của họ để biết trình độ của họ. Trong công án này, 2 ông tăng trên là 2 ông phàm tăng không nghi và cũng không khởi nghi tình, theo lời thiền sư giăm giắp đi uống trà. Đó là những người thật thà thiền sư không nỡ đùa tiếp. Đến viện chủ thì đặc biệt hơn, ông hé thấy mật ý của Triệu Châu liền khởi nghi tình nên mới đặt câu hỏi. Triệu Châu thấy ông có tư cách để đùa bèn lên tiếng gọi:
- Viện chủ!
- Dạ!
Viện chủ ứng tiếng dạ, rõ ràng là chỉ cho viện chủ Phật tánh ở nơi này, cái ông hỏi chính là cái này. Về sau Triệu Châu lại nói :
- Mời uống trà.
Đó là thiền sư khôi hài,tin chắc 2 người sẽ nhìn nhau mà cười lớn. Thực ra, Triệu Châu mời các ông tăng uống trà là tỏ lòng khiêm nhượng, thân thiết; vì chỉ cần nhìn ánh mắt, cử chỉ, khí độ, không cần đến lời nói, thiền sư đã có thể biết công phu thâm, thiển của họ rồi.

1550. Văn Thù cưỡi sư tử.

Có ông tăng đến tham Tỳ khưu ni Liễu Nhiên. Liễu Nhiên hỏi:
- Sao ngươi mặc áo rách vậy?
- Tuy vậy, nhưng là sư tử con.
- Là sư tử con sao bị Văn Thù cưỡi?
Ông tăng không trả lời được.
(Thiền thú 60)
Đây là một cuộc pháp chiến dùng cơ phong chuyển ngữ. Đương trường thiền sư tìm một lối ra; Đối phương dùng câu nói ấy mà chuyển ra ý nghĩa từ thủ trở thành công, trong công có thủ. Mục đích là hỗ tương ấn chứng kiến địa, đo lường hư thực. Một vị thiền sư giỏi không những có kiến địa tồt mà còn phải có năng lực, do được huấn luyện về cơ phong chuyển ngữ có thể lên võ đài. Cơ phong chuyển ngữ có khi thấy là vô nghĩa, phản nghĩa, có khi là tỷ dụ, hư hư thực thực, linh hoạt vô cùng. Trọng yếu là người nói và người đáp không chấp vào văn tự. Trong công án này, Liễu Nhiên dùng một câu hỏi, nhường đối phương đáp. Ông tăng trả lời rất hay. Sư tử tượng trưng cho trí tuệ quang minh vô lượng của Phất tánh không bị bề ngoài rách rưới ảnh hưởng. Liễu Nhiên đưa ra chuyển ngữ công kích bản lai Phật tánh dũng mãnh sao bị người cưỡi? ông tăng không đáp được. Chúng ta hãy thử đáp thay cho ông:
1.- Không phải đâu! là sư tử cưỡi Văn Thù.
Đó là đảo ngược chủ khách phá ngữ pháp của Liễu nguyên và hiển lộ Phật tánh.
Hoặc có thể chuyển ngữ pháp của Liễu Nhiên:
- Sư tử lớn cưỡi sư tử con thì có gì là lạ!
Đó là đem Văn Thù chuyển thành Phật tánh.
Hoặc:
- Sư tử của bà chạy đi đâu rồi?
Đó là chuyển ngữ thủ thành công.
Đây là do chúng ta suy nghĩ về sau. Còn đương trường câu trả lời phải như lửa xẹt, không có thì giờ suy nghĩ thì bại là cái chắc.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Năm, 09 Aug 2012, 6:06 PM | Message # 312
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1551. Làm sao thành Phật?

Một ông tăng hỏi huệ Trung:
- Làm sao để thành Phật?
- Bỏ cả Phật và chúng sanh xuống thì lập tức giải thoát.
- Bỏ cả xuống thì làm sao tương ứng với Phật?
- Không có thành kiến thiện, ác tự nhiên có thể thấy Phật tánh.
- Thấy Phật tánh rồi làm sao chứng được Phật thân?
- Ngươi phải vào cảnh vực Tỳ Lô Giá Na.
- Làm sao tới được thanh tịnh Pháp thân?
- Không cầu thành Phật.
- Cứ như thầy nói thì Phật là gì?
- Tâm là Phật.
- Tâm có phiền não, làm sao thành Phật?
- Để phiền não tự nhiên đi.
- Cứ như thầy nói, chẳng là đoạn diệt thì là vô ký không sao?
- Nếu dùng đoạn diệt trừ phiền não thì là nhị thừa, để phiền não không sanh mới là đại Niết Bàn.
(Thiền ngộ không nhân tâm)
Qua đoạn đối thoại trên chúng ta thấy không là bỏ xuống thành kiến, chấp trước, tham dục, chỉ trích của người khác về mình, oán hận, bất mãn khiến tâm linh chân chính phát xuất tự do, trí huệ. Đó là giác, là thiền, là con đường thành Phật.

1552. Tránh nóng.

Tào Sơn bảo ông tăng đứng cạnh:
- Người ngộ đạo dù trời nóng đến đâu cũng không bị ảnh hưởng.
- Dạ phải.
- Nay nếu trời rất nóng, ngươi đi đâu để tránh?
- Vào trong vạc nước sôi trong lò để tránh.
- Như vậy làm sao tránh?
- Chúng khổ không thể tới đó.
Tào Sơn im lặng không nói nữa.
(Thiền thú 60)
Trong công án này nóng chỉ thống khổ, phiền não của người đời. Thống khổ và phiền não không thể tránh được. Phải vào thẳng trung tâm của nó để thấy rõ nó là sản phẩm do tâm tạo. Vạn pháp do tâm tạo, hiểu được đạo lý này thì nóng trở thành mát chỉ trong một niệm. người thể ngộ được điều này thì chúng khổ không thể tới được. Tào Sơn im lặng vì ông tăng nói đúng, không có chỗ nào sơ hở để đả kích. Tuy vậy, đây là kiến giải do ông tự chứng nghiệm hay chỉ là nói mồm; phải chờ quan sát rồi mới biết.

1553. Đơn Hà đốt tượng.

Ở Huệ Lâm Tự, trời lạnh, Đơn Hà đem tượng Phật bằng gỗ ra đốt. đại chúng vặn hỏi, ông nói:
- Ta đốt để tìm xá lợi.
Tượng gỗ làm gì có xá lợi?
- Vậy, sao còn trách ta.
(Thiền thú 60)
Người thường lễ Phật để sám hối hay cầu xin. Nhà thiền không chú trọng đến việc lễ Phật mà nỗ lực tìm Phật tánh ở nội tâm. Vậy thiền giả không lễ Phật sao? Không phải vậy, đối với người đã thấy Phật tánh, nơi nơi đều thấy Phật, lễ tượng Phật nào có trở ngại gì. Nếu có lễ thì cũng là lễ với tâm không chấp, không cầu. Chỉ Đơn Hà mới có gan đem tượng Phật ra đốt. Chúng ta không thể bắt chước Đơn Hà nếu không cũng như chó con thấy sư tử nhẩy cũng nhẩy nếu không chôn thây mất mạng thì cũng trầy da tróc vẩy. Cũng đừng học theo Nam Tuyền chém mèo, hễ gập mèo đâu là giết đó. (Xem thêm công án 50)

1554. Dưới núi có hổ.

- Dưới núi Đại Hùng có một con hổ, các ngươi phải cẩn thận, lão tăng hôm nay đã bị nó cắn một miếng đấy.
(Thiền thú 60)
Xem chi tiết công án 1012. Con hổ ở đây chỉ phiền não, vọng niệm, thành kiến. Con hổ ăn thịt người; phiền não, vọng niệm, thành kiến cũng có thể giết người. Hoàng Bá giả tiếng hổ gầm là nói con là hổ, là phiền não. Bách Trượng giả bộ giơ búa lên chém là bảo sao không chặt đứt phiền não đi? Hoàng Bá biết thầy thử mình bèn thoi lại một quả, ý nói sư phụ làm vậy sao được vì phiền não cũng là tự tánh hiển lộ. Bách trượng nhận được cú đấm rất vui và khen ngợi Hoàng Bá.

1555. Lâm Tế ngủ.

Lâm Tế đang ngủ ở Tăng đường, Hoàng Bá vào trông thấy, lấy gậy gõ vào giường. Lâm Tế mở mắt ra thấy Hoàng Bá liền nhắm mắt lại ngủ. Hoàng Bá lại lấy gậy gõ vào giường một cái rồi sang phòng bên, thấy thủ tọa đang ngồi thiền, bèn nói:
- Ở gian trước gã tiểu tử đang ngồi thiền, còn ngươi ngồi đây vọng tưởng cái gì?
- Ông già này làm gì vậy?
Hoàng Bá lấy gậy gõ vào giường một cái rồi ra.
(Thiền thú 60)
Lâm Tế ngủ thì Hoàng Bá lại nói là đang thiền, thủ tọa thiền thì Hoàng Bá lại nói là đang vọng tưởng; thế có phải là điên đảo không? Câu trả lời là không. Thường thì người ta cho ngủ là trạng thái vô tri, vô giác, có thể tạo mộng. Còn thiền là tâm từ phù trầm tới tỉnh thức nhất tâm, nhất cảnh cho tới định vô tâm, vô niệm.
Lâm Tế là người đã đại ngộ, tỉnh và mộng là một. Tỉnh thì dĩ nhiên là tốt, nhưng hôn trầm cũng không sao. Người đại ngộ không thích tỉnh cũng không ghét hôn trầm; dù tỉnh hay mộng người đó đều có một loại thần chí thanh tỉnh gọi là Đạo Cộng Định xuyên suốt tỉnh mộng, khiến lúc nào cũng làm chủ được mình. Do đó khi Lâm Tế bị Hoàng Bá gọi tỉnh, lại nhắm mắt ngủ lại. Còn Thủ tọa ở đây có lẽ là Mục Châu Trần Tôn Túc, một cao đồ của Hoàng Bá. Hoàng Bá nói Lâm Tế đang tọa thiền sao ngươi lại ngồi đây vọng tưởng? là lừa dối Trần Tôn Túc. Cứ cho là Trần Tôn Túc ngồi thiền để trừ vọng tưởng đi. Vọng tưởng, niệm đầu cũng là Phật tánh phù trầm du hý, không có gì là không tốt. Câu nói của Hoàng bá là một ngữ bệnh, do đó Trần Tôn Túc nói thẳng:
- Ông già này nói bậy gì đó?
Hoàng Bá không chiếm được tiện nghi chỉ còn cách gõ vào giường tỏ ý chấp nhận rồi ra.
Xem lại công án 552, lời bình của 2 tác giả khác hẳn nhau.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 11 Aug 2012, 7:34 PM | Message # 313
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1556. Viên Chân bảo Châu.

Thế Tôn giơ một viên bảo châu cho 5 vị thiên vương xem và hỏi có mầu gì? Năm vị thiên vương mỗi người nói một mầu khác nhau. Sau đó Thế Tôn cất viên bảo châu đi, xoè bàn tay không ra hỏi mầu gì? 5 vị thiên vương thưa:
- Trong tay Thế Tôn không có châu thì sao nói có mầu gì được?
- Sao các ngươi mê muội thế! Khi ta giơ viên bảo châu ra thì các ngươi nói xanh, vàng, đen, đỏ, trắng. Khi ta giơ viên chân bảo châu ra thì các ngươi lại không biết.
5 vị thiên vương hoảng nhiên đại ngộ.
(Thiền thú 60)
Nhìn viên bảo châu, mỗi thiên vương nói ra một mầu là tỷ dụ cho mọi người đều có cái nhìn khác nhau đối với một sự vật, chỉ thấy một cách hạn hẹp, cho đó là chân lý. Nói theo Thiền môn thì là mỗi người ở chỗ thể nghiệm của mình chỉ thấy một phần của Đạo, nhưng nghĩ là mình thấy được toàn phần, là cứu cánh rồi, còn những người khác là không đúng. Do đó mà sinh ra nhiều Tông, Phái. Khi Thế Tôn giơ bàn tay không ra nói là viên Chân bảo châu là chỉ Phật tánh ai ai cũng có, nó vô hình, vô tướng, gán cho nó một danh từ là chấp tướng, càng lìa xa nó.
Xem thêm công án 1017.

1557. Không thiếu gì.

Thanh Nguyên Hành Tư hỏi Hy Thiên:
- Ngươi từ đâu tới?
- Tào Khê.
- Đem gì tới?
- Không đến Tào Khê cũng chẳng thiếu gì.
- Vậy đến Tào Khê làm gì?
- Nếu không đến thì làm sao biết không thiếu gì?
Hy Thiên hỏi lại Hành Tư:
- Tào Khê đại sư có nhận biết hòa thượng không?
- Nay ngươi có nhận biết ta không?
- Làm sao dùng nhận thức mà biết hòa thượng được?
- Trong đám vô số sừng, chỉ cần một con kỳ lân là đủ.
(Thiền thú 60)
Khi Lục tổ sắp viên tịch, Hy thiên mới 13 tuổi. Hy Thiên hỏi tổ:
- Hòa thượng qua đời rồi con biết nương tựa vào ai?
- Tầm tư.
Kết quả là sau khi Lục tổ mất, Hy Thiên thường tìm nơi vắng vẻ tọa thiền suy tư. Về sau có người hỏi:
- Ngươi ngốc tọa ở đây để làm gì?
- Khi Hòa thượng lâm chung có bảo tôi tầm tư.
- ngươi hiểu lầm rồi, tổ bảo ngươi đi tìm sư huynh Hành Tư đó!
Do đó Hy Thiên mới đến tìm Hành Tư.
Khi Hành Tư hỏi:
- Mang gì đến?
Hy Thiên hiểu là hỏi về tự tánh nên đáp:
- Chưa đến Tào Khê cũng chẳng thiếu gì?
Biểu thị tự tánh vốn tự đầy đủ, vốn chưa mất bao giờ, không cần mang tới vì nó ở khắp càn khôn, vũ trụ.
- Nếu đã vậy, sao còn phải tới Tào Khê?
- Nếu không đến thì làm sao biết không thiếu gì?
Tuy tự tánh vốn tự đầy đủ nhưng người phàm tục bị vọng tưởng chấp trước che mất nên cần có minh sư chỉ cho biết sự tồn tại của nó.
Xem thêm công án 1060.

1558. Ngón tay thần kỳ.

Có ông tăng hướng ngũ Phong Thường Quán từ biệt. Thường Quán hỏi:
- Ngươi định đi đâu?
- Ngũ Đài Sơn.
Thường Quán giơ một ngón tay lên bảo:
- Nếu ngươi gập văn Thù thì tới đầu ngón tay này gặp ta.
Ông tăng không biết đáp làm sao.
Lại một ông tăng khác đến từ biệt. Thường Quán bảo:
- Ngươi đến đạo tràng khác đừng hủy báng lão tăng, nói lão tăng ở đây.
- Con không nói Hòa thượng ở đây.
- Ngươi nói ta ở đâu?
Ông tăng giơ một ngón tay lên.
- Ngươi trả lời như vậy là sớm đã hủy báng lão tăng rồi.
(Thiền thú 60)
Thường Quán giơ một ngón tay lên là chỉ Phật tánh. Phật tánh ở khắp mọi nơi kể cả đầu ngón tay của Thường Quán. Do đó bất kể ông tăng thấy văn Thù ở đâu cũng không lìa đầu ngón tay này. Ông tăng có thể trả lời:
- Văn Thù ở trên đầu ngón tay này nhìn con mỉm cười.
Thấy Văn Thù là kiến Phật tánh. Nếu ông tăng giác ngộ thì đầu ngón tay có ngũ Đài Sơn, có Văn Thù giơ ngón tay lên . . .
Ông tăng thứ nhì có truyện trước làm gương, biết ngón tay diệu dụng vô cùng, vì vậy khi Thường Quán hỏi:
- Ngươi nói ta ở đâu?
Bèn giơ ngón tay lên.
Đáng tiếc, ngón tay Thường Quán giơ lên là đúng, nhưng ông tăng giơ lên lại là họa hổ thành khuyển. Thiền thể ngộ phải từ tâm ra chứ không phải bắt chước từ bên ngoài. Ông tăng thứ hai mặc dầu rất mẫn tiệp nhưng cũng không thoát khỏi tội danh hủy báng. Thế nào là hủy báng? Đó là trên sự thật lại để thêm hư giả, chấp vào khái niệm làm ô nhiễm bản lai diện mục. Đó là hủy báng, Hủy báng lớn nhất của con người là chấp ngã. Từ chấp ngã mà trôi lăn vào hố cát lún rất khó tự thoát ra được.

1559. Hạt châu huyền huyền.

Có ông tăng hỏi Phổ Thông Phổ Minh:
- Phật tánh là thế nào?
- Không cần hỏi, ngươi không có Phật tánh.
- Mọi sinh vật, ngay cả côn trùng cũng có, sao con lại không có?
- Vì ngươi chỉ tìm bên ngoài.
- Hạt châu huyền huyền là sao?
- Hạt châu huyền huyền của ngươi đã mất rồi.
(Thiền thú 60)
Hạt châu huyền huyền là chỉ Phật tánh. Khi một người chấp trước tưởng từ danh cú tìm ra tung tích của Phật tánh thì không thể thấy được. Vì vậy Phổ Minh bảo ông tăng đừng hỏi, nhưng ông tăng không nghe cứ hỏi tiếp. Vì vậy, Phổ Minh mới bảo thẳng ông:
- Hạt châu huyền huyền của ngươi đã mất rồi.
Ông tăng nhận rằng xuẩn động hàm linh đều có Phật tánh, đó là kiến thức đọc từ kinh điển mà ra chứ không phải tự chứng ngộ. ngay Phật tánh của mình còn chưa chứng ngộ mà nói xuẩn động hàm linh đều có Phật tánh chẳng là hoang đường sao?

1560. Trâu tốt không cần người chăn.

Động Sơn tuần thị ngoài đồng gặp thượng tọa Lương đang dắt trâu. Động Sơn bảo:
- Phải để ý con trâu này, đừng để nó ăn lúa ruộng.
- Nếu là trâu tốt thì không ăn vụng lúa.
(Thiền thú 60)
Các thiền sư Trung Quốc phần lớn tham gia lao động, thậm chí tự mình cầy cấy. người hiện tại, nhiều người bị bệnh tật như mắt hoa, đầu váng, mệt mỏi, mất ngủ, lo lắng, v . v . Nếu có thể cải biến sinh hoạt tham gia tác vụ chắc chắn không còn những bệnh trên. Chăn trâu là công việc bình thường của nhà nông, nhưng dưới con mắt của nhà Thiền thì đâu đâu cũng là thiền.
- Coi chừng trâu đừng để nó ăn vụng lúa.
Là chỉ phải coi sóc tâm, đừng để tâm viên ý mã, tác quái. Câu trả lời của thượng tọa Lương rất khí phách, rất có chất lượng. Một người đã thấy Phật tánh, đã thưởng qua thiền vị thì sẽ không bao giờ quên được. giả sử ngẫu nhĩ mê chạy theo vật, nhưng một khi phát hiện liền hồi quang phản chiếu cùng Phật tánh đánh thành một phiến. Công phu càng sâu thì ngay niệm đầu ăn cỏ còn không sinh thì hà tất phải lo.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 11 Aug 2012, 7:38 PM | Message # 314
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1561. Tùy chứng cho thuốc.

Văn Thù bảo Thiện Tài Đồng Tử:
- Hái bất cứ cái gì là thuốc đưa ra đây.
Thiện Tài Đồng Tữ hái một nhánh cỏ đưa ra, Văn Thù giơ lên bảo đại chúng:
- Cái này có thể giết người, cũng có thể cứu người.
(Thiền thú 60)
Thuốc dùng để trị bệnh, bệnh nào phải dùng thuốc nấy. Đối với bệnh nhân thì thuốc có tác dụng chữa bệnh, nhưng khi đã lành rồi nếu còn dùng nữa thì thuốc sẽ trở thành chất độc. Trong đời thường danh tiếng, tiền tài, quyền lực có thể cứu người nhưng cũng có thể giết người. Phật pháp cũng vậy nếu khéo xử dụng thì có thể giúp chúng sanh lìa khổ, được vui; nếu không biết xử dụng thì Phật dược sẽ trở thành Phật độc
Xem thêm công án 112.

1562. Quốc sư bao nhiêu tuổi?

Quốc sư Huệ Trung họ Vệ, người Chi Giang, Kinh Châu, đắc pháp nơi ngũ Tổ Hoàng Mai. Tùy Dạng Đế, Đường Cao Tông đều hạ chiếu vời sư, nhưng sư không tới. Đến thời Võ hậu dùng sư lễ thỉnh, sư mới về kinh. Một hôm, Võ hậu thưa:
- Thiền sư bao nhiêu tuổi?
- Không nhớ.
- Tại sao lại không nhớ?
- Cái thân sanh tử tuần hoàn này chẳng biết khởi từ đâu, tận lúc nào, nhớ làm gì? Huống chi tâm này trôi hoài liên tục không gián cách, thấy vọng tưởng khởi diệt như bọt nước có đó rồi mất đó. Từ thức ban đầu đến động diệt tướng đều như vậy, biết năm tháng nào mà nhớ.
(Thiền tông đích lịch sử dữ văn hóa)
Võ hậu nghe rồi, cúi đầu tin nhận.

1563. Con tên Huệ Nhiên.

Ngưỡng Sơn Huệ Tịch hỏi Tam Thánh Huệ Nhiên:
- Ngươi tên chi?
- Huệ Tịch.
- Huệ Tịch là tên lão nạp.
- Vậy sao, con tên Huệ Nhiên.
Ngưỡng Sơn ha hả cười lớn.
(Thiền thú 60)
Đối với thiền giả đã chứng ngộ, tâm không còn vấn đề nào tồn tại. Chú ý, khai ngộ không phải là kiếm được tất cả mọi đáp án, mà là tất cả mọi vấn đề đều biến mất không còn hình bóng.
- Ngươi tên chi?
Xin lỗi, đây không phải là vấn đề, nhưng thầy đã hỏi con tùy tiện mà đáp:
- Con tên Huệ Tịch.
Cái gì? ngươi nói Huệ Tịch là tên ngươi, vậy ngươi bảo ta đã đoạt tên ngươi sao? Nếu vậy ta không lấy nữa, nhường tên này cho ngươi.
- Vậy sao, con tên Huệ Nhiên.
Đã vậy, con tên Huệ Nhiên, nhiều người cũng gọi con vậy. Dù thầy có gọi con là chó con, mèo con, rùa đen, heo mập con cũng không phản đối. Thực ra, thầy gọi con là gì đối với con vô quan, ngay chính con cũng còn chưa tìm thấy con, còn ngại gì thầy đặt tên.
Xem thêm công án 51.

1564. Trộm quả.

Có ông tăng mới đến tham học, vừa lễ xong Trần Tôn Túc hét lên:
- Xà lê, sao ngươi lại ăn trộm quả của thường trú.
- Con vừa tới, sao hòa thượng lại bảo con ăn trộm quả?
- Lại còn nói, tang vật rành rành.
(Thiền thú 60)
Rõ ràng là ông tăng không ăn trộm quả, nhưng Trần Tôn Túc gán một chuyện không có lên mình ông tăng là có thâm ý. Người thế gian coi mọi sự việc hư ảo: danh lợi, khoái lạc, thống khổ, v . v. là có thật. Xin hỏi tự biết mình không ăn trộm vì sao phải phân biện?
Thứ nhất là ông chấp ngã. Ngã bị ngộ nhận phải giải thích.
Thứ hai: ông thấy bị ngộ nhận là không tốt, không vui, ngã không thích cảm giác này.
Thứ ba: ông cho sự chỉ trích của trần Tôn Túc là thật nếu ông không giải thích thì bị mang danh ăn trộm.
Chỉ một câu nói, Trần Tôn Túc đã làm ông tăng lộ nguyên hình. Đợi ông nói xong, Trần Tôn Túc bảo: Tang vật rành rành, ý nói ngươi chưa giác ngộ, không đánh mà khai. Chắc ông tăng sau lần tham học này sẽ khắc cốt ghi tâm cảnh giác tự ngã. Sẽ có một ngày ông thấy rõ, lúc đó ông sẽ lớn tiếng:
- Đúng rồi, con là trộm, trộm quả để ăn.
Xem thêm công án 636.

1565. Bí mật nơi ngươi.

Minh thượng tọa sau khi được Lục tổ khai thị, mồ hôi ra cùng mình, khóc lạy thưa rằng:
- Ngoài thiền môn tâm pháp này còn mật ý gì nữa không?
- Hôm nay ta nói cho ông thì chẳng phải là mật, ông tự phản chiếu tự tâm thì mật ở nơi ông.
(Thiền thú 60)
Đạo Minh lúc khai ngộ, toàn thân xuất mồ hôi. Đó là một sự kiện đáng lưu ý. Thân và tâm có quan hệ mật thiết, một thể lưỡng diện. Tâm khai ngộ là một sự kiện kinh thiên động địa, thân không thể không phản ứng. Nếu một người nói mình đã khai ngộ mà thân không có chút phản ứng thì đó chỉ là ý thức lướt qua, chưa hẳn là hoàn toàn khai ngộ, cần tinh tiến thêm. Như lời Lục tổ nói hãy tự phản quán tự tâm, tất cả ảo bí đều ở trong đó.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 11 Aug 2012, 7:40 PM | Message # 315
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1566. Đường Thạch Đầu trơn.

Đặng Ẩn Phong đến tham Thạch Đầu 2 lần. Đến nơi, hỏi tông chỉ của Thạch Đầu là gì? Lần thứ nhất Thạch đầu ngẩng đầu nhìn trời than:
- Trời xanh!
Lần thứ hai, Thạch Đầu hứ 2 tiếng.
Ẩn Phong không đáp được về trình Mã Tổ, Mã Tổ bảo:
- Ta đã chẳng bảo ngươi đường Thạch đầu trơn lắm sao?
(Thiền thú 60)
Trời xanh dụ cho hư không, chỉ tự tánh. Có một khoảng thời gian thiền gia ưa dùng từ giả tá này. Thạch Đầu dùng từ này lần đầu rất hoàn mỹ, nhưng nếu dùng lại lần thứ hai thì sẽ là chấp tướng. Do đó lần thứ hai Thạch Đầu không dùng mà chỉ hứ hai tiếng. Tiếng hứ vô nghĩa nhưng đồng âm với Hư nên cũng chỉ tự tánh.
Ẩn Phong sau hai lần thất bại này, trở về cố gắng tu tập, sau trở thành một vị thiền sư nổi tiếng.
Xem thêm công án 1019.

1567. Cây bách trước sân.

Một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang?
- Cây bách trước sân
(Thiền phong để diễn biến)
Tại sao hỏi “ý Tây sang” mà lại đáp “cây bách trướic sân”? Câu đáp là toàn bộ pháp, cưa không được, cắn không đứt, có thể giải thích cho rõ không? Có thể. Cổ nhân không chịu giải thích vì cái đó đã hiện thành. Nếu hiểu đem Phật pháp nhân cách hóa thì không cần phải giải thích, đã không nghi thì sẽ không tái nghi. Có một chuyện cũ có thể giải thích công án cây bách trước sân. Đời Tống, có một lần một vị quan Đề Hình đến hỏi Phật pháp với ngũ tổ Diễn. Ngũ tổ Diễn hỏi:
- Đề Hình có đọc qua hai câu thơ Tiểu Diễm không?
- Là hai câu nào?
- Là hai câu này:
Cô nàng gọi mãi những vô ích
Chỉ thằng tốt mã nghe ra thôi.
Xem công án 293.
Thơ Tiểu diễm là một bài thơ tình, kể chuyện có một vị tiểu thư dắt một con a hoàn đi xem hội. Tiểu thư liếc thấy người yêu ở gần đó, bèn lớn tiếng gọi:
- Tiểu Ngọc! Tiểu Ngọc!
- Tiểu thư, có chuyện gì?
Tiểu thư không đáp. Có chuyện gì vậy? Chả có chuyện gì cả, chỉ là tiểu thư hy vọng tình lang nghe được tiếng và biết nàng đang ở đó. Chỉ là vậy thôi. Nếu còn chưa rõ thì xin kể thêm một chuyện nữa. Có một vị thiền sư mỗi lần giảng pháp xong, sắp bước xuống tòa giảng đều hỏi:
- Mọi người hiểu không?
Mọi người đều không trả lời, chỉ rằng không hiểu. Thiền sư gõ xuống bàn “cạch’ một tiếng. Tiếng “cạch’ đó và “cây bách trước sân” hoàn toàn giống nhau, chỉ là một loại âm thanh mà thôi.
Xem thêm công án 246.

1568. Cưỡi lừa không chịu xuống.

Xưa có một ông tăng cưỡi lừa, hỏi chư tăng đi đâu? Chư tăng đáp:
- Tới đạo trường.
- Chỗ nào chẳng là đạo trường!
Chư tăng xúm lại đánh và mắng:
- Gã này chẳng có đạo lý gì cả, tới đạo trường mà còn cưỡi lừa.
(Thiền thú 60)
Chư tăng đánh ông tăng đó vì ông nói chỗ nào cũng là đạo trường còn đi đâu chứ. Nói vậy thì ngươi đang ở đạo trường mà còn cưỡi lừa là không lễ phép gì cả, đáng đánh. Cao thâm hơn thì là ông tăng cưỡi lừa biết cách cưỡi và cũng biết cách xuống; dùng đôi chân của mình mà đi. Đã biết chỗ nào cũng là đạo trường thì nơi chư tăng đến cũng là đạo trường; lời chẳng khế hợp với pháp. Cưỡi lừa không chịu xuống hình dung một người đối với một sự việc tốt nhưng vì chấp trước đã biến tốt thành xấu. Tỷ dụ như muốn thành tựu, bất kể là học nghiệp hay sự nghiệp, tự mình cố gắng đạt tới thành công, nhưng thành công rồi lại tự cao, tự đại. Đó là cưỡi lừa mà không chịu xuống. Đối với người tu đó là tình trạng tương đương ngộ cảnh không chịu ra khỏi. Vào được mà ra không được để phát huy đại cơ, đại dụng, không thể tiến lên cao hơn, đối với chúng sanh vô ích.

1569. Hớp một ngụm cạn hết nước Tây Giang.

Bàng Uẩn hỏi Mã Tổ:
- Ai là người không cùng vạn pháp là bạn?
- Đợi ngươi hớp một ngụm cạn hết nước Tây Giang ta sẽ bảo.
(Thiền thú 60)
Câu trả lời của Mã Tổ có nghĩa là tự tánh không thể dùng lời mà nói được. Nhưng nói thẳng ra như thế thì không thú vị, không làm chấn động người nghe; phải nói như Mã Tổ mới có sức mạnh lôi cuốn. Xét kỹ thì một hớp cạn nước tây Giang không phải là không thể làm được vì Phật pháp có giảng hạt cải đựng núi Tu Di, đả phá sự chấp trước không gian có to, nhỏ của con người. Lục tổ cũng có nói ngờ đâu tự tánh vốn tự đầy đủ, có thề sinh ra vạn pháp. Tự tánh khi nhỏ thì không có gì ở trong, khi lớn thì không có gì ở ngoài nó. Sơn hà đại địa đều ở trong tự tánh. Do đó hớp một ngụm cạn hết nước tây Giang thì cũng chẳng có gì là lạ. Câu nói của Mã Tổ xét về phương diện phủ định thì tự tánh không thể dùng lời để diễn tả được, xét về phương diện khẳng định thì tự tánh là chân lý tuyệt đối không có lớn nhỏ sai biệt. Nhưng điều trọng yếu ở đây là câu nói của Mã Tổ như ngón tay chỉ cho Bàng Uẩn thấy mặt trăng. Câu nói hợp thời, hợp chỗ khiến Bàng Uẩn khai ngộ. Nếu đem câu nói này dùng như một khẩu quyết khai ngộ đưa cho người khác ở chỗ khác, lúc khác thì chưa chắc đã làm cho họ giác ngộ. Thời tiết, nhân duyên là xử dụng đúng lúc, đúng sự, đúng lời, là kỹ năng cơ bản của thiền sư.
Xem thêm công án 988.

1570. Vừa rồi là khóc, bây giờ lại cười.

Bách Trượng bị Mã Tổ bóp mũi trở về liêu phòng buông tiếng khóc lớn. bạn đồng môn hỏi có phải nhớ nhà hay bị ai mắng chửi gì không mà lại khóc. Bách Trượng bảo:
- Ta bị sư phụ bóp mũi đau quá.
- Giữa hai thầy trò có chuyện gì vậy?
- Ngươi đi mà hỏi sư phụ.
Ông tăng đi hỏi Mã Tổ, Mã Tổ bảo:
- Hắn biết mà, đi hỏi hắn sao lại hỏi ta?
Ông tăng trở lại kể cho Bách trượng. Bách Trượng cười ha hả. Ông tăng không hiểu hỏi:
- Vừa mới khóc, sao giờ lại cười?
- Vừa rồi là khóc, bây giờ là cười!
(Thiền thú 60)
Người vừa mới ngộ, khóc lớn là hiện tượng bình thường. Các nghi hoặc tích lũy áp chế giờ tiêu tan như sương buổi sớm. Lại có người sau khi ngộ lại cười như điên. Phương pháp tốt nhất là sau đó ngủ một giấc, tỉnh dậy nếu thấy ngộ kiến không còn thì đó là giả ngộ, qua rồi thì thôi, không vì quá vui mà phát cuồng là tốt rồi; Chỉ cần còn núi xanh thì không sợ thiếu củi đốt. Nếu ngộ kiến còn thì đó là chân chánh khai ngộ. Đồng môn hỏi sao vừa mới khóc giờ lại cười? Bách trượng nói:
- Vừa rồi là khóc, bây giờ là cười!
Đó là câu hỏi vì câu hỏi., là câu trả lời tốt nhất. Nếu ông tăng cảnh tỉnh thì ngay đó có thể khai ngộ. Thiền sư không phải là không có hỷ, nộ, ai, cụ mà là tình cảm đơn thuần, đến thì đến, đi thì đi do đó khóc rồi liền cười, không như người thường khóc rồi phải một thời gian sầu thảm không thể lập tức cười ngay được.
Tiến thêm một bước nữa, đau thì khóc, vui thì cười, tất cả đều tự nhiên không bị tập tục, lễ tiết, kinh nghiệm làm ô nhiễm chỉ là bình thường tâm là Đạo, đơn giản như vậy thôi.
Xem thêm công án 615.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 11 Aug 2012, 7:48 PM | Message # 316
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1571. Không phải, không phải, đều không phải.

Có ông tăng tham Đại Huệ Tông cảo, vừa bước vào phòng Đại Huệ bèn thét:
- Không phải! Đi ra!
Ông tăng nghe lời đi ra, Đại Huệ nói thêm:
- Thật là tên tiểu tử không có khí lượng, vì một câu nói đã bị người đuổi ra, là nô tài cho ngôn ngữ.
Ông tăng thứ nhì bước vô phòng:
- Không phải! Đi ra!
Ông tăng này rút kinh nghiệm từ ông tăng trước, không đi ra mà tiến lại gần Đại Huệ.
- Đã nói với ngươi không phải rồi, còn đến gần ta cầu gì?
Bèn giơ gậy lên đánh đuổi ra.
Ông tăng thứ ba biết chuyện hai ông tăng trên vừa bước vào phòng đã chủ động nói ngay:
- Hai ông tăng vừa rồi không rõ ý sư phụ.
Đại Huệ đổi chiêu thức mới, cúi đầu hư một tiếng. Ô ng tăng không biết nói sao. Đại Huệ lại giơ gậy vừa đánh vừa bảo:
- Ngươi còn nói ngươi rõ ý ta.
(Thiền thú 60)
Người ta hướng ông cầu đạo ông mắng đuổi ra, đánh đuổi ra, ông có từ bi không? Chính những hành động này biểu thị thủ đoạn cao minh, từ bi của tông cảo. Thiền không phải là nhét cho đầy não một số giáo tài cho thiền sinh là có thể cho họ tốt nghiệp. Thiền sư yêu cầu thiền sinh phải có tâm nhẫn nại. Chờ tới khi thiền sinh đã chuẩn bị đầy đủ rồi thiền sư mới châm ngòi dẫn hỏa. Một điều nữa là phải đợi đúng thời cơ, nếu ra tay sớm quá sẽ không có công hiệu. Trong công án trên chúng ta có thể thấy thủ đoạn linh hoạt của Đại Huệ Tông cảo. Khi thời cơ của thiền sinh chưa tới thì không cần phải nói nhiều. Điều cần yếu là gieo cho họ một chủng tử nghi tình, làm lay động nhận thức cương ngạnh của họ, đợi tới đúng lúc sẽ ra tay hành động.

1572. Vịt trời bay đi rồi.

Bách Trượng là thị giả của Mã Tổ, một hôm cùng tản bộ với Mã Tổ, thấy một bầy vịt trời bay qua, Mã Tổ hỏi:
- Là con gì?
- Vịt trời.
- Bay đi đâu?
- Bay đi rồi.
Mã Tổ bỗng nhiên bóp mũi Bách Trượng. Bách Trượng bị đau kêu lên một tiếng.
- Ngươi còn nói bay qua rồi!
Bách Trượng lập tức khai ngộ.
(Thiền thú 60)
Đối với thiền sư mà nói không đâu không là thiền, trong bất cứ hoàn cảnh nào, trước một cảnh vật nào thiền sư cũng có thể chỉ thị thiền tâm cho đệ tử. Tương tự như tiểu thuyết kiếm hiệp, một đại kiếm sư không cần có kiếm trong tay, chỉ với một cọng cỏ cũng có thể lấy đầu kẻ địch giữa chốn thiên binh vạn mã. Mã Tổ há lại không biết vịt trời sao? Bách Trượng thiếu cảnh giác. Mã Tổ đã rút thiền kiếm ra rồi mà ông còn đáp là vịt trời, ngay thiền cơ cũng không biết. Nếu là pháp chiến Bách Trượng đã bị kiếm xuyên tâm rồi. Mã Tổ cầm sát nhân kiếm chính là muốn giết đi những chấp trước của đệ tử, khiến ông khai ngộ. Nhát kiếm của Mã Tổ như hư như thật; nếu như đối phương phản ứng lại thiền cơ. Mã Tổ sẽ cười lớn, chấp nhận ông có cơ cảnh thấy chiêu chiết chiêu. Mã Tổ lại đưa ra chiêu mới.
- Bay đi đâu?
- Bay đi rồi!
Đối với hiện tượng giới câu đáp của bách trượng là đúng. Nhưng câu hỏi của Mã Tổ hàm 2 ý: một là hỏi về hiện tượng, một là hỏi về bản thể. Vịt trời tượng trưng cho Phật tánh. Phật tánh lại bay tới bay đi ư?
Không, Phật tánh là như như bất động, nhưng vì người thường chấp vào hiện tượng nên đánh mất bản tánh. Câu hỏi của Mã Tổ có ý là Phật tánh đi đâu? nếu Bách Trượng đáp:
- Con ở đây.
Thì cũng đúng được 60%, nhưng còn chấp vào Văn tự. Nhưng nếu Bách Trượng lợi hại hơn, im lặng không nói chỉ nhìn Mã Tổ thì đạt được 70%. Nếu Bách Trượng lợi hại hơn nữa giơ tay đánh mã Tổ một đấm thì đó là tiên hạ thủ vi cường đạt được 80%, là kiến địa, là có khí phách. Đáng tiếc, lúc đó Bách Trượng còn chưa khai ngộ. Mã Tổ đột nhiên biến chiêu, bóp mũi Bách Trượng. Bị đau Bách Trượng tức khắc cảm thụ sự tồn tại của chính mình. Lúc đó Mã Tổ nói:
- Ngươi còn nói vịt trời bay đi rồi!
Ý nói Phật tánh chính ở đây, do đó ngươi mới cảm thấy đau.
Xem thêm công án 1041.

1573. Thiền sư vô tình vô nghĩa.

Giản thiền sư lúc chưa khai ngộ. Có một lần ở bờ sông, trông sang bờ bên kia thấy Đức Sơn Tuyên Giám. Giản thiền sư chắp hai tay lại hướng Đức Sơn chào:
- Thiền sư mạnh giỏi!
Đức Sơn đang cầm một cái quạt trong tay, bèn giơ quạt lên vẫy vẫy. Giản thiền sư hốt nhiên khai ngộ, bèn xoay mình đi, cũng không ngoảnh đầu lại nhìn Đức Sơn một cái.
(Thiền thú 60)
Chuyện khai ngộ này thật thần kỳ khôn lường, giống như võ hiệp tiểu thuyết kể những võ công kỳ lạ. Cách một con sông, Đức Sơn chỉ giơ quạt vẫy vẫy khiến Giản thiền sư khai ngộ là sao? Thích Ca giơ cành hoa lên, Ca Diếp mỉm cười’ Mã Tổ bốn chữ tức tâm, tức Phật làm Đại Mai khai ngộ. Đó chẳng phải cũng thần kỳ sao? Nếu chúng ta giơ cành hoa lên, vẫy vẫy quạt, nói tức tâm, tức Phật để khai thị mọi người, nếu không bị mọi người gọi là điên thì cũng là may lắm rồi còn nói chi đến việc giúp mọi người khai ngộ. Câu nói tức tâm, tức Phật là một câu nói có công hiệu trác việt khi mọi người chưa biết đến nó, nó có một sức sống mới mẻ, mạnh mẽ, lại thêm sự quan sát giỏi của Mã Tổ về căn khí và thời tiết nhân duyên của đệ tử khiến nó trở thành phương tiện thù thắng. Nhưng khi nó trở thành tri thức phổ biến thì nó đã mất đi sô lực đặc biệt của nó. Các thiền sư cao minh không có một khẩu quyết bất biến, mà có thể từ những bình phàm hoặc những câu nói thông thường chuyển thành có ý nghĩa đặc biệt đối với đối tượng. nếu chấp có một khẩu quyết vạn năng có thể trị bất cứ bệnh gì, bất cứ Trương tam, Lý Tứ nào cũng giơ một ngón tay thiền lên thì chỉ là một thiền sư mù. Đức Sơn Tuyên Giám giỏi quan sát đệ tử, do đó chỉ vẫy quạt đã làm Giản thiền sư khai ngộ. Hành động này chỉ hữu dụng lúc đó, chỗ đó, người đó. Nếu tái sử dụng sẽ không có hiệu quả. Trong công án này Giản thiền sư khai ngộ rồi, xoay mình mà đi, không thèm ngó lại. Đối với người thường mà nói thật là vô tình, vô nghĩa, ngay một tiếng cám ơn cũng không có. Sai! Giữa thiền sư với nhau, những nghi thức thế tục có cũng tốt, không có cũng không sao. Hai người không có tri tâm, có đa lễ cũng chẳng ích lợi gì. Giản thiền sư xoay mình mà đi là chân chính báo đáp ơn khai ngộ của Đức Sơn vậy.

1574. Đều là hý luận.

Có vị ngoại đạo lại tham vấn Thế Tôn:
- Mọi sự tình đều là vĩnh hằng có phải không?
Thế Tôn im lặng.
- Vậy, mọi sự tình đều không vĩnh hằng có phải không?
Thế Tôn vẫn im lặng.
- Thế Tôn, ngài là bậc giác ngộ, chuyện gì ngài cũng biết, sao ngài không trả lời con?
- Vấn đề của ông toàn là hý luận, bảo tôi làm sao trả lời.
(Thiền thú 60)
Người đời không biết những lo lắng đều xuất phát từ vọng tưởng. Thường và vô thường là vấn đề hình nhi thượng. Đức Phật nhận rằng chỉ lo suy tư về hình nhi thượng thì đối với phiền não, thống khổ chẳng có ích lợi gì, hơn nữa đắm mình vào hình nhi thượng cũng là phiền não, thống khổ. Các pháp vốn không thường và vô thường; các pháp chỉ theo bản lai diện mục triển hiện trung thực. Nhưng con người khi nhận thức các pháp thường dùng thường và vô thường, lời nói, khái niệm gán vào, khiến nhân loại chỉ nhận thức lời nói, khái niệm đã tự cách biệt với bản lai diện mục.
Thế Tôn đối với loại vấn đề này im lặng không nói; kỳ thực ngài chỉ rất rõ ràng: hãy rời bỏ ngôn ngữ, khái niệm, trở về lúc nhân loại chưa có ngôn ngữ, khái nghiệm thì sẽ rõ không cần hỏi ta những hý luận trong không mà có. Đáng tiếc vị ngoại đạo không hiểu ý không lời của Thế Tôn, lại còn gắng hỏi:
- Vì sao ngài không trả lời con?
- Vì câu ông hỏi chỉ là hý luận.
Con người sống trong hý luận, từ nhỏ đã học nói “ngã” là hý luận thứ nhất. Từ đó trên tất cả mọi sự vật đều an lập ngôn ngữ, như thêm nước vào cho cá nhưng cá không biết, như không biết tên loài hoa X nhưng bạn vẫn ngửi được mùi thơm của nó, không phải sao?

1575. Cách tiếp khách của Triệu Châu.

Một hôm Chân Định Súy Vương đến thăm, Triệu Châu ngồi yên trên thiền sàng hỏi:
Đại Vương hiểu không?
- Không hiểu.
- Lão nạp tử nhỏ ăn chay, nay không còn khí lực xuống thiền sàng.
Vương càng kính trọng. Hôm sau Vương sai một vị tướng quân đến truyền lời hỏi thăm. Triệu Châu xuống thiền sàng tiếp.
Thị giả hỏi:
- Hôm qua, Hòa thượng thấy Đại vương đến, không xuống thiền sàng, hôm nay tướng quân đến, tại sao lại xuống thiền sàng?
- Ngươi không biết đâu!Đệ nhất đẳng nhân đến,ta ở thiền sàng tiếp. Trung đẳng nhân đến, ta xuống thiền sàng tiếp. Mạt đẳng nhân đến, ta ra tận ngoài tam quan tiếp.
(Thiền thú 60)
Chân Định Súy Vương là huynh đệ của Hoàng đế, là một nhân vật cao quý, là mục tiêu cho nhiều người nịnh hót. Nhưng Triệu Châu vẫn lạnh lùng ngồi trên thiền sàng hỏi Vương có hiểu tại sao mình không xuống thiền sàng không? Chư pháp bất động, không đến không đi, không đi không đến, không trên không dưới. Đó là giáo huấn không lời của Triệu Châu. Đáng tiếc ý nghĩa quá cao, do đó Súy Vương không hiểu, do đó Triệu Châu phải hạ thấp xuống một tầng để Súy Vương hiểu. Đối với một người có địa vị cao như Súy Vương quen được mọi người kính trọng; Triệu Châu vì lòng từ bi đối đãi ngược lại mong chấn động được đối phương. Súy Vương đến cầu giáo, nên Triệu Châu chỉ Đạo. Tướng quân đến để truyền lời, nên Triệu Châu lấy lễ mà tiếp. Cuối cùng, Triệu Châu nói người hạ đẳng đến thì ra tận ngoài tam quan tiếp, chỉ là khôi hài.
Xem tiếp công án 481.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 11 Aug 2012, 7:49 PM | Message # 317
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1576. Một sợi cũng không.

Tĩnh Cư Ni Huyền Cơ tham Tuyết Phong. Phong hỏi:
- Từ đâu tới?
- Đại Nhật Sơn.
- Mặt trời đã mọc chưa?
- Nếu mọc đã tan tuyết núi.
- Cô tên chi?
- Huyền Cơ.
- Một ngày dệt được bao nhiêu?
- Một sợi cũng không.
Huyền Cơ lạy rồi ra, đi được ba bước Tuyết Phong bảo:
- Cà sa của cô lê đất kìa?
Huyền Cơ quay đầu lại nhìn, Tuyết Phong nói:
- Tốt lắm! Một sợi cũng không.
(Thiền thú 60)
Tuyết Phong trong công án này không phải là Tuyết Phong Nghĩa Tồn, lai lịch của ông còn chưa rõ, Huyền Cơ theo truyền thuyết là nữ đệ tử của Vĩnh Gia Huyền Giác. Tuyết Phong nhân Huyền Cơ ở núi Đại Nhật đến nên dùng lối chơi chữ mà hỏi:
- Mặt trời đã mọc chưa?
hàm ý đã thấy Phật tánh chưa?
Tĩnh cư ni đáp:
- Nếu mọc sẽ làm tan tuyết núi.
Câu đáp rất mẫn tiệp. Cô cũng dùng lối chơi chữ mà đáp lại vì tuyết núi là tên của Tuyết Phong, nên cô đã chiếm được thượng phong mặc dù hơi kiêu ngạo. Tuyết Phong lại dùng tên cô Huyền Cơ (máy dệt) để hỏi:
- Một ngày dệt được bao nhiêu?
là hỏi công phu của cô thế nào?
- Một sợi cũng không.
Là câu trả lời tuyệt diệu, một mũi tên hạ hai điêu, chứng tỏ cô rất có khẩu tài.
Nhưng khi Tuyết Phong bảo áo cô lê đất thì cô ngoảnh lại xem, tỏ rằng tâm cô hãy còn quái ngại không phải một sợi cũng không như lời cô nói.
Xem thêm công án 1069.

1577. Ta là con lừa.

Tây Mục thượng đường. Một cư sĩ giơ tay nói:
- Hòa thượng là con lừa!
- Lão tăng bị ngươi cưỡi.
Cư sĩ im lặng bỏ đi. Ba hôm sau trở lại thưa:
- Ba hôm trước con làm giặc.
Tây Mục giơ gậy đuổi đi.
(Thiền thú 60)
Ta là con lừa, rồi sao? Nói ta là Hoàng đế, là vĩ nhân có ích lợi gì? Nói ta là tên ti tiện, tội đồ thiên cổ thì có tổn hại gì? Từ bản chất mà nói chư Phật vì chúng sanh cùng một Phật tánh. Từ đức Phật đến con kiến nhỏ cũng bình đẳng. Thiền sư không tham cầu được người khen ngợi. Gọi ta là con lừa, ta thuận nước đẩy thuyền, để ngươi cưỡi, có sao đâu? Con lừa là chỉ vô tâm, vô vi, nhậm vận, tự nhiên; cưỡi lừa là hữu tâm, hữu vi, tạo tác, nhân tạo. Tây Mục dùng gậy đuổi cư sĩ đi là bảo ông hãy giữ mồm, trở về tâm mà phản quán tự tánh.

1578. Gương cổ của Tuyết Phong.

Tuyết Phong nói:
- Mọi người đều có gương cổ, con khỉ cũng có gương cổ.
Tam Thánh hỏi:
- Lịch kiếp tự tánh vốn vô sanh, sao hòa thượng lại gọi là gương cổ?
- Vì bị bẩn.
- Hòa thượng thoại đầu cũng chẳng biết.
- Tội lỗi! Lão tăng trụ trì bận rộn.
(Thiền thú 60)
Phật tánh không thể dùng lời nói được, thiền sư vì độ người không thể không nói. Không phải là Tuyết Phong không biết thoại đầu mà là từ bi độ chúng sanh. Sự thực Phật tánh không bẩn, sạch để miêu thuật quan niệm siêu việt. Nhưng ở hiện tượng giới Phật tánh của chúng sanh quả thật nhơ bẩn, cần phải lau chùi, như bài kệ của Thần Tú rất ích lợi cho người mới tu. Khi Tuyết Phong bảo:
- Mọi người đều có gương cổ, con khỉ cũng có gương cổ.
chẳng phải là bảo chúng sanh đều bình đẳng sao?

1579. Chúng sanh vốn là Phật.

Bạch Ẩn nói:
- Chúng sanh vốn là Phật như nước và băng; lìa nước không băng, ngoài chúng sanh không có Phật. Không biết thân cận chúng sanh, tìm chi vô thường ở xa.
(Danh tăng trí tuệ ngữ lục)
Nếu tâm khởi một niệm từ bi, phải chú ý bồi dưỡng nó chẳng hạn như thích tụng kinh, lễ Phật v . v . đó là tác dụng của Phật Tâm. Phật chính ở trong tâm ta.

1580. Học Phật là học chính mình.

Đạo Nguyên nói:
- Học Phật là học chính mình, học chính mình là quên chính mình, quên chính mình là chứng vạn pháp vậy.
(Danh tăng trí tuệ ngữ lục)
Con người đều có mê hoặc, khi phán đoán thị phi phải làm sao cùng nội tâm phối hợp. Chỉ cần nương Phật tâm chỉ dẫn là ra khỏi đường mê.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 11 Aug 2012, 7:51 PM | Message # 318
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1581. Thiền định.

Nga Sơn nói:
- Phật pháp tuy nhiều nhưng không ngoài Giới, Định, Huệ. Người tu giới thiếu định và huệ. Người tu huệ thiếu định và giới. Người tu thiền định đủ cả giới, định, huệ.
(Danh tăng trí huệ ngự lục)
Thế Tôn từ trong thiền định mà lãnh ngộ chân lý, trừ bỏ được mọi tạp niệm. Cho nên tọa thiền là chánh truyền của Thế Tôn, có năng lực phổ độ chúng sanh.

1582. Kho báu nhà mình.

Đại Châu Huệ Hải mới đến Giang Tây tham Mã Tổ. Tổ hỏi:
- Từ đâu tới?
- Từ Việt Châu Đại Vân Tự tới.
- Đến có chuyện gì?
- Đến cầu Phật pháp.
- Ở nhà có kho báu không muốn, lang thang ở ngoài không chịu về nhà, thật là kỳ quái! Nơi đây một vật ta cũng không có, cầu Phật pháp cái gì?
Đại Châu lạy hỏi:
- Cái gì là kho báu của Huệ Hải?
- Nay ngươi hỏi ta là kho báu nhà ngươi, tất cả đều đầy đủ, không thiếu gì, xử dụng tự tại, việc gì hướng ngoại tìm kiếm?
Huệ Hải nghe xong, liền minh bạch Phật tánh, hướng Mã Tổ lễ tạ.
(Thiền thú 60)
Kho báu nhà mình tức là Phật tánh; cái mà Đại Châu muốn tìm chỉ là biết rõ điều này. Một khi thân tự thấy rồi, về sau không còn nghi hoặc nữa. Đó là kiến tánh. Đại Châu khi mới gập Mã Tổ không lạy, biểu thị chưa chấp nhận Mã Tổ cho đến khi Mã Tổ nói về kho báu nhà mình; Đại Châu biết là Mã Tổ đã nói đến trọng điểm, liền quỳ ngay xuống, lạy xin chỉ giáo. Cái lạy này không phải ai cũng tùy tiện nhận được. Tiếp được phải có bảo cụ để truyền. Con người giống như một phú ông có tiền của dấu ở một nơi nào đó mà không biết, trong tay không có một xu. Khi khai ngộ là thấy được của dấu, biết mình là phú ông.

1583. Núi Tu Di.

Một hôm, một ông tăng hỏi Vân Môn:
- Khi không nghĩ, có sai lầm không?
- Núi Tu Di.
- Đã nói không nghĩ, thầy còn thêm núi Tu Di vào làm gì?
- Bỏ cả xuống!
- Đã không nghĩ, làm sao bỏ xuống?
- Vậy hãy nhấc lên và mang đi!
(Thế giới nhất hoa)
Con chó sủa gâu gâu, con gà gáy tẻ tè te, con mèo gừ meo meo. Mọi con vật đều hiểu đúng tiếng của chúng. Tiếng nói đúng của ngươi là gì?
Mở miệng ra là đã sai rồi; ngậm miệng lại cũng sai nữa. Ngươi có thể làm được gì? nếu ngươi giữ im lặng Vân Môn sẽ đánh ngươi 30 gậy. ngươi nói gì? nếu bỏ cả xuống, thì tất cả đều thuộc về ngươi.

1584. Vô ngại.

Một hôm, một ni cô đến tham thiền sư Sùng Sơn, hỏi:
- Thế nào là pháp?
- Vô ngại.
- Vô ngại nghĩa là sao?
- Tại sao ngươi mặc quần áo?
Ni cô cởi truồng đi ra.
(Thế giới nhất hoa)
Cái cây hiểu công việc của cây; dòng nước hiểu công việc của nước. Công việc của thiền sư, của ni cô là gì? nếu chấp vào lời ngươi sẽ vào địa ngục nhanh như tên, nếu tiêu hóa lời ngươi sẽ giết hết chư Phật, Bồ tát. Ngươi chọn cách nào? Bỏ cả xuống, ra tiệm và uống trà đá.

1585. Ngươi cần chi?

Phật dạy tất cả các pháp để độ tất cả tâm, khi không giữ tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp?
(Thế giới nhất hoa)
Tâm sanh, pháp diệt. Khi pháp hiện thì yêu thích chán ghét, đến đi, sống chết đều xuất hiện. Khi tâm diệt thì tất cả đều diệt, lời nói chữ viết cũng đều diệt. Mở miệng ra là một sự sai lầm lớn. ngươi có thể làm gì? Bỏ cả xuống! Đừng cắn câu. Khi đói chỉ ăn, khi khát chỉ uống.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 11 Aug 2012, 7:53 PM | Message # 319
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1586. Thế giới nhất hoa.

Đây là một tuyển tập gồm 365 công án của thiền sư Sùng Sơn người Đại hàn. Trong tập này có nhiều công án chúng tôi đã dịch, chúng tôi không lập lại, chỉ dịch phần bình luận:

1- Ngày nào cũng tốt. (Xem công án 982)
Thời gian qua như một mũi tên. Nghĩ thì hôm qua, hôm nay hiển hiện, không nghĩ thì mọi ngày đều biến mất. Hôm nay trời tốt hay xấu? Nhìn lên bầu trời mãi mãi xanh.

2- Phật mặt trời, Phật mặt trăng. (Xem công án 986)
Đầu hướng trời, hai mặt (mặt trời, mặt trăng) hướng đất. Xuân đến muôn hoa nở. Đông sang tuyết rơi nhiều. Trẻ con thích lửa ấm.

3- Vòng tròn của Tư Phúc (Xem công án 168)
Trái đất xoay quanh trục của nó và xoay quanh mặt trời. Xuân, hạ, thu, đông cũng xoay vần; ngươi được gì? Bỏ xuống! Chỉ nhìn, nghe, làm.

4- Lông mày Thúy Nham (Xem công án 127)
Gương sáng không có thích hay không thích. Đỏ đến đỏ hiện, trắng đến trắng hiện. Đừng dùng mồm, hãy dùng gương.

5- Không chỉ một đường (Xem công án 984)
Khuôn mặt xưa nay của Triệu Châu hiển hiện rõ ràng nhưng không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Cái nào là Triệu Châu thật? Nếu muốn hiểu Triệu Châu thật hãy đi hỏi cây tùng.

6- Chẳng nhầm nhân quả (Xem công án 1071)
Ai có thể điều khiển được người có 3 đầu, 7 chân? Nếu ngươi có một cái mồm, ngươi không điều khiển được hắn. Nếu ngươi có thể tìm thấy một cái sừng thỏ thì họa may.

7- Con chó không có Phật tánh (Xem công án 1020)
Im thì tốt hơn là thiêng. Khi mở mồm, ngươi đã làm một sự sai lầm lớn, nhưng dùng sự sai lầm này để độ chúng sanh thì đó là thiền.

8- Một ngón tay thiền (Xem công án 1078)
Ai có thể điều khiển con rắn có chân mang vớ? Nếu ngươi không có ngón tay, ngươi có thể điều khiển nó.

9- Rợ Hồ không râu (Xem công án 115)
Ba năm sau khi mất, Đạt Ma trở về Tây phương đem theo cây gậy và một chiếc dép. Ông không chết bao giờ. Bây giờ ông ở đâu? Coi chừng bước chân.

10- Niêm hoa vi tiếu (Xem công án 1183)
Hoa mỉm cười, mặt Phật đỏ.

11- Triệu Châu rửa bát (Xem công án 1073)
Điểm tâm vào buổi sáng, ăn trưa vào buổi trưa, ăn cơm chiều vào buổi chiều. Sau bữa cơm, ngươi có biết công việc của mình không? Vậy hãy làm đi.

12- Hề Trọng làm xe (Xem công án 192)
Trên vòm trời rộng mây hiện và biến. Mọi sự đều đã rõ ràng.

13- Phật Đại Thông Trí Thắng (Xem công án 193)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Mọi chúng sanh đều có Phật tánh. Do đó mọi vật đều đã là Phật. Nếu một người muốn trở thành Phật thì đã sai lầm lớn rồi. hãy cẩn thận.

14- Thanh thoát cô bần (Xem công án 154)
Con chó đã ăn tâm thanh thoát, chạy vòng vòng Đông rồi Tây.

15- Triệu Châu khám phá am chủ (Xem công án 195)
Hai am chủ giết Triệu Châu và nhét thân ông vào hũ rượu.

16- Đức Sơn bưng bát (Xem công án 196)
Ba con chó nối đuôi chạy vòng đuổi nhau, đánh hơi tìm thức ăn.

17- Nghe tiếng chuông mặc áo thất điều (Xem công án 197)
Tâm ngươi và thế giới này, cái nào lớn hơn? Mở mồm ngươi không tìm thấy hướng, ngậm mồm mất luôn hướng. Nghe tiếng chuông hãy đến pháp đường.

18- Ba lần gọi của Quốc sư (Xem công án 198)
Nội thương cháu, cháu chịu nội chỉ vì muốn ăn kẹo.

19- Ba cân gai (Xem công án 124)
Lầm lớn! Lầm lớn! Động Sơn không hiểu 3 cân gai, nhưng 3 cân gai hiểu mắt Động Sơn.

20- Tâm bình thường là Đạo (Xem công án 1085)
Không ăn 3 ngày ngươi chỉ muốn thực phẩm. Đi trong sa mạc ngươi chỉ muốn nước. Đứa bé khóc vòi mẹ. Mọi việc đều rõ ràng: trên trời nhiều sao, trên núi nhiều cây.

21- Đại lực sĩ (Xem công án 209)
Người ăn quá nhiều, phải tập luyện. Nếu ngươi khát, tìm một cái giếng, nếu mệt hãy đi ngủ.

22- Que cứt khô (xem công án 199)
Vân Môn thối mồm, ngươi làm sao cho hết mùi? dẫn ông ta vào phòng tắm và súc miệng cho ông.

23- Hạ cây phướn xuống (Xem công án 104)
Trời không mây nhưng sét đánh cột cờ. Ca Diếp và A Nan đều thất nghiệp.

24- Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác (Xem công án 1024)
Lục tổ có 2 mắt, Huệ Minh có 2 tai. Mỗi người có một mồm. Họ cùng thấy, nghe nhưng lời thì khác. Một người đi về Bắc, một người đi về Nam.

25- Lìa ngôn ngữ (Xem công án 200)
Mở mồm ngươi không có lưỡi, mở mắt ngươi không có con ngươi. Làm sao giải quyết? Ngươi phải đi Giang Nam và hỏi chim Chá Cô.

26- Đệ tam tọa nói pháp (Xem công án 203)
Thế giới này và cuộc sống con người như một giấc mộng. Hai người nói về giấc mộng. Khi nào họ tỉnh? 3 giờ sáng, ở ngoài nhà gà gáy tẻ tẻ te.

27- Một được, một mất (xem công án 202)
Hành động của 2 ông tăng rất rõ. Lời Pháp Nhãn là một sai lầm lớn. Ngươi làm sao sửa lại? Ngươi có biết tuổi của Pháp Nhãn không? Đi mà hỏi cây tùng trước chùa.

28- Long Đàm thổi tắt đèn.
Thiên nhiên đã dạy chúng ta nhiều việc, tại sao ngươi cần các bộ kinh? Nếu ngươi đạt khuôn mặt xưa nay, ngươi sẽ ném hết kinh Phật vào lửa; rồi thế giới của ngươi sẽ vẹn toàn.

29- Tâm động. (Xem công án 85)
2 ông tăng không có vấn đề gì cả. Lục tổ đã phạm một sai lầm lớn vì một lần tổ nói “Vốn không một vật”. Vậy tâm ở đâu? Gió và cờ có thể điều khiển 2 ông tăng nhưng tâm điều khiển Lục tổ.

30- Tâm là Phật (Xem công án 245)
Không Mã Tổ, không Đại Mai, không Phật, không tâm, rồi sao? Ngươi có thấy trời, cây? Ngươi đã hiểu rồi. Bỏ cả xuống.

31- Triệu Châu khám phá lão bà. (Xem công án 111)
Triệu Châu có mắt, tai, mũi, lưỡi và thân nhưng ông không có xương. Làm sao ông từ Ngũ Đài Sơn xuống lại trở về Ngũ Đài Sơn? Lão bà không có mắt, không mồm, không tay làm sao bà chỉ đường đến Ngũ Đài Sơn? Thật là buồn cười ghê ha! ha! ha!

32- Ngoại đạo hỏi Phật (Xem công án 147)
Cây, nước, đất, trời không lời nhưng chúng dạy chúng ta trọn vẹn. Nếu ngươi không hiểu chánh đạo, chánh mạng, sự thật ngươi phải hỏi mặt trời, mặt trăng.

33- Trí không phải là đạo (Xem công án 239)
Con chó, con mèo, con gà hiểu công việc của chúng. Con người không hiểu công việc của con người. Bây giờ người đương làm gì? Hãy làm đi.

34- Thiến Nữ ly hồn (Xem công án 213)
Tham, sân, si, dục, vui, buồn, cái nào là chân tâm? Nếu ngươi không có tâm chúng đi đâu? Một cái hiện, 2 cái hiện, vạn vật xuất hiện. Một cái diệt, tất cả diệt.

35- Trên đường gập người đạt đạo (Xem công án 204)
Cây hiểu thời tiết, núi hiển mùa. Mọi vật hiển tình trạng và hành động của chúng. Chỉ có con người là ngu muội. Xuân tới cỏ xanh, Đông sang tuyết trắng.

36- Cây bách trước sân (Xem công án 246)
Huấn luyện là một việc khó cho Đạt Ma. Ông khai nhãn cho nhiều người nhưng ông thì mất mạng. Sau khi ông mất 3 năm, ông tìm lại được thân và ông đi về Tây. Giờ ông ở đâu? Trời xanh lơ, tùng xanh lam.

37- Con trâu qua cửa (Xem công án 291)
Đuôi trâu giết hết chư Phật, chư tổ và tất cả chúng sanh. Đuôi trâu ở đâu? Ngươi có thấy nó không? Ngươi có nắm được nó không? Nó đã qua rồi.

38- Đá đổ tịnh bình (Xem công án 210)
Quy Sơn không tốt cũng không xấu, quá man dại ông phải giữ cho tâm trong sáng. Bộ tay ông đi nghỉ hè hay sao?

39- Tâm đệ tử chẳng an (Xem công án 1008)
Đạt Ma quá ngu. Tại sao ông ngồi bích quán 9 năm? ông có tâm hay không? nếu ông vô tâm ông đã mất mạng rồi. Nhị tổ đạt được cái gì? Nếu ngươi hiểu chuyện này thì đi uống trà đi.

40- Thiếu nữ xuất định (Xem công án 205)
Đầu không thể cầm bút, mắt không thể nghe thấy, mồm không thể nhìn trời. Đàn ông không thể sanh con. Tay có công việc của tay, chân có công việc của chân. Hãy hiểu đúng công việc của ngươi. Khi gà gáy sáng thân chỗi dậy.

41- Cây gậy của ba Tiêu (Xem công án 206)
Mọi súc vật hiểu rõ chánh đạo và hành động đúng. Chỉ có con người là còn ngu si. Thỏ thích ăn cà- rốt, chuột thích ăn phô- mai.

42- Cây gậy của Thủ Sơn (Xem công án 211)
Vốn không có danh và tướng. Khi tâm sanh, danh và tướng sanh. Nếu ngưới chấp vào danh và tướng, ngươi không thể ra khỏi địa ngục. Khéo dụng danh tướng ngươi sẽ thành Phật.

43- Người ấy là ai? (Xem công án 207)
Nếu ngươi không làm gì cả, cả thế giới thuộc về ngươi. Nếu ngươi làm một gì đó thì ngươi đã mất mạng rồi. Nếu muốn gập Thích ca hãy vào nhà bếp, nếu muốn gập Di Lặc hãy vào buồng tắm.

44- Chẳng có thánh gì cả (Xem công án 1025)
Lương Võ Đế hiểu Bồ Đề Đạt Ma, Bồ Đề Đạt Ma không hiểu Lương Võ Đế. Câu trả lời “không biết” của Bồ Đề Đạt Ma nuốt trọn vũ trụ. Làm sao ngươi thoát ra? Mở mắt và lắng tai:Đạt Ma ngồi thiền ở Thiếu lâm 9 năm.

45- Tuyết đầy chén bạc (Xem công án 117)
Cái ngươi nhìn và cái ngươi nghe là bạn thật của ngươi.

46- Cảnh Thanh kêu mổ (Xem công án 125)
Vỗ tay 3 lẩn tuyệt! tuyệt! tuyệt! Gà con nói chào ông, ông khỏe không?

47- Bách Trượng ngồi một mình (Xem công án 119)
Cẩn thận! đừng chấp vào lời, một hành động tốt hơn vạn lời.

48- Thân bầy gió vàng (Xem công án 154)
Nếu ngươi hiểu thời tiết bên ngoài, ngươi biết sẽ phải mặc gì, mặt trời thì xa còn gió thì mạnh.

49- Củ cải to của triệu Châu (xem công án 126)
Triệu Châu mạnh hơn trời. Nam Tuyền trở thành củ cải. Củ cải lớn hơn Triệu châu và rơi đè lên người ông. Triệu Châu kêu lên: Cứu tôi! Cứu tôi!

50- Định thượng tọa (Xem công án 595)
Cái gì không phải là Phật pháp? nếu ngươi tìm thấy ngươi đã là Phật. Nếu ngươi tìm thấy Phật pháp, ngươi trở thành ngu si. Lâm tế rất ngu, một hành động là đủ, đâu cần đến 3. Định thượng tọa hiểu mình có 2 mắt và 1 mồm.

51- Trước sau 33 (Xem công án 128)
Văn Thù ngu si, Vô Trước khôn khéo. Chỉ là trò đùa về ngôn ngữ. Ai được, ai thua? ngươi có thấy khuôn mặt xưa nay của Văn Thù không? Ngươi có thấy cái mũi xưa nay của Vô trước không? là cùng hay là khác? Chư Phật và chư Tổ không thể nhá được câu trước 33, sau 33 của Văn Thù.

52- Một cành hoa (Xem công án 167)
Mở mồm, lầm lớn. ngậm mồm cả vũ trụ và ngươi không bao giờ xa cách. Thức dậy! Thức dậy! ngươi nhìn thấy gì, nghe thấy gì bây giờ? Đi hỏi chó, mèo; chúng sẽ chỉ cho ngươi.

53- Đợi trời sáng hãy đi (Xem công án 54)
Đến tay không, đi tay không. Có một vật rõ ràng không lệ thuộc vào sanh tử. Ai sống? Ai chết? Sống và chết như mây nổi. nếu ngươi bỏ được đám mây trong tâm ngươi thì khuôn mặt xưa nay xuất hiện rõ ràng trước mặt ngươi. Đêm có tối, ngày có rạng.

54- Nơi mát mẻ (Xem công án 981)
Lời của Động Sơn rất mạnh. Ông hiểu tình hình và hành động. Nóng và lạnh ở bên trong hay bên ngoài. Nếu ngươi tìm thấy câu trả lời đúng, ngươi đạt được khuôn mặt xưa nay của Động Sơn.

55- Ta có thể đánh trống (Xem công án 40)
Bỏ xuống tất cả những lời nói và suy tư. Nếu ngươi kiểm soát, sự kiểm soát này sẽ giết ngươi. Ngươi có nghe tiếng trống của Đầu Tử không? Nặng bao nhiêu cân? Nếu ngươi biết ngươi đã là thầy của Phật.

56- Cầu đá Triệu Châu (Xem công án 74)
Phi cơ bay trên trời phải có mục tiêu, xe lái trên đường phải có chỗ đến. Chó, mèo chạy nhẩy tốt hơn là phi cơ và xe hơi.

57- Cây gậy hóa rồng (Xem công án 78)
Lời Vân Môn là một sai lầm lớn. Lưỡi câu của ông mắc trong chính mồm ông. Ai gỡ cái lưỡi câu này? Chỉ có ai trả lời được 3 câu hỏi mới gỡ được. (3 câu hỏi của Sùng Sơn:
1- Làm sao ngươi biến cây gậy thành rồng?
2- Con rồng này làm sao nuốt mọi vật?
3- Nếu nó nuốt tất cả, làm sao ngươi thấy vạn vật?

58- Vòng tròn của Nam Tuyền (Xem công án 142)
Nam Tuyền trở thành điên như núi Tu Di. Ông muốn bắt một con cá to, nhưng không làm được. Quy Tông và Ma Cốc hiểu tâm ông nhưng ông không hiểu tâm họ. Họ đi đâu? Đông, Tây, Nam, Bắc?

59- Thùng cơm của Kim Ngưu (Xem công án 156)
Nếu ngươi rảnh, đi coi chớp bóng, nếu ngươi mệt đi khiêu vũ. Nếu ngươi không có gì để làm, lễ Phật rồi Phật sẽ mỉm cười với ngươi.

60- Bánh Hồ (Xem công án 160)
Vân Môn nói bánh Hồ nhưng sao chỉ có bánh? Nếu ngươi có kẹo, mì, coca hãy đưa cho Vân Môn rồi ông ta sẽ ấn chứng cho ngươi.

61- Mọi âm thanh đều là Phật thanh (Xem công án 129)
Vốn không có ngôn ngữ, văn tự. Đã sai lầm rồi, ai mà sửa lại được? Nếu ngươi muốn hiểu hãy đi hỏi 1 đóa hoa hay 1 cái cây. Chúng sẽ cho ngươi câu trả lời đúng.

62- Trẻ sơ sinh (Xem công án 161)
Khi trẻ khóc, mẹ cho bú. Triệu Châu thích bóng, nhưng quả bóng đã giết ông. Bỏ cả xuống, nhìn rõ, nghe rõ. Liễu lục, hoa hồng.

63- Tiếng cọp của Đồng Phong (Xem công án 187)
Chó đuổi theo xương; cọp nhai người. Vô tâm tất cả thuộc về ngươi, hữu tâm ngươi mất tất cả. nếu ngươi bị lạnh, dùng thuốc cảm. Nếu ngươi bị sốt dùng thuốc giải nhiệt.

64- Cửa kho (Xem công án 186)
Lục tổ nói vốn không một vật. Vân Môn nói mọi người tự có ánh sáng. Hai câu nói này là đồng hay dị? Mọi người đều có 2 mắt, một mồm.

65- Thể dụng của Bát Nhã (Xem công án 123)
Chân lý không có ngôn ngữ, văn tự. Pháp thật không có danh tướng. bát Nhã từ đâu ra? Dụng của nó là gì? Chỉ làm. Khi mệt thỉ ngủ, khi đói thì ăn.

66- Ba chuyển ngữ của Triệu Châu (Xem công án 164)
Lục tổ nói: “Vốn không một vật”, kinh nói chúng sanh đều có Phật tánh. Ai làm ra Phật? Ai đúng? Nếu ngươi có Phật tánh Phật sẽ giết ngươi. Nếu ngươi không có Phật tánh, Phật cũng sẽ giết ngươi. Ngươi phải làm sao? Uống trà đi!

1587. Núi này không có đường vào.

Động Sơn Lương Giới khi đi hành cước, lạc đường, ngẫu nhiên tới chỗ ẩn cư của Long Sơn hòa thượng. Động Sơn vái chào. Long Sơn hỏi:
- Núi này không có đường, ngươi làm sao vào?
- Chuyện không có đường tạm gác lại, hòa thượng làm sao vào?
- Ta không biết mây nước.
- Hòa thượng ở núi này bao lâu?
- Không biết.
- Vì sao không biết?
- Ta không vì trời, người mà đến.
(Thiền thú 60)
Núi này chỉ Phật tánh. Phật tánh không có phương pháp nào để vào, vì vậy gọi là cửa không cửa. Thiên hạ không có một kỹ xảo nào bảo đảm học nhân nhất định thấy Phật tánh, chỉ nương vào tu hành vị tất sẽ chứng ngộ. càng nỗ lực tu hành cầu khai ngộ thì khai ngộ lại càng xa. Động Sơn hỏi hòa thượng làm sao vào? Long Sơn đáp ngay đi ta còn không biết thì làm gì còn vấn đề vào hay không vào. Hòa thượng hay núi ở đây trước là hỏi Phật tánh và vô minh cái nào có trước. Long Sơn đáp không biết là phủ quyết vấn đề trong không sinh hữu. Thời gian là quan niệm của người phàm chúng ta. Đối với Phật tánh, thời gian không tồn tại. Cũ, mới, thường tồn, biến đổi . . . đều là những khái niệm tương đối. Lấy khái niệm tương đối để mô tả tuyệt đối là chuyện hoang đường.

1588. Tìm trâu.

茫茫 撥 草 去 追 尋
Mang mang bạt thảo khứ truy tầm
水 闊 山 遥 路 更 深
Thủy khoát sơn diêu lộ cánh thâm
力盡 神 疲 無 所 覓
Lực tận thần bì vô sở mịch
但聞 楓 樹 晚 蟬 吟
Đản văn phong thụ vãn thiền ngâm

Vạch cỏ mênh mang mong tìm lối
Non xa, sông rộng, đường thêm sâu
Rặng phong ve chiều kêu rộn rã
Sức cùng, lực tận, thấy gì đâu?

Tranh vẽ người chăn đứng ở nơi hoang dã, tay cầm sợi dây thừng, xem bộ bồn chồn, do dự không biết đi về hướng nào để tìm trâu, là tài sản mà ông rất tự hào, đã chạy mất. Người chăn là người tu, cảm thấy mình đánh mất bản tánh chân thật, bất biến do đó có khát vọng tìm về, chỉ có thế tâm mới an định. Đó là giai đoạn người tu không biết đi theo đường nào. Có người tin tưởng mình tìm được. Có người nửa tin, nửa ngờ cho nên tìm được một lúc lại ngừng, ngừng một lúc lại tìm.

1589. Thấy dấu.

水邊 林 下 跡 偏 多
Thủy biên lâm hạ tích thiên đa
芳草 離 披 見 也 麼
Phương thảo ly phi kiến dã ma?
縱是 深 山 更 深 處
Túng thị thâm sơn cánh thâm xứ
遼天 鼻 孔 怎 藏 他
Liêu thiên tỵ khổng chẩm tàng tha

Mé nước, bờ rừng nhiều vết dẫm
Cỏ thơm tan tác thấy không nào?
Trong khoảng non cao và vực thẳm
Mũi hếch lên trời, dấu được sao?

Tranh vẽ người chăn tìm thấy vết chân, nhưng chưa thấy trâu. Có vết chân đi về phía Đông, có vết chân đi về phía Tây, có vết chân đi được một quãng thì biến mất, có vết chân đi về Đông rồi lại vòng qua Tây. Nhìn những dấu chân này người chăn biết được trâu quanh quẩn đâu đây, nhưng đi đâu để tìm thì là cả một vấn đề.
Đây là giai đoạn người tu tìm được thầy, hoặc đọc được một bộ kinh Phật đề cập đến việc tu hành. Ông tin tưởng Đức Phật và chư Tổ đã từng thể nghiệm Phật tánh và lưu lại những lời giáo huấn, và ông biết họ cũng như ông chỉ là một người thường, do đó ông nghĩ ông cũng có thể làm được. Nhưng ông vẫn chưa biết làm cách nào, và cách nào là tốt nhất.

1590. Thấy trâu

黃鶯 枝 上 一 聲 聲
Hoàng oanh chi thượng nhất thanh thanh
日暖 風 和 岸 柳 青
Nhật noãn phong hòa ngạn liễu thanh
只此 更 無 回 避 處
Chỉ thử cánh vô hồi tỵ xứ
森森 頭 角 畫 難 成
Sâm sâm đầu giác họa nan thành

Trên cành Hoàng oanh hót lảnh lót
Nắng ấm, gió hòa,bờ liễu xanh.
Chỉ là không còn nơi trốn nữa
Rừng rậm, đầu sừng khó vẽ thành.

Tranh vẽ người chăn sau một khoảng thời gian tìm kiếm, đã thấy sau một thân cây lớn, cái đuôi trâu thò ra. Ông cao hứng lắm mặc dù lúc đó ông vẫn chưa nắm được trâu. Sự thực thì ông cũng chưa nhìn rõ mặt trâu.
Đây là giai đoạn người tu thấy được bản tánh.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 11 Aug 2012, 7:54 PM | Message # 320
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1591. Được trâu.

竭盡 精 神 獲 得 渠
Kiệt tận tinh thần hoạch đắc cừ
心強 力 壯 卒 難 除
Tâm cường lực tráng tốt nan trừ
有時 纔 到 高 原 上
Hữu thời tài đáo cao nguyên thượng
又入 煙 雲 深 處 居
Hựu nhập yên vân thâm xứ cư

Đem hết tinh thần mới bắt được
Tâm cường lực tráng khó trừ ghê
Cao nguyên có lúc vừa lên tới
Lại tìm vào chỗ khói mây về.

Tranh vẽ người chăn đã dùng dây thừng xỏ mũi trâu. Hiện tại trâu đã ở trong tay người chăn. Nhưng trâu hãy còn dã tánh muốn sút thừng để chạy ra ven đường ăn cỏ, do đó người chăn phải dùng roi để điều phục nó.
Đây là giai đoạn người tu đã tự chứng ngộ toàn thể tự tánh, nhưng phiền não, tập khí hãy còn trong tâm. Khi hành giả gập một chuyện kích thích phiền não sẽ nổi dậy. Hành giả phải nỗ lực tu hành, giữ giới cho nghiêm (roi, dây thừng).

1592. Chăn trâu.

鞭索 時 時 不 離 身
Tiên sách thời thời bất ly thân
恐伊 縱 步 入 埃 塵
Khủng y túng bộ nhập ai trần
相將 牧 底 純 和 也
Tương tương mục đắc thuần hoà dã
鞭鎖 無 拘 自 逐 人
Tiên tỏa vô câu tự trục nhân

Roi thừng mỗi lúc chẳng lìa thân
Chỉ sợ chân kia lấm bụi trần
Cùng nhau chăn được thuần hòa vậy
Không roi mà cũng theo chủ nhân.

Tranh vẽ người chăn, một tay nhẹ nắm dây thừng, một tay cầm roi, có lúc đi trước, có lúc đi bên cạnh trâu. Một lúc nào đó trâu có thể muốn ngừng lại bên đường để gậm cỏ non, nên người chăn phải cảnh giác. Trâu đã ngoan ngoãn nghe lời nên người chăn không phải đánh đập mạnh bạo nữa. Nhìn bề ngoài người chăn và trâu không tốn nhiều sức lực.
Đây là giai đoạn người tu bồi dưỡng định lực. Nếu vào sâu được định cảnh thì có thể bứng hết gốc rễ của phiền não và tập khí.

1593. Cưỡi trâu về nhà.

騎牛 拖 邐 欲 還 家
Kỵ ngưu đà lê dục hoàn gia
羌笛 聲 聲 送 晚 霞
Khương địch thanh thanh tống vãn hà
一拍 一 歌 無 限 意
Nhất phách nhất ca vô hạn ý
知音 何 必 鼓 唇 牙
Tri âm hà tất cổ thần nha.

Cưỡi trâu chầm chậm trở về nhà
Khương địch vi vu tiễn chiều tà
Bao ý hàm trong ca và phách
Tri âm hà tất hé môi ra.

Tranh vẽ người chăn tự tại cưỡi trên lưng trâu, tuy thừng còn sỏ mũi, và roi thì người chăn gài trên lưng, nhưng vốn không xử dụng vì trâu đã hoàn toàn thuần thục, đã biết tự đi về nhà.
Đây là giai đoạn, 6 thức của người tu đã thanh tịnh, mọi phiền não đã hết. Khi tiếp xúc với ngoại cảnh, không bị ngoại cảnh làm phát khởi phiền não. Lúc đó thân, tâm, và thế giới hỗn nhiên hòa thành một thể, là thế giới của Phật.

1594. Quên trâu còn người.

騎牛 已 得 到 家 山
Kỵ ngưu dĩ đắc đáo gia sơn
牛也 空 兮 人 也 閒
Ngưu dã không hề nhân dã nhàn
紅日 三 竿 猶 作 夢
Hồng nhật tam can do tác mộng
鞭繩 空 頓 草 堂 閒
Tiên thằng không độn thảo đường gian.

Cưỡi trâu đã về tới núi nhà
Trâu đã không rồi, người cũng nhàn
Nắng đã ba sào, còn dệt mộng
Roi, thừng vứt ở xó nhà gianh.

Tranh chỉ vẽ người chăn, trâu thì đang ngủ, nhưng ngủ ở đâu thì không biết. Bức này và bức thứ nhất giống nhau ở chỗ chỉ vẽ người chăn, không vẽ trâu; nhưng khác ở chỗ ở đây người chăn ngồi ở nhà, không lo nghĩ gì cả.
Đây là giai đoạn người tu đã hết phiền não, không phải tìm cách đối phó với phiền não và mong cầu khai ngộ.

1595. Người trâu đều quên.

鞭索 人 牛 盡 屬 空
Tiên sách nhân ngưu tận thuộc không
碧天 遼 闊 信 難 通
Bích thiên liêu quách tín nan thông
紅爐 燄 上 爭 容 雪
Hồng lô diệm thượng tranh dung tuyết
到此 方 能 合 祖 宗
Đáo thử phương năng hợp tổ tông

Roi, thừng, người, trâu tất cả không
Trời xanh xa rộng khó tin thông
Ngọn lửa lò hồng tan hết tuyết
Tới đây mới thật hợp tổ tông.

Tranh vẽ một vòng tròn, người chăn và trâu đều không thấy tung tích. Ngoài vòng tròn trống không ra, không có một vật nào cả.
Người chăn chỉ người tu, trâu chỉ tâm, ở đây người và tự tánh hợp nhất; do đó người chăn và trâu đều biến mất.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 11 Aug 2012, 7:56 PM | Message # 321
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1596. Trở lại nguồn cội.

返本 還 源 已 費 功
Phản bản hoàn nguyên dĩ phí công
爭如 直 下 若 盲 聾
Tranh như trục hạ nhược manh lung
庵中 不 見 庵 前 物
Am trung bất kiến am tiền vật
水自 茫 茫 花 自 紅
Thủy tự mang mang hoa tự hồng.

Trở về nguồn cội đã phí công
Mắt mù, tai điếc nghe như không
Trong am chẳng thấy vật phía trước
Hoa hồng, nước vẫn chẩy mênh mông.

Tranh vẽ núi xanh, nước biếc, tạp trúc, mai vàng. Đó là từ định cảnh phản chiếu sinh hoạt hiện thật. Bất kể gập cảnh gì đều y khuôn mặt xưa nay mà coi sự vật, không khởi phiền não.

1597. Thõng tay vào chợ.

露胸 跣 足 入 廛 來
Lộ hung tiển túc nhập triền lai
抹土 塗 灰 滿 腮
Mạt thổ đồ hôi tiếu mãn tai
不用 神 仙 真 祕 訣
Bất dụng thần tiên chân bí quyết
直教 枯 木 放 花 開
Trực giao khô mộc phóng hoa khai.

Rũ bụi than nhơ cười rạng rỡ
Ngực trần, chân đất vào chợ đông
Từ cây khô chết hoa bỗng nở
Bí quyết thần tiên cũng chẳng dùng.

Tranh vẽ 1 vị hòa thượng tiêu sái,1 tay cầm túi vải,1 tay giơ ra, bố thí cho một người ăn mày nghèo khổ.
Tranh biểu thị người khai ngộ với lòng từ bi xử dụng những phương tiện thiện xảo cứu độ chúng sanh.
(Ngưu đích ấn tích)

1598. Ông tăng vô sự.

Đời Minh, có một ông tăng không thuộc vào một chùa nào, không ở một nơi nào nhất định, vân du tứ xứ. Một hôm ông đi ngang một ngôi chùa thấy tượng của 4 vị Thiên vương rất trang nghiêm, ông nghĩ bụng “Đây thật là chỗ tốt để nghỉ ngơi!” Ông bèn nằm ngay xuống chân tượng mà ngủ. Một ông quan đi qua trông thấy, nổi giận:
- Hòa thượng là ai? Dám lười biếng nằm đây mà ngủ?
- Lão nạp là một ông tăng không có việc làm.
- Cái gì? ngồi thiền, tụng kinh, lễ Phật làm pháp sự là việc làm của chư tăng sao thầy dám nói là không có việc làm?
- Những chuyện đó đối với ta vô can, ta đâu cần phải làm những chuyện này!
(Ngưu đích ấn tích)
Nghe lời nói này ông quan từ phẫn nộ trở thành lúng túng. Sau đó, ông ý thức được rằng ông tăng này không phải là một ông tăng thường mà là một người tu hành chân chánh, một ông tăng không có việc làm.

1599. Thiện ác như mây nổi.

Một ông tăng hỏi Phá Táo Đọa:
- Thế nào là người thiện?
- Thân mặc áo giáp, tay cầm giáo dài đi giết người.
- Thế nào là người ác?
- Tu thiền, nhập định.
- Trình độ con kém cỏi, xin thầy chỉ thẳng.
- Ngươi hỏi ta thế nào là ác, ta bảo ác không từ thiện đến, ngươi hỏi ta thế nào là thiện ta bảo ngươi thiện không từ ác đến.
Ngưng lại hồi lâu, lại hỏi:
- Ngươi hiểu không?
- Hiểu.
- Ác nhân không có thiện niệm, thiện nhân không có ác niệm; cho nên nói thiện, ác như mây nổi, không có chỗ sinh diệt.
Ông tăng ngay đó đại ngộ.
(Thiền thú 60)
Thiền sư thích hỏi Đông đáp Tây, hỏi Tây đáp Đông, mục đích là đảo ngược tư duy khiến người nghe xa lìa sự phân tích của lý trí, trực tiếp thấy suốt chân tướng của sự vật. Tư duy, lý trí là công cụ hoàn hảo để chia chẻ chân lý thành những mảnh vụn, khiến người ta dùng những khái niệm trừu tượng này mà kiến tạo nên một thế giới ảo tướng. Con người khó chấp nhận sự thực này: chính dùng lý trí để giải quyết những vấn nạn là nguyên tố khiến con người không khai ngộ được. Trong quan niệm thông thường giết người là ác, tu thiền là thiện. Thiền sư nói ngược lại là cảnh giác có phân biệt thì không thể khai ngộ được, càng phân biệt thì chấp trước càng sâu nặng.

1600. Giơ nắm đấm lên.

Khâm sơn giơ nắm đấm lên bảo đại chúng:
- Nếu nắm đấm mở ra thì bàn tay có các ngón tay dài, ngắn sai biệt, nay là nắm đấm thì không có dài ngắn. các ngươi nói Khâm sơn có thương lượng hay không thương lượng.
Một ông tăng lại gần Khâm sơn giơ nắm đấm lên. Khâm sơn nói:
- Như vậy, ngươi chỉ là một gã câm.
(Công án thiền cơ)
Khâm Sơn giơ nắm đấm chỉ không tướng của bản thể giới, nhiếp thọ chư căn, quy nhập thể tánh không. Khi thiền sư nói “Khi nắm đấm xòe ra thành bàn tay, thì các ngón tay dài ngắn khác nhau, vậy Khâm Sơn thương lượng hay không thương lượng?
Bàn tay có nhiều ngón tay dài ngắn khác nhau là chỉ hiện tượng giới vì có sai biệt dài ngắn (mở rộng ra : đẹp xấu, tươi khô, thành bại . . .) Nay tâm tánh vào không, bản tánh nhất như không có dài ngắn.
Như vậy là Khâm Sơn chỉ cho đại chúng Thể (nắm đấm) và dụng (bàn tay) là một. Khi ông tăng lại gần Khâm Sơn giơ nắm đấm lên là ông trụ ở không. Khâm sơn bảo ông: ngươi chỉ là một gã câm là hàm 2 ý:
1- Ông tăng thấy Khâm Sơn giơ nắm đấm lên cũng bắt chước giơ nắm đấm lên là thấy cảnh sanh tâm nên bị mắng.
2- Nếu quả thật ông tăng ngộ được không, chứng được thánh cảnh, thì cũng không được trụ tâm ở đó, vì đó chưa phải là cứu cánh, phải quay lại hiện tượng giới để chứng ngộ không hữu bất nhị.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 11 Aug 2012, 7:58 PM | Message # 322
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1601. Pháp thân có thọ khổ không?

Một lần Trường Khánh thượng đường, một ông tăng hỏi:
- Pháp thân còn thọ khổ không?
- Địa ngục há là thiên đường sao?
- Như vậy là có thọ khổ?
- Có tội gì chứ?
(Công án thiền có)
Khổ, lạc thuộc về ngũ uẩn. Pháp thân là không tướng, thanh tịnh làm sao có giác tri khổ mà thọ khổ? Ông tăng vì chưa khai ngộ pháp thân, không biết pháp thân là thế nào, có thể và không có thể làm gì. Nếu ông đã biết thể dụng của pháp thân thì mới có khả năng luận thuyết về hành tướng và công năng của pháp thân. Thiền sư không trực tiếp trả lời, nhưng những lạc thú ở thiên đường lại có liên quan đến đau khổ ở địa ngục sao? Trong quá trình tu thiền, nhị thiền lìa khổ lạc, tam thiền sinh định lạc, tứ thiền chứng nhất tánh cảnh không lạc, khổ. Đối với pháp thân thì địa ngục và thiên đường không sai biệt, không khổ, không vui. Ông tăng nói như vậy là có thọ khổ: rõ ràng ông là thuộc hàng sơ cơ, lại không chịu chăm chỉ tọa thiền để từ thành tựu sắc thân mà tiến đến những vấn đề hình nhi thượng. Lời của thiền sư có nghĩa là pháp thân có tội lỗi gì mà phải thọ khổ? Dù chúng sanh có thọ khổ, thọ lạc, pháp thân vẫn khách quan quan sát, nó vốn không thọ một bụi trần, nói gì đến khổ, lạc. Người bị nghiệp lực lôi cuốn. Pháp thân không sai lầm, không thấy khổ.

1602. Bài kệ của Ngũ tổ Pháp Diễn.

山前 一 片 閒 田 地
Sơn tiền nhất phiến nhàn điền địa
叉手 叮 嚀 問 祖 翁
Thoa thủ đinh ninh vấn tổ ông
幾度 賣 來 還 自 買
Cơ độ mai lai hoàn tự mãi
為憐 松 竹 引 清 風
Vị lân tùng trúc dẫn thanh phong

Trước núi, một mảnh ruộng bỏ không
Khoanh tay tha thiết hỏi Tổ ông
Mấy lần bán đi rồi mua lại?
Vì thuơng gió mát luồn rặng thông?
(Tổ đình kiềm chùy)
Pháp Diễn đến tham học Bạch Vân, bị Bạch Vân nạt, do đó mà ngộ, bèn làm bài kệ trên.

1603. Niệm Phật.

Có người nói:
Như con nít suốt ngày gọi mẹ: mẹ ơi! Mẹ à! Bà mẹ không thấy phiền sao? Cũng vậy cả ngày niệm A Di Đà Phật! A Di Đà Phật! A Di Đà Phật lại chẳng phiền sao?
(Phật pháp tu chứng tâm yếu)
Người nói câu này tưởng như rất thông minh, rất hiểu đạo lý, kỳ thực đây không phải là thông minh thật, còn là vọng tưởng. Thứ nhất ông không biết rằng Phật và phàm phu bất đồng, Phật là vô tâm tương ứng làm gì có phiền não? Thứ nhì ông không biết rõ niệm Phật. Niệm Phật không phải là kêu réo A Di Đà Phật mà là dùng Phật hiệu để tẩy tâm, cach diện miên mật chuyển di vọng niệm khiến tâm không tĩnh. Tâm là thổ, thổ là tâm. Tâm tĩnh tức Phật thổ tĩnh. Càng lâu càng thâm, tất được cực lạc tĩnh thổ, tự thấy A Di Đà Phật. Người nói câu này không hiểu đạo lý cứ như các lão ông, lão bà một lòng niệm Phật tốt hơn.

1604. Nguyệt Thượng Nữ.

Tôn giả Xá Lợi Phất vào thành, từ xa thấy Nguyệt Thượng Nữ ra thành. Xá Lợi Phất nghĩ thầm không biết vị đại tỷ này có thấy Phật không? đã đắc nhẫn hay chưa? Ta hãy đi hỏi xem, bèn lại gần hỏi:
- Đại tỷ đi đâu?
- Như Xá Lợi Phất vậy .
- Ta vừa muốn vào thành, đại tỷ vừa ra thành, làm sao nói giống nhau?
- Các đệ tử của Phật trú ở đâu?
- Ở đại Niết Bàn.
- Các đệ tử của Phật đều trụ ở Đại Niết Bàn, ta và Xá Lợi Phất cùng đi trú ở đó.
(Chỉ Nguyệt lục)
Nguyệt Thượng Nữ là con gái của cư sĩ Duy Ma Cật, theo Phật học pháp. Nhẫn: thọ hại mà không oán hận, có thể nhận biết chân như.

1605. Ngũ Thông.

Tiên Ngũ Thông hỏi Phật:
- Con có ngũ thông, Phật có lục thông, một thông ấy là gì?
Phật hỏi:
- Ngũ Thông!
- Dạ!
- Đó là nhất thông ngươi vừa hỏi ta.
(Chỉ nguyệt lục)
Lục thông là sáu thần thông mà Phật, Bồ tát do tu thiền định mà có. Đó là thần túc thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông. Đó là ngũ thông, thêm một thông nữa là lậu tận thông thì thành lục thông.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 11 Aug 2012, 8:02 PM | Message # 323
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1606. Đỉnh núi không mây.

Từ Minh thấy Khả Chân tới bèn hét:
- Bản sắc của người tu là biết thời tiết nhân duyên, hạ chưa xong ngươi có việc gì gấp mà tới đây?
Khả Chân khóc thưa:
- Thiệu sư huynh đối với con rất tốt cho con biết con chưa thật ngộ do đó trở về xin sư phụ chỉ điểm.
Từ Minh không rườm rà hỏi luôn:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
- Đỉnh núi không mây vờn, lòng sóng bóng trăng rơi.
Từ Minh trợn mắt, uy võ vạn phần thét mắng:
- Đầu ngươi đã bạc trắng cả rồi, răng cũng rụng gần hết, còn kiến giải như vậy, ngươi làm sao thoát vòng sinh tử?
Khả Chân khẩn khoản cầu Từ Minh chỉ thị .
- Được! Ngươi hỏi ta đi!
- Thế nào là đại ý của Phật pháp?
Từ Minh hét to:
- Đỉnh núi không mây vờn, lòng sóng bóng trăng rơi!
Khả Chân không ngờ Từ Minh nhắc lại câu nói của mình, thâm tâm chấn động, khai ngộ ngay lúc đó.
(Thiền thú 60)
Văn chương của Khả Chân rất hay, câu đáp của ông rất thi vị. Nhưng dưới mắt Từ Minh thì đó chỉ là trí giải chưa phải là chứng ngộ thật nên mắng ông một trận làm cho ông bị giao động tín niệm; khiến ông bỏ tất cả xuống, giống như một tờ giấy trắng. Việc mắng chửi này không phải là Từ Minh thiếu tu dưỡng, dễ nổi giận mà là thủ đoạn để bức bách khai ngộ. Từ Minh dùng phương pháp hét lớn để tăng thêm hiệu lực. Do đó Khả Chân mới thật chân chánh thâm kiến Từ Minh. Để cho đệ tự mình thâm cứ ngộ kiến đến trình độ nghiêm ngặt một giọt nước cũng không lọt, sau đó thiền sư mới khẳng định lại khiến đồ đệ trở thành long tượng của Thiền môn.

1607. Bính Đinh đồng tử đến xin lửa.

(Xem chi tiết ở công án 1035)
Các nhà tâm lý học ngày nay nhận rằng đối với một sự việc nếu ấn tượng đầu tiên là xấu sau đó sự việc chuyển thành tốt, thì ấn tượng sau cùng lại càng tốt hơn. Sự khai ngộ của Huyền Tắc cũng vậy. Mới đầu, sự khẳng định ngộ kiến chưa được mạnh mẽ, bị phủ định rồi lại được tái khẳng định thì thiên quân vạn mã cũng không làm lay động được. Văn Ích thật ra chẳng làm gì cả, chỉ nhắc lại câu nói của Huyền Tắc. Phương thức này gọi là “ gọi về mà không về” khiến đối phương từ phàm phu trở thành người khai ngộ. Đây là một kỷ sảo trong phương pháp giáo dục khiến người học khó quên.
(Thiền thú 60)

1608. Giáp Sơn và Phật Nhật.

Giáp Sơn hỏi Phật Nhật:
- Lúc chưa tới Vân Cư, ngươi ở đâu?
- Thiên Thai Quốc Thanh.
- Thiên Thai có sóng xanh vỗ ầm ầm, ngươi từ xa lại,ý tứ thế nào?
- Sống lâu trong hang hốc chẳng treo tùng la.
- Là xuân ý, thu ý?
Phật Nhật im lặng hồi lâu không đáp, Giáp Sơn phê bình:
- Ngươi chỉ là gã chèo thuyền không phải là khách đi chơi hồ.
(Thiền thất dữ công án đích áo bí)
Câu ngươi từ đâu tới bất tất phải hỏi, tuy nhiên đó là Giáp Sơn giăng bẫy ra cho Phật Nhật đâm đầu vào. Phật Nhật cũng là tác gia nên đáp ở Thiên Thai Quốc Thanh. Hai người đều giả vờ nên Giáp Sơn lại hỏi Thiên Thai có sóng xanh vỗ ầm ầm, ý ngươi thế nào? Rõ ràng là không có gì để nói, nói nhiều có ích gì? Thiên Thai là chỗ tốt đẹp, Phật tánh tự dõng xuất hà tất tới đây làm gì? Nơi đây chim không đẻ trứng, cỏ chẳng mọc. Không biết ngươi tới đây tâm ý thế nào?
Lúc đó Phật Nhật nói một câu thừa thãi:
- Sống lâu trong hang hốc, chẳng theo tùng la.
Lúc đó đáng nhẽ Giáp Sơn đánh cho Phật Nhật 30 gậy và đuổi ra là xong chuyện nhưng Giáp Sơn từ bi nên bảo:
- Là xuân ý hay thu ý?
Đó là có xuân, hạ, thu, đông biết bao dây leo. Phật Nhật không trả lời được vì không hiểu Giáp Sơn tùy duyên mà ứng cho nên im lặng. Cái im lặng này tuy là chiếu nhưng vô tác dụng; tuy ở trong hang hốc nhưng không biết diệu dụng của tùng la. Do đó Giáp Sơn từ bi phê bình: Ngươi chỉ là gã chèo thuyền chưa thể tiến vào bể tánh.

1609. Vốn đã giải thoát.

(Xem công án 773)
Con người sống trong tưởng tượng của mình. Tưởng tượng có phiền não, có Phật pháp để tu, có giải thoát để cầu. Đó chỉ là tạo tác, là vô minh, là chấp trước. Ngưng tưởng tượng, xem rõ chân tướng thanh tịnh, vốn hoàn mỹ không thiếu sót gì; không cần phải tạo tác thêm gì nữa. Chúng sanh khác Phật ở chỗ Phật cái gì cũng không có, còn chúng sanh thì có quá nhiều. Chúng sanh có nhiều vọng tưởng, nhiều dục vọng, nhiều quy phạm, nhiều tri thức, rất nhiều, rất nhiều. Khi Tăng Xán hỏi: “Ai trói ngươi?” Đạo Tín đáp: “Không ai trói”. Câu hỏi và câu đáp đều cao minh. Đoạn đối đáp trên có thể viết lại như sau:
- Xin thầy chỉ cho con pháp môn giải thoát.
- Ai trói ngươi khiến cho ngươi không được giải thoát?
- Chính là “ngã” (con)
- Cái “ngã” trói ngươi nay ở đâu?
- Con tìm không thấy cái “ngã” đó.
- Nếu không tìm thấy cái “ngã” đó thì còn bị nó trói sao?
- Không tìm thấy nên không bị cái “ngã” đó trói.
- Vậy ngươi đã được cởi trói rồi!
Đạo Tín ngay đó giác ngộ.
(Thiền thú 60)

1610. Vô Vị Chân Nhân.

(Xem công án 1030)
Vô Vị Chân Nhân là để mô tả tự tánh. Đừng quên, những gì mô tả chỉ là ngón tay trò mặt trăng. Tự tánh cũng chỉ là một từ miễn cưỡng mà dùng thôi. Vô Vị Chân Nhân là ngã chân chính, không có một vị trí nào, không thể xác định được nó ở một chỗ nào trong không gian, cũng không thể tu hành từng bước, từng bước mà lại gần nó. Cũng không thể dùng giác quan mà cảm nhận sự tồn tại của nó, cũng như dùng ngôn ngữ mà mô tả nó. Do đó, Lâm Tế dùng hình thức tỷ dụ nói Vô Vị Chân Nhân ở trên thân chúng sanh thường ra ra vào vào. Ông tăng hỏi Vô Vị Chân Nhân có dạng thức nào? Lâm Tế chỉ có cách giúp ông tăng tự thể nghiệm, chứ không thể dùng lời mà cho đáp án. Khi Lâm Tế túm lấy ông tăng buộc ông nói, không phải là ông mong đợi ông tăng trả lời mà là bức bách ông tăng khiến cho ông ta thấy không thể dùng lời nào để diễn tả mà thấy cái không thể thấy Vô Vị Chân Nhân. Bất hạnh là ông tăng mở miệng định nói thì Vô Vị Chân Nhân đã mất tiêu. Khi Lâm Tế nói Vô Vị Chân Nhân có phải là que cứt khô không là hàm ý nếu coi Vô Vị Chân Nhân là tâm ngẫu tượng, tâm linh hồn, tâm triết học huyền diệu thì chẳng thà vứt Vô Vị Chân Nhân vào thùng phẩn khiến khỏi làm hôi thối thế gian.
(Thiền thú 60)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 11 Aug 2012, 8:05 PM | Message # 324
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1611. Tâm và Pháp đều quên.

Một ông tăng hỏi Hoằng Thông:
- Tâm và pháp đều quên thì thế nào?
- Con ểnh ương ba chân vác coi trên lưng.
(Công án Thiền cơ)
Tâm có thể giác tri đã diệt, pháp nương vào nhân duyên mà sanh cũng không sanh cảm tri. Đó là tâm và pháp đều quên; lúc đó tâm giác tri có thể tri và cũng có thể ly; có thể chiếu nhưng không trú ở cảnh, gọi là bất giác, là chân như vô vi. Đó là cảnh giới Bồ tát tùy thuận giác tánh, đã chứng được chân như không thể, đối với các pháp đều tự tại vô ngại. Hành giả chứng được không tam muội: thấy tất cả mọi cảnh đều không có thật. Câu trả lời của thiền sư chỉ hành giả ngộ chân không có thể chứng được chân thật giải thoát tri kiến, có thể thoát ra mọi nghiệp duyên cho nên đối với mọi pháp đều có thể hóa giải dễ dàng. Vì tâm không chiếu nên không có cảnh chiếu, do đó tự tại vô ngại. Hành giả đạt tâm pháp đều quên là thần thông lực của hành giả. Hành giả không coi tâm lực, năng lực nào là có, tâm có thể chiếu diệt nên không có cảnh chiếu. Tâm và pháp đều quên: tự tánh không khởi vọng tánh tương ứng, các ngoại duyên không tạo thành cảnh.

1612. Thấy tánh thành Phật.

Kế Tông là một ông tăng ở Hoa Nghiệm Viện hỏi Vân Cư Trí thiền sư:
- Thấy tánh thành Phật là nghĩa gì?
- Tánh thanh tịnh vốn trong trẻo, không lay động, không thuộc sạch bẩn, dài ngắn, thủ xả, thể tự thảnh thơi. Thấy rõ như thế là thấy tánh. Tánh tức là Phật, Phật tức là tánh, nên nói thấy tánh thành Phật.
- Tánh đã thanh tịnh, không thuộc hữu, vô, vì sao có thấy?
- Thấy cái không thấy.
- Nếu không có vật để thấy làm sao còn có thấy?
- Chỗ thấy cũng không .
- Như vậy khi thấy thì ai thấy?
- Không có người thấy.
- Cứu cánh lý này thế nào?
- Ngươi biết không? Tất cả những gì gọi là có là do vọng tưởng mà có, cũng là nói bản tánh có thể y tha khởi tự tánh. Cái tự tánh đó, do đó có thể biến hiện, sản sanh cảnh biến hiện. Nếu người theo cái thấy mà sanh tình thì đọa vào vòng sanh tử. Người đã rõ, cả ngày trong trần cảnh, không khởi vọng tưởng đó là thấy tánh.
(Công án thiền cơ)
Qua đoạn đối thoại trên chúng ta thấy thiền sư đã chỉ cho ông tăng 3 điều:
1- Không có người thấy: chân tâm hiện lượng phản ánh ngoại trần mà sinh khởi tự tánh, pháp tướng. Pháp tướng này có thể không khởi vọng tâm chấp thủ, cảnh về cảnh, tâm về tâm, cho nên nói là không có người thấy.
2- Không có vật thấy: tánh vốn thanh tịnh, không có hình tướng, vậy làm gì có một vật gì để thấy.
3- Không có cái thấy: phàm phu thấy cảnh tâm khởi vọng niệm ưa, ghét. Người giác ngộ thấy cảnh biết đó là giả, tâm không khởi vọng niệm nên thấy mà như không thấy.
Nói cách khác: vốn không tự tánh làm gì có tánh để thấy, vốn tự tự nhiên làm gì có Phật để thành? Khi chưa thấy tánh muốn kiếm một tánh để thấy, thấy tánh rồi thì thấy không có một vật nào để thấy, tất cả đều là không, làm gì có Phật để thành.

1613. Cùng Đại Thiên.

Có ông tăng hỏi Thiệu Tu:
- Kiếp hỏa động nhiên đại thiên đều hoại, không biết cái đó có hoại không?
- Không hoại.
- Tại sao không hoại?
- Cùng đại thiên.
(Công án thiền cơ)
Ông tăng hỏi khi thế giới tới giai đoạn hoại diệt, từ tứ thiền thiên trở xuống đều hoại, lúc đó thể tánh của chúng ta có hoại không? Vấn đề này rất thú vị mặc dù còn lâu mới xẩy ra, nhưng rất nhiều người tu vẫn lo trời xụp, đều muốn biết rõ ràng là thể tánh có bị hoại hay không? Thế gian là do 4 đại: đất, nước, gió, lửa hợp thành. Khi hoại thì hỏa, thủy, phong sinh tai biến, cuối cùng địa đại bị bại hoại.
Theo Trường A Hàm Kinh thì khi thế giới hoại, ở giai đoạn kiếp hỏa, lửa của thế gian làm sao thiêu hủy toàn thế giới? Đương nhiên không phải, lúc đó sẽ xuất hiện 7 mặt trời nhiệt lượng phát sinh tiêu diệt tất cả vật chất ở thế gian. Hành giả chứng được pháp thân có thể đi khắp thập phương thế giới, đương nhiên không bị kiếp hỏa của ta bà thế giới ảnh hưởng. Thể tánh vốn không tự tánh, đại thiên thế giới diệt, thể tánh trở về hư không giới. Đại thiên thế giới diệt rồi, lại có đại thiên thế giới tái sinh. Thể tánh cùng đại thiên thế giới đồng tại.

1614. Cứu cánh không cảnh.

Nam Tuyền bảo một ông tăng:
- Đêm tới, gió mạnh.
- Đêm tới, gió mạnh.
- Thổi gẫy một cành tùng trước cửa.
- Thổi gẫy một cành tùng trước cửa.
Nam Tuyền lại gọi một ông tăng khác bảo:
- Đêm tới, gió mạnh.
- Là gió gì?
- Thổi gẫy một cành tùng.
- Là cành tùng nào?
Nam Tuyền kết luận:
- Một được, một mất.
(Công án thiền cơ)
Ông tăng thứ nhất luôn cảnh giác, nghe câu nói của thiền sư không động tâm, gập cảnh ứng cảnh nhưng không chấp cảnh, thuận miệng nhắc lại câu nói của thiền sư. Thể tánh của hành giả vốn tự không tịch, hán đến hán hiện, hồ đến hồ hiện, đêm tới gió lạnh, đêm tới gió mạnh hiện, thiền sư lại nói “Thổi gẫy một cành tùng trước cửa” là dụ ông tăng khởi vọng tưởng cành bị gẫy là cành to hay nhỏ, có làm ai bị thương không v . v .
Nhưng ông tăng không mắc bẫy chỉ nhắc lại câu nói của thiền sư, ông đã lấy cứu cánh không thể ứng vạn chủng duyên.
Ông tăng thứ hai, nghe thiền sư nói liền chấp vào cảnh, tâm sinh vọng tưởng phân biệt. Câu của thiền sư có nghĩa là ông tăng thứ nhất đã qua được cửa khảo nghiệm còn ông tăng thứ hai thì không.

1615. Phất tánh chân thật.

Ấn Tông hỏi Lục tổ:
- Thế nào là Phật pháp bất nhị?
- Pháp sư giảng kinh Nát Bàn đã rõ Phật tánh, đó là Phật tánh bất nhị. Như cao quý Đức Vương bồ tát bạch Phật:
- Phạm 4 trọng tội, 5 nghịch tội, cho tới Diêm Đề có đoạn thiện căn, Phật tánh không?
Phật đáp:
- Thiện căn có 2: một là thường, hai là vô thường; Phật tánh phi thường, phi vô thường cho nên không đoạn, gọi là bất nhị. Phật tánh phi thiện, phi bất thiện nên gọi là bất nhị. Uẩn và giới phàm phu thấy là hai, trí giả liễu đạt thì thấy không hai. Tánh bất nhị là Phật tánh. Ấn Tông nghe rồi chấp tay hoan hỷ.
(Công án thiền cơ)
Ấn Tông là một vị cao tăng đời Đường, người tỉnh Giang Tô, tuy có gặp ngũ tổ Hoằng Nhẫn nhưng cũng không có thành tựu gì. Sau giảng kinh Nát Bàn ở Pháp Tánh Tự ở Quảng Châu, gặp được Lục tổ. Phật pháp bao gồm tất cả các pháp của thế gian (tà pháp, chánh pháp), các pháp thiền định thế gian, xuất thế gian, xuất xuất xuất thế gian, đều là Phật pháp. Tổng quát tất cả các pháp đều gọi là Phật pháp vậy, pháp nào mới chính là pháp bất nhị? Theo như lời giảng của Lục tổ thì Phật tánh chính là bất nhị pháp môn. Không có đối đãi, thường vô thường, vui khổ, ngã vô ngã, không bất không, hữu tướng vô tướng v . v .
Ấn Tông nghe lời giảng tâm khai, ý giải sinh lòng hoan hỷ, chắp tay cung kính.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 11 Aug 2012, 8:07 PM | Message # 325
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1616. Từ bi.

Văn Thù đến thăm Duy Ma cật, hỏi:
- Tại sao cư sĩ bệnh?
- Vì chúng sanh bệnh nên tôi bệnh .
(Points of departure)
Đọc kinh Duy Ma Cật chúng ta biết đi thăm Duy Ma Cật không phải là một chuyện dễ dàng cho Văn Thù. Duy Ma Cật rất nghiêm khắc nên 12 người khác đã từ chối đi thăm ông. Đây không phải chỉ là vấn đề của Văn Thù mà là của cả chúng ta. Khi chúng ta từ chối không làm một việc mà chúng ta không thích, chúng ta sẽ không tiến bộ. Thật dễ dàng cho chúng ta khi chúng ta đi thăm một người không quá phức tạp hay một người mà khi gặp khiến chúng ta thoải mái. Nhưng chuyện này không giúp chúng ta tiến bộ. Vì vậy Văn Thù vâng lời Phật đi thăm Duy Ma Cật. Câu trả lời của Duy Ma Cật có ý nghĩa gì? Nhiều người nghĩ tôi khỏe mạnh, không bị cảm cúm. Dạ dày tôi rất tốt, không gì làm phiền tôi. Tôi không bệnh chút nào cả. Nhưng dưới cái nhìn của Phật Giáo thì có 2 loại bệnh: Một là vật lý và tâm thần, hai là tham, sân, si; ngộ nhận cái ngã cũng là bệnh. Do đó chúng ta đều bệnh. Duy Ma Cật biết Văn Thù cần phải hiểu cái bệnh này và rồi hiểu sự tử bi.

1617. Thầy của chư Phật.

Một ông tăng hỏi Vân Cư:
- Ai là thầy của chư Phật?
Vân Cư hét lên và thêm:
- Tên xà nô này!
Ông tăng lạy.
- Ngươi hiểu sao?
Ông tăng hét lên và thêm:
- Lão viện chủ!
- Cơ bản ta chẳng hiểu.
Ông tăng quay một vòng rồi ra. Vân Cư kêu lên:
- Gã ăn mày cứ bám sát bàn ăn.
(Zen and Zen classics)
Thầy của chư phật là Phật tánh của chư Phật, chúng ta chỉ hiểu sự kiện này khi Phật tánh của chúng ta bảo cho chúng ta biết.

1618. Tìm ta.

Giáp Sơn bảo một ông tăng:
- Hãy tìm ta trên đầu trăm cỏ, hãy nhận biết hoàng tử ở chốn chợ đông.
(Zen and Zen classics)
Đầu trăm cỏ chỉ hiện tượng thiên nhiên. Khi chúng ta thấy mặt trời mọc, lá rơi, cá bơi chúng ta sẽ hiểu lời Giáp Sơn nói. Hoàng tử chỉ ý nghĩa sâu xa chỉ tìm thấy ở thế giới hỗn loạn này chứ không phải ở cõi Phật.

1619. Phật và ma.

Một hôm có ông tăng tên là Hàng Ma đến tham phỏng bắc tông Thần Tú. Thần Tú hỏi:
- Ngươi tên là Hàng Ma, nhưng ở đây không có Sơn tinh, Mộc quái, ngươi biến thành ma sao?
- Có Phật, có ma.
- Nếu ngươi là ma tất trú ở cảnh giới không thể nghĩ bàn.
- Là Phật tức không, làm gì còn có cảnh giới chứ?
- Ngươi và Thiếu Hạo có duyên.
Hàng Ma vào núi Thiên Hạo, học tăng các nơi vân tập lại đó tham học.
(Công án thiền cơ)
Câu đáp một của Hàng Ma có nghĩa là: mọi người tu đều có tâm ma phải khắc phục. Do vậy thường nói ma do tâm sanh, nếu tâm chánh thì không có cảnh ma. Một niệm tâm giác là Phật, một niệm tâm mê là ma.
Câu đáp 2: tự tánh là không, làm gì có cảnh giới nào để nói? Trước hết phải chứng ngộ Phật tánh, lúc đó há còn ngại ma cảnh? Con tuy có tâm nguyện đạt cảnh giới hàng ma nhưng dụng pháp là không, chỉ là tuỳ duyên mà có danh hiệu Hàng Ma.
Câu cuối của Thần Tú là dự tri Hàng Ma sẽ là đại sư độ chúng ở núi Thíếu Hạo.

1620. Kiếm không mũi.

Một ông tăng hỏi Tào Sơn Bản Tịch:
- Thế nào là kiếm không mũi nhọn?
- Không thể rèn luyện thành.
- Dụng nó thế nào?
- Người gập đều mất mạng.
- Người không gập thì sao?
- Cũng rơi đầu.
- Người gập mất mạng đã đành, tại sao người không gập cũng rơi đầu?
- Ngươi không biết thấy đạo là xong hết sao?
- Xong hết rồi sao?
- Lúc đó mới biết có loại kiếm này.
(Công án thiền cơ)
Ông tăng thường nghe người ta nói kiếm không mũi nhọn, không hiểu ý là sao, cũng không biết cảnh giới này ra sao nên đặt câu hỏi với Tào Sơn. Kiếm không mũi nhọn là Phật kiếm. Kiếm này, thân kiếm không thể, mũi kiếm không tướng nên vô hình, vô tướng, có năng lực trừ khử tất cả mọi chướng ngại. Người được kiếm này có thể trừ khử được nghiệp chướng của mình (tự lợi), có thể tĩnh hóa những chướng ngại của người khác (lợi tha). Muốn có công năng này người ta phải đạt được chân không thực sự (trừ bỏ được ngã chấp, pháp chấp), nếu không tu mà nhập Phật tri kiến thì không thể chuyển nghiệp chướng của mình và của người.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 11 Aug 2012, 8:10 PM | Message # 326
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1621. Đại cơ, đại dụng.

Một hôm, Bách Trượng Hoài Hải huấn thị đồ đệ:
- Thiền giáo đại pháp không phải là chuyện nhỏ, ta lúc trước bị Mã đại sư hét một tiếng, tai bị điếc đến 3 ngày.
Hoàng Bá nghe sư phụ nói rồi thè lưỡi ra.
Bách Trượng hỏi:
- Ngươi về sau không muốn kế thừa thiền pháp của Mã Tổ sao?
- Hôm nay sư phụ nêu lên công án này khiến chúng con thấy đại cơ, đại dụng của Mã Tổ, nhưng còn chưa hiểu rõ người, giả như kế thừa thiền pháp của người sợ rằng về sau không tiếp dẫn được người học.
- Như vậy! như vậy! Kiến giải hơn thầy mới có thể đảm đương sự truyền thọ đại pháp, chỗ này ngươi hơn ta.
Hoàng Bá nghe rồi cung kính lạy tạ.
Về sau Quy Sơn hỏi Ngưỡng Sơn:
- Bách Trượng tái tham Mã Tổ, ý chỉ của 2 vị tôn túc này là sao?
- Chuyện này tỏ rõ đại cơ, đại dụng.
- Dưới trướng Mã Tổ xuất hiện 84 vị thiện tri thức, bao nhiêu người được đại cơ, bao nhiêu người được đại dụng?
- Bách Trượng được đại cơ, Hoàng Bá được đại dụng, còn lại là xướng đạo sư.
(Tinh Vân thiền thoại)
Đại cơ, đại dụng của Thiền môn chủ yếu là chỉ thẳng bản tâm, kiến tánh thành Phật. Chúng ta trong sinh hoạt hàng ngày cần tự do, tự chủ, có thể viên mãn, vui vẻ, tinh thần và vật chất hợp nhấy, trong ngoài là một, theo Phật đạo mà không thành Phật, theo chúng sanh mà không nhập vào chúng sanh, chỉ nói khai ngộ, chỉ nói cơ dụng. Đó là thiền vậy.

1622. Bí quyết sử sự.

Đời Đường, thiền sư Phong Can trú ở chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai. Một hôm tản bộ trong rừng bỗng nghe có tiếng trẻ con khóc. Ông tìm tới nơi thì là một đứa nhỏ y phục lôi thôi, nhưng tướng mạo kỳ vĩ. Hỏi thăm những nhà quanh đó, không ai biết đứa nhỏ là con cái nhà nào. Phong Can bất đắc dĩ phải mang đứa nhỏ về Quốc Thanh tự nuôi, chờ người đến nhận lãnh. Vì do Phong Can lượm về nên đặt tên là Xả Đắc. Xả Đắc ở Quốc Thanh Tự dần dần lớn lên, Phong Can cho ông lo việc nấu cơm. Xả Đắc làm quen nhiều đạo hữu, trong đó có một người nghèo khổ tên là Hàn Sơn. Hai người rất thân nhau, Xả Đắc thường dành cơm thừa cho vào ống trúc, trao cho Hàn Sơn mang về ăn. Một hôm Hàn Sơn hỏi xả Đắc:
- Nếu có người vô duyên, vô cớ bài báng ta, mắng chửi ta, cười cợt ta, khinh thị ta, lừa dối ta, ta phải làm sao mới đúng?
- Ngươi hãy nhường nhịn họ, kệ họ, xa lánh họ, tôn kính họ.
- Trừ những cái đó ra, còn bí quyết nào nữa không?
- Bài kệ của Bồ tát Di Lặc nói:

老拙 穿 破 襖
Lão chuyết xuyên phá ảo
淡飯 腹 中 飽
Đạm phạn phúc trung bão
補破 好 遮 寒
Bổ phá hảo già hàn
萬事 隨 緣 了
Vạn sự tuỳ duyên liễu
有人 罵 老 拙
Hữu nhân mạ lão chuyết
老拙 只 說 好
Lão chuyết chỉ thuyết hảo
有人 打 老 拙
Hữu nhân đả lão chuyết
老拙 自 睡 倒
Lão chuyết tự thụy đảo
梯嘩 在 面 上
Thê hoa tại diện thượng
隨他 自 乾 了
Tùy tha tự can liễu
我也 省 力 氣
Ngã dã tỉnh lực khí
他也 無 煩 惱
Tha dã vô phiền não
這樣 波 羅 蜜
Giá dạng ba la mật
便是 妙 中 寶
Tiện thị diệu trung bảo
若知 這 消 息
Nhược tri giá tiêu tức
何愁 道 不 了
Hà sầu đạo bất liễu
人弱 心 不 弱
Nhân nhược tâm bất nhược
人貧 道 不 貧
Nhân bần đạo bất bần
一心 要 修 行
Nhất tâm yêu tu hành
常在 道 中 辦
Thường tại đạo trung biện.

Lão vụng mặc áo rách
Cơm không, bụng no rồi
Áo vá che trời rét
Vạn sự tùy duyên thôi
Có người mắng lão vụng
Lão vụng lại chỉ cười
Có người đánh lão vụng
Lão vụng nằm ngủ thôi.
Nước mắt rơi trên má
Mặc nó tự khô đi
Nếu ta nhường một chút
Người chẳng nhọc thị phi
Pháp Ba La Mật đó
Chính là báu trong châu
Nếu biết được tin tức
Thành đạo có bao lâu
Người yếu tâm chẳng yếu
Người nghèo Đạo chẳng nghèo
Tu hành nếu quyết chí
Thường tại đạo nghêu ngao.

Nếu hiểu được tinh thần của bài kệ này thì đó là bí quyết sử sự.
(Tinh Vân thiền thoại)
Đài Châu Mục Lữ Khâu Dẫn hỏi Phong Can: ở đâu có chân nhân bồ tát? Phong Can bảo: Hàn Sơn, Xả đắc là 2 vị Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền hóa thân. Lữ Khâu Dẫn tới lễ bái, 2 người cười lớn bảo:
- Phong Can lắm chuyện, Di Đà chẳng biết.
Ý nói Phong Can là hóa thân của Phật Di Đà mà người đời chẳng biết. Nói rồi 2 người vào hang núi, không thấy nữa. Khâu Dẫn ghi chép những thi kệ của 2 người trên vách núi, còn lưu truyền đến ngày nay. Hàn Sơn, Xả Đắc không bị thế sự trói buộc, siêu thoát, tự tại. Đó là bí quyết xử thế.

1623. Phàm và thánh.

1- Đời Đường, Lâm Tế nói:
- Nếu ngươi còn yêu thánh, ghét phàm, thì ngươi hãy còn chìm nổi trong bể sanh tử.

2- Kế Tông ở Hoa Nghiêm Viện hỏi Vân Cư:
- Chân lý tối căn bản là sao?
- Phàm và thánh đều chỉ là danh, nếu theo danh mà giải thì rơi vào sanh tử.
(Trung Quốc Thiền Tông)
Cái gọi là chân lý tối căn bản là “tánh” của kiến tánh thành Phật. Trong cái tánh thanh tịnh này không có phàm thánh; nếu nói có phàm thánh là mê vọng. Phàm và Thánh chẳng qua chỉ là tên gọi mà thôi, do vọng tưởng sanh ra phân biệt. Chúng ta khái niệm hóa sự vật, gán cho sự vật danh xưng và tin tưởng đó chính là thật. Nếu nhận cái danh xưng tạm thời đó mà sinh kiến giải phân biệt thì chỉ rơi vào biển khổ sinh diệt.

1624. Trí Tạng và Huệ Trung.

Huệ Trung quốc sư hỏi Trí Tạng:
- Thầy ngươi dạy ngươi thế nào?
Trí Tạng từ Đông đi sang Tây rồi đứng lại.
- Chỉ là như vậy, còn có gì khác không?
Trí Tạng từ Tây đi sang Đông rồi đứng lại.
Huệ Trung xem cử động của Trí Tạng rồi lại hỏi:
- Đó là thiền pháp của Mã Tổ, còn của ngươi thì sao?
- Con sớm đã trình hòa thượng rồi!
(Trung Quốc Thiền Tông)
Huệ Trung quảng bác kinh luận, học và hành kiêm bị, ông ghét thiền giả phương Nam coi nhẹ kinh luận. Trí Tạng đối câu hỏi của Huệ Trung dùng hành động trực tiếp trả lời.
Trí Tạng đối với các vị thiền giả kiệt xuất của Trường An không chút sợ sệt, thái độ lỗi lạc quang minh biểu thị hành động của thiền phương Nam.

1625. Tâm là Phật.

Một hôm, Mã Tổ bảo đại chúng:
- Các ngươi nên tin rằng tâm các ngươi chính là tâm Phật. Đạt Ma từ Tây sang Trung Thổ chỉ là để truyền cái pháp nhất tâm này. Cái mà Đạt Ma khai thị chính là câu nói này ở kinh Lăng Già: Phật nói:
- Lấy tâm làm tông, lấy vô môn làm pháp môn.
(Trung Quốc Thiền Tông)
Thiền của Mã Tổ đặt căn bản ở đốn ngộ. Ông chủ trương người lãnh ngộ câu “Tâm là Phật” là Phật, người không ngộ câu này là chúng sanh. Do đó, ngoài chúng sanh không có Phật.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Bảy, 11 Aug 2012, 8:12 PM | Message # 327
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1626. Bài kệ của Bảo Tích.

Đời Đường, Bàn Sơn Bảo Tích làm bài kệ sau:

心若 無 事
Tâm nhược vô sự
萬法 不 生
Vạn pháp bất sinh
意絕 玄 機
Ý tuyệt huyền cơ
纖塵 何 立
Tiêm trần hà lập

Tâm nếu vô sự
Vạn pháp chẳng sanh
Huyền cơ hết ý
Sao có bụi trần
(Thiền ngộ không nhân tâm)
Nếu trong tâm không có phiền não, vô minh thì mọi sự việc đều tự nhiên chu biến, viên dung, nơi nơi đều thấy hoa xuân thơm đẹp.

1627. Đảm đương.

Dược Sơn bảo Cao sa di:
- Ngươi biết không, tâm người ta náo nhiệt như thành Trường An.
- Trong tâm con quốc thái dân an.
- Sự thể ngộ đó do ngươi đọc kinh hay do ngươi thỉnh ích mà có?
- Không do đọc kinh, cũng không do tham học.
- Có người không đọc kinh cũng không tham học vì sao không được nó?
- Không phải là không thể ngộ được mà là không chịu đảm đương.
(Thiền ngộ không nhân tâm)
Người chịu đảm đương dù gặp hoàn cảnh nào: tốt hay xấu, thuận hay nghịch, đều có thể từ định phát huệ mà giải quyết vấn đề. Người đó không oán trách, không đố kỵ, trong tâm thường tự tại.

1628. Bài kệ của Phật Quốc Bạch thiền sư.

山上 山 僧 山 下 牛
Sơn thượng sơn tăng sơn hạ ngưu
披毛 戴 角 混 同 流
Phi mao đái giác hỗn đồng lưu
普天 成 佛 與 成 祖
Phổ thiên thành Phật dữ thành tổ
獨有 潙 山 作 水 牛
Độc hữu Quy Sơn tác thủy ngưu.

Trên núi là tăng, dưới núi trâu
Đội sừng, da khoác khác gì đâu
Thiên hạ thành Phật thành tổ cả
Quy Sơn lại chỉ thích làm trâu.
(Thiền môn khai ngộ thi)
Bạch thiền sư ghi lại chuyện Quy Sơn muốn xuống núi làm trâu (Xem công án 1072)

1629. Nghiệp lực.

Có ông tăng hỏi Phổ Sơn:
- Địa,thủy, hỏa,phong làm sao biến thành chấp hữu?
- Nước lặng không sóng, bọt nước là do gió tạo.
- Bọt trở về nước thì sao?
- Nước không vẩn đục, cá, rồng tha hồ bơi nhẩy.
(Thiền ngộ dữ thực hiện)
Ở hiện tượng giới, hữu tình và vô tình đều do nghiệp lực sai khiến, nó khiến chúng ta tạo ra muôn vàn tạo tác.

1630. Một tiếng hét.

Lâm Tế sau khi bảo Tam Thánh:
- Ai ngờ chánh pháp nhãn tạng của ta bị tiêu diệt ở trong tay con lừa mù này!
Nói xong đoan tọa mà tịch. Huệ Nhiên thưa:
- Lão sư, bình thường có người đến tham phỏng thầy đều hét một tiếng lớn, tại sao chúng con lại không học được một tiếng hét lớn như thầy?
Lâm Tế mở mắt ra nói:
- Ta sẽ không để cho các ngươi mô phỏng.
Nói rồi Lâm Tế liền nhập diệt.
(Tinh Vân thiền thoại)
Thiền giả không thích mô phỏng. Hoàng Bá dùng gậy, Lâm Tế hét, Triệu Châu trà, Vân Môn bánh hồ, mỗi người tiếp đãi học nhân 1 cách riêng. Đó là gia phong của họ. Thiền giả phải trên đầu không mái ngói che. Dưới không tấc đất để chân. Tất cả đều phải tự mình sáng tạo.

Các Sách Trích Dịch

Bích Nham Lục bạch thoại chú giải Hứa Văn Cung
Bình Thường Tâm Thị Đạo Bồ Đề Học xã
Ch’an and Zen Teaching Lu K’uan Yu
Chích Thủ Chi Thanh Dư Tiến Phu
Đồ giải thiền vấn đáp Trần Hòa Chương
Entretiens de Lin-Tsi Paul Demiéville
Hảo Tuyết phiến phiến Lâm Thanh Huyền
Hương Thủy Hải Lâm Thanh Huyền
Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông Bồ Đề Học Xã
Mumonkan & Hekiganroku Katsuki Sekida
Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ Long Mãn
Nhất Vị Thiền - quyển phong Lý Anh Đệ
- quyển hoa Hoàng Tĩnh Nhã
- quyển nguyệt Lâm Tân Cương
Niêm Hoa vi Tiếu Cố Vĩ Khang
Phật dữ Thiền Minh Kính
Sinh hoạt Thiền Dương Huệ Nam
The Center Within Gyomay M. Kubose
Thiền Cơ Lâm Minh Dục
Thiền Cơ Sử Nễ Tại Chân lý Trung Giác Tình Viên Thông
Thiền Đích Cố Sự Hựu Nhất Tập Giản Huệ Căn
Thiền Lâm Tuệ Ngữ Vân Lăng
Thiền Lý Dữ Nhân Sinh Bồ Đề Học Xã
Thiền Ngộ Bình Điền Tinh Canh
Thiền Ngoại Thuyết Thiền Trương Trung Hành
Thiền Sinh Mạng Đích Vi Tiếu Trịnh Thạch Nham
Thiền Sư Khải Ngộ Pháp Thái Vinh Đình
Thiền Tông Dật sự Đạo Long
Thiền Tông Tọa Thạch Minh Bồ Đề Học Xã
Thiền Tông Trí Tuệ Ngữ Lục Bồ Đề Học Xã
Thiền Tông Công Án Bí Truyền Dư Tiến Phu
Thiền Thuyết Thái Chí Trung
Thiền Viên Vương Trần Canh
Tinh Vân Thiền Thoại Tinh Vân
Trung Quốc Thiền Khang Hoa
Vô Môn Quan bạch thoại chú giải Thánh Tham
Zen Koans Gyomay M. Kubose
Zen Light Barragato


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 13 Aug 2012, 5:20 PM | Message # 328
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
Quyển Chung


1631.- Quét lá vàng.


Mùa thu tới rồi, lá vàng rụng nhiều. Một chú tiểu phụ trách quét sân chùa, mỗi sáng đều phải dậy sớm quét lá. Mỗi sáng chú đều phải quét sân rất lâu mới xong. Chú cho đây là một việc làm khổ sai, nên thường than thở. Một hôm, một vị thượng tọa bảo chú :
-Sao chú không rung cây cho lá rụng, hôm sau khỏi phải quét.
Chú tiểu vui mừng làm y lời, nghĩ bụng sáng mai được nghỉ một bữa khỏi phải dậy sớm để quét lá sân chùa.
Ngày hôm sau trở dậy, chú tiểu lại thấy sân chùa đầy lá vàng. Lúc đó, lão hòa thượng chạy lại bảo :
-Dù hôm nay chú dùng sức lay cây, ngày mai lá vẫn cứ rơi.
Chú tiểu nghe rồi, có chút tỉnh ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Ở đời có nhiều chuyện không thể tính trước được. Chúng ta hãy sống trong hiện tại.

1632.- Kho báu nhà mình.

Đời Đường, Đại Châu Huệ Hải là một đệ tử nổi danh của Mã Tổ Đạo Nhất. Một hôm có người hỏi ông :
-Phật là thế nào ?
-Hãy nhìn trước mặt, chẳng phải Phật thì là ai ?
Người đó nhìn ra phía trước, chỉ thấy núi xanh chập chùng nào thấy Phật ở đâu ? Đại Châu thấy người ấy không hiểu, bèn kể lại chuyện khi mình đến gập Mã Tổ. Mã Tổ hỏi :
-Ông từ đâu đến ?
-Con từ Việt Châu Đại Vân Tự tới.
-Ông đến đây làm gì ?
-Con đến cầu Phật pháp.
-Nơi đây tôi chả có gì cả, cầu Phật pháp cái gì ? Mình tự có kho báu không biết trân quý còn ra ngoài tìm kiếm gì nữa ?
-Không biết cái gì là kho báu nhà con ?
-Chính là người đứng trước mặt tôi đang hỏi pháp đó. Đó là kho báu nhà mình, có đủ tất cả không thiếu thứ gì, tự do xử dụng.
Đại Châu ngay đó đại ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Lãnh ngộ tự tánh rồi thì biết tự thân mình ẩn tàng vô hạn châu báu. (Xem thêm công án 235)

1633.- Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn.

Ngũ tổ Hoằng Nhẫn trú ở Hoàng Mai Song Phong Sơn tụ chúng giảng thiền. Đệ tử có hơn 700 người. Nam thiền, bắc thiền đều là môn hạ. Có ông tăng hỏi :
-Người tu học sao không ở thành thị mà lánh cư ở sơn cốc ?
-Các cột trụ chống nhà đại sảnh đều là dùng các cây mọc ở nơi núi sâu rừng thẳm, chứ không mọc ở nơi thị thành. Xa loài người tránh được đao kiếm làm tổn thương, do đó lâu dần mới trở thành đại thụ. Do đấy có thể biết ở nơi núi sâu rừng thẳm, xa lìa trần thế ưu phiền có thể tu thân dưỡng tánh, bồi dưỡng đạo tâm khiến đại thụ khai hoa, thiền lâm kết quả.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Hoằng Nhẫn chỉ ngồi thiền, không viết sách lập thuyết chỉ tùy tiện giảng thiền lý. Chúng ta khi học tập, nên giữ tâm bình thường, từng bước từng bước đạp thật trên đất.

1634.- Sanh và tử.

Có người hỏi một thiền sư về chuyện sanh tử, thiền sư hỏi ngược lại :
-Ông đã chết chưa ?
Người này ngạc nhiên không trả lời được, thiền sư tiếp :
-Muốn biết chuyện sanh tử, chỉ có mình tự thể ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Kỳ thực chuyện sanh tử cứ để thuận theo tự nhiên, khi nào nó đến thì đến. Chúng ta nên trân quý hiện tại.

1635.- Hương hoa cúc.

Một hôm, một thiền sư đi chơi núi mang về một cây hoa cúc. Ông đem trồng ở sân thiền viện. Ba năm sau, cúc sinh sôi nẩy nở thành vườn. Tới mùa thu, cả thiền viện đều thơm mùi hoa cúc. Dân chúng dưới núi đều ngửi thấy mùi thơm này, do đó lên chùa thưởng ngoạn. Họ không ngừng khen ngợi :
-Thật thơm quá !
Họ năn nỉ thiền sư cho vài cây đem về trồng. Thiền sư vui vẻ đồng ý. Dòng người xin cây liên tục không dứt. Không lâu vườn cúc trống không. Các đệ tử nhìn vườn cúc thê lương than thở :
-Thật đáng tiếc ! Đang hương vị ngạt ngào thiền viện.
Thiền sư nghe được bảo :
-Như vậy càng tốt, 3 năm nữa thì toàn thôn đều ngát mùi hoa cúc.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Việc tốt phải cùng hưởng với người. Nhìn thấy người hạnh phúc là hạnh phúc nhất của mình.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 13 Aug 2012, 5:23 PM | Message # 329
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1636.- Tâm không.

Có một vị thiền tăng Ấn Độ tu đắc tha tâm thông. Ông đến thăm thiền sư Tổ Tâm, cầu sư kiểm chứng. Tổ Tâm tưởng đến một cảnh rồi hỏi :
-Tâm lão tăng hiện ở đâu ?
-Núi cao sừng sững. sông nhỏ nước chẩy siết.
Thiền sư gật đầu, lại chuyển tâm niệm vào thiền cảnh vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô thế gian tướng, vô động tĩnh tướng rồi hỏi :
-Tâm lão tăng hiện ở đâu ?
Thần tăng cố hết sức nhưng không nhìn ra.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Tổ Tâm vào cảnh giới thiền định rồi, tâm không một vật, do đó không có vết tích gì khiến thần tăng có thể nhìn thấy được. (Xem thêm công án 388).

1637.- Chén nước trà phản chiếu cả càn khôn.

Chương thiền sư, lúc còn là một vân thủy tăng từng đến tham học Đầu Tử, giữ chức Sài Đầu (coi việc củi nước). Một hôm gập Đầu Tử. Đầu Tử đưa cho ông một chén trà để ủy lạo và hỏi :
-Ông thấy chén trà này thế nào ?
-Bao la vạn tượng đều nằm trong đây.
-Nếu hớp một ngụm cạn hết thì sao ?
Chương thiền sư hắt chén trà đi, hỏi :
-Bao la vạn tượng giờ ở đâu ?
-Tiếc thay một chén trà !
-Chỉ là một chén trà sao ?
-Tuy chỉ là một chén trà, nhưng bao la vạn tượng đều nằm trong đó.
Chương thiền sư không đáp được.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Một chén trà tuy nhỏ nhưng có thể phản chiếu cả càn khôn, tâm tuy vô tướng nhưng bao gồm vạn tượng. (Xem thêm công án 324)

1638.- Dõng khí của người ăn mày.

Có một lần, một người ăn mày xin tiền một phú ông, lại còn nói trước là người quen. Phú ông nhìn kỹ thì nhận ra người ấy là Trương Tam Thiếu lúc trước là con nhà giầu có. Ông liền hỏi duyên cớ làm sao lại lâm vào cảnh này ? Người ăn mày cho biết vì một trận hỏa hoạn tất cả nhà cửa, tiền tài đều bị thiêu rụi thành tro. Để có tiền uống rượu ông đành đi ăn xin, hơn nữa uống rượu khiến ông ta có dõng khí mà ăn xin. Phú ông nghe rồi thấy được sự ngu muội của con người. Chúng sanh vì tửu sắc, tài khí mà bận rộn một đời. Ông bèn đi hỏi Huệ Khả. Huệ Khả cười cười bảo ông :
-Mặt trời mọc từ phương Tây chiếu vào cây sẽ không cho bóng.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Đừng lo lắng về tương lai, hãy quý mến hiện tại. Ít đi một chút lo lắng phiền não, nhiều thêm một chút thiện lương và bao dung nhất định cuộc sống sẽ vui vẻ, hạnh phúc.

1639.- Mặc áo, ăn cơm.

Thiền sư Mục Châu lãnh ngộ thiền học rất sâu, nên có nhiều người đến tham học. Một hôm, có một người đến hỏi :
-Mỗi ngày đều phải mặc áo, ăn cơm, cảm thấy phiền quá, không biết thầy có cách gì chỉ cho con thoát khỏi phiền não này không ?
-Mặc áo, ăn cơm.
Người này không hiểu, trầm ngâm suy nghĩ. Mục Châu lại bảo :
-Nếu như ông hãy còn chưa hiểu thì hãy mặc áo, ăn cơm.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Có nhiều người lo chuyện đời, cả ngày bận rộn không có lúc nào rảnh để hưởng thụ những nét đẹp của sinh hoạt trong đời sống. Họ nên quay về bản tâm, đối diện với sinh hoạt thì mặc áo, ăn cơm không còn là phiền não mà là trưởng dưỡng Phật tánh vậy. (Xem thêm công án 1131)

1640.- Phật chính là mình.

Một ông tăng hỏi Huệ Trung :
-Trâu, chó có Phật tánh không ?
-Có.
-Tại sao ?
-Vì là chúng sanh, chúng sanh đều có Phật tánh.
-Phật tánh là cái gì ? Có thể thấy, tưởng đến hoặc cảm giác được không?
-Chỉ có thể ngộ được.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Phật là một loại trí tuệ Thanh Tịnh soi sáng tất cả mọi hành vi, chỉ có ngộ rồi mới biết được bản nguyên, nơi nơi đều không tịch.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 13 Aug 2012, 5:27 PM | Message # 330
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1641.- Cháo đã nguội rồi.

Long Nha là một thiền sư đọc nhiều sách vở, giỏi lý luận. Một hôm, một học tăng mới vào thiền viện được 2 ngày, trong bữa ăn sáng đã vội hỏi thiền sư :
-Con có vài câu hỏi xin thầy chỉ giáo : thứ nhất linh hồn của chúng ta có bị hủy diệt không? Thứ hai chúng ta có nhất định bị luân hồi không ? Thứ 3 nếu bị chuyển thế những ký ức của kiếp này có giữ được không? Thứ 4 . . .
Ông tăng còn đang định hỏi nữa thì thiền sư bỗng cắt ngang :
-Cháo của ông đã nguội rồi kìa !
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Ngồi mà luận đạo chẳng thà ngồi thiền. Hãy sống trong hiện tại là việc quan trọng nhất. Có một số người không thực tế, cứ sống như người đi trên mây, tất nhiên không thể có thành tựu gì.

1642.- Tạp dịch.

Bạch Ẩn là một vị thiền sư nổi tiếng một thời. Ông thâu nhận nhiều đồ đệ và tự mình chỉ dạy họ tham ngộ thiền đạo. Về già, một hôm đang thu dọn chăn, mùng, một đệ tử mới nhập môn kinh ngạc hỏi :
-Sao thầy lại làm những tạp dịch này, để chúng con làm cho.
Ý ông tăng là thầy hãy để thời gian mà tu hành, những chuyện vụn vặt này để các đệ tử làm là được rồi. Bạch Ẩn không vui bảo :
-Nếu làm tạp dịch không phải là tu hành, vậy Phật tổ sắc thuốc cho đệ tử gọi là gì ?
Ông tăng ngay đó tỉnh ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Chỉ cần có lòng, trong sinh hoạt hàng ngày chỗ nào cũng có thể tu.

1643.- Mơ xanh.

Cát Châu Đam Nguyên Sơn Ứng Sơn là thị giả của Nam Dương Huệ Trung, một hôm đem một giỏ vào phòng phương trượng. Huệ Trung hỏi :
-Trong giỏ có gì vậy ?
-Mơ xanh.
-Ông mang mơ xanh đến làm gì ?
-Cúng dường chư Phật, Bồ Tát.
-Mơ xanh còn chua lắm, làm sao cúng dường?
-Nói cúng dường chỉ là để tỏ lòng thành.
-Chư Phật, Bồ Tát không tiếp thu mơ chua đâu, tôi thấy ông chỉ tự cúng dường mình thôi.
-Hiện tại con đã cúng dường : tâm, Phật, chúng sanh không sai biệt hà tất phải so sánh ? Còn quốc sư thì sao ?
-Tôi không cúng dường.
-Vì sao ?
-Tôi không có mơ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Mơ xanh chỉ tâm chưa thông đạt. Đam Nguyên tâm còn chấp có Phật để cầu, để cúng dường. Tâm không nhiễm trần, cứ tùy theo tự nhiên, không tạo tác đó mới thực sự là cúng dường. (Xem thêm công án 394.)

1644.- Ăn gà trị bệnh.

Lúc trước có một ông lang chẩn bệnh cho một người mang bệnh nặng và cho một phương thuốc trị bệnh rất đơn giản là ăn thịt gà rừng. Bệnh nhân ăn xong một con gà rừng cảm thấy mình khỏe ra, ông ta không ăn nữa, nghĩ mình đã khỏi bệnh rồi. Kết quả là bệnh không khỏi.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Trị bệnh cần phải có thời gian, tu hành cũng cần phải trải qua một quá trình tu học, không phải đùng một cái là xong.

1645.- Vẹt học nói.

Hàn Dũ đến thăm Bảo Thông, hỏi :
-Thầy bao nhiêu tuổi ?
Bảo Thông giơ chuỗi hạt lên hỏi :
-Hiểu không ?
-Dạ ! Không.
-Ngày đêm 108.
Hàn Dũ không hiểu, hôm sau lại đến gập thủ tọa bèn đem chuyện hôm trước ra hỏi. Thủ tọa nghiến răng 3 lần. Khi gập Bảo Thông, Hàn Dũ nhắc lại câu hỏi. Bảo Thông cũng nghiến răng 3 lần. Hàn Dũ bèn nói :
-Nguyên lai Phật pháp không hai.
Bảo Thông hỏi là ý gì ? Hàn Dũ thuật lại chuyện đã hỏi thủ tọa. Bảo Thông vội gọi thủ tọa lại hỏi :
-Có phải ông trả lời như vậy không ?
Thủ tọa cười gật đầu. Bảo Thông liền đuổi thủ tọa ra khỏi viện.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Khi có người hỏi Bảo Thông thường nghiến răng để trả lời. Thủ tọa cũng bắt chước, lại ra vẻ đắc ý. Thiền là sáng tạo, chỉ bắt chước như vẹt là làm mất đi sanh mạng của Thiền.
(Xem thêm công án 1139)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 13 Aug 2012, 5:30 PM | Message # 331
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1646.- Ý chí kiên cường.

Một ông tăng hỏi thiền sư Trí Thông :
-Làm sao để thành Phật ?
-Ông vân du khắp nơi đã tìm ra chỗ an thân chưa ? Nếu chưa thì có đi mòn dép cỏ cũng vô ích.
-Làm sao mới thành Phật?
Trí Thông cười ha hả :
-Người có ý chí kiên định, dép cỏ rách thì đi chân không. Tâm còn bị phiền não trói buộc, sao có thể nói chuyện an thân, lập mạng ?
Ông tăng nhìn dép cỏ, hoảng nhiên đại ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Trong quá trình tu tập, phải có ý chí kiên cường mới có thể đối diện với nghịch cảnh và tìm ra phương thức giải quyết.

1647.- Hoàn tục.

Một ông tăng không chịu được sự cô tịch bèn hoàn tục; nhưng một tháng sau ông lại trở lại vì không chịu được người đời nói nhiều quá. Ít lâu sau ông lại xuống núi, rồi lại trở lại. Cứ thế 3 lần rồi. Một vị lão tăng bảo ông :
-Chẳng phải khoác áo cà sa mới là tin Phật. Ông hãy xuống chân núi mở một quán trà coi sao !
Ông tăng nghe lời xuống núi mở quán trà, sau đó cưới vợ, từ đó cuộc sống được ổn định.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Một người đi nửa đường chỉ làm được chuyện nửa đường. Chúng ta phải xét xem mình đang ở đâu rồi đặt ra mục tiêu để hoàn thành thì đời sống mới có ý nghĩa.

1648.- Phương trượng và ăn mày.

Một hôm có một gã ăn mày cụt một tay đến chùa xin tiền Phương trượng. Phương trượng bảo gã bê khối đá ở trước cửa chùa ra sau vườn thì sẽ cho gã tiền. Gã ăn mày nổi giận :
-Tôi chỉ có một tay làm sao bê đá ?
Phương trượng không nói một lời, chỉ dùng một tay bê tảng đá ra sau vườn. Gã ăn mày thấy vậy chỉ đành dùng một tay bê đá, mất cả tiếng đồng hồ mới làm xong. Phương trượng cấp cho gã một món tiền. Gã nhận tiền khom lưng cảm tạ.
-Đừng cám ơn tôi đó là tiền ông kiếm được.
-Con sẽ ghi nhớ lời này.
Một thời gian sau, lại có một gã ăn mày khác đến xin tiền. Phương trượng lại bảo gã bê tảng đá từ vườn sau ra trước cổng chùa thì sẽ cho gã tiền. Gã ăn mày này mặc dù có đủ 2 tay khỏe mạnh, nhưng gã chẳng làm, bỏ đi không thèm ngoảnh cổ lại. Đại chúng không hiểu ý thiền sư di chuyển đá để làm gì bèn hỏi. Phương trượng bảo :
-Bê đá tới hay lui thì giống nhau, nhưng chịu bê hay không thì khác.
Nhiều năm trôi qua, có một người giầu có đến chùa cúng tiền nhang đèn rất nhiều, khí độ bất phàm nhưng chỉ có một tay. Ông chính là gã ăn mày năm xưa vậy.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Phẩm cách của một con người gồm 2 điểm cơ bản : thứ nhất phải tự mình lao động, thứ nhì phải tự mình suy tưởng. Trong đời sống cạnh tranh ngày nay, con người phải dựa vào não lực và thể lực mới có thể đạt được hạnh phúc.

1649.- Ý nghĩa của mạng sống.

Một vị thượng thơ đến bái kiến Tào Sơn để hỏi về bản tánh. Đối với câu hỏi khó trả lời này, thiền sư im lặng cúi đầu ngẫm nghĩ. Ông chợt nhớ một chuyện ông có gập ở trên đường : một thiếu phụ đang mang thai, quần áo có nhiều mảnh vá, lưng đeo một cái gùi, tay dắt một bé gái. Bà ta tay lấm, chân bùn, đời sống rõ là lam lũ, nhưng mặt bà thì tươi rói. Thì ra bà ta đã hiểu mình muốn gì. Thiền sư hoảng nhiên đại ngộ, bèn cất tiếng gọi :
-Thượng thơ !
-Dạ !
-Điều cốt yếu là chính mình phải giác ngộ.
Thượng thơ nghe rồi có chỗ lãnh ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Đối với ý nghĩa của đời người không rõ, dùng phương pháp sai lầm mà sinh hoạt thì trong sinh hoạt chỉ làm mọi cho sinh mạng, thật đáng thương !

1650.- Cây nến tắt.

Một đệ tử hỏi Đức Phật :
-Phật chết rồi về đâu ?
Đức Phật giơ một cây nến đang cháy lên, một đệ tử khác sợ nến bị gió thổi tắt bèn lấy tay che.
-Lúc tắt thì tự nhiên sẽ tắt, lấy tay che có ích gì ? Tử vong cũng vậy. Đó là luật tự nhiên.
Một cơn gió thổi qua, cây nến bị thổi tắt ngóm.
-Nến tắt rồi, ánh sáng đi về đâu ? Cả 2 đều là một loại tiêu diệt. Ánh sáng tắt, cây nến còn vì nó là chính thể, Phật cũng vậy.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Sanh rồi tử, tử rồi lại sanh. Đây là một quy luật tự nhiên. Chỉ cần lúc còn sanh có được thành tựu đó là điều trọng yếu.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 13 Aug 2012, 5:33 PM | Message # 332
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1651.- Không thấy Long Đàm.

Đức Sơn đến tham Long Đàm, vừa vào cửa đã nói :
-Nghe tiếng Long Đàm đã lâu, nào ngờ khi tới nơi chẳng thấy Long cũng chẳng thấy Đàm ở đâu !
Long Đàm từ sau bình phong bước ra :
-Ông đã tự mình tới Long Đàm.
(Phật Pháp Tu Chứng Tâm Yếu)

Đây chính là lời tiếp dẫn của Long Đàm. Vì sao ? Vì kinh Kim Cương có nói : Nếu thấy các tướng là phi tướng thì thấy Như Lai. Giả như thấy Long, thấy Đàm là chấp tướng. Nếu không thấy Long, không thấy Đàm là lìa tướng mà thấy bản tánh vậy.

1652.- Gia đình Bàng Uẩn luận Đạo.

Một hôm Bàng Uẩn bỗng nói :
-Khó, khó, khó, mười tạ dầu mè trên cây vuốt.
Ý là học Phật, tu đạo rất khó, tương tự như đem dầu mè mà vuốt lên cây cột có được không? Cứ vuốt dầu lại chẩy xuống. Tại sao khó ? Vì người tu trải qua nhiều kiếp có tập quán chấp tướng, gập thuận cảnh thì cười ha hả, gập nghịch cảnh thì ưu sầu, khổ não. Kỳ thật các cảnh đó đều là giả, là không cả. Người đời không biết cho đó là thật, giữ chặt không buông, do đó nói học đạo thật là khó. Thực ra có khó không ? Không khó. Tại sao ? Vì chúng ta vốn là Phật, không phải là biến phàm phu thành Phật. Chỉ cần chúng ta đừng bị mê bởi cái giả của ngoại cảnh, tâm thường giác thì là Phật vậy. Do đó Lục tổ nói :
-Niệm trước mê là phàm phu, niệm sau giác là Phật.
Bàng phu nhân nói :
-Dễ, dễ, dễ, trên đầu trăm cỏ ý tổ sư.
Ý là học Phật tu đạo dễ, trong cả mọi sự việc, lìa mọi sự việc, lúc đó còn có cái gì ? Tâm không là ý tổ sư vậy. Đó cũng là ý của kinh Kim Cương : Nếu thấy mọi tướng là không tướng thì thấy Như Lai. Nếu lìa tất cả mọi tướng thì sự sự, vật vật đều là đại đạo, còn có gì là khó chứ ? Cho nên muốn học Phật, thành Đạo không khó, đừng sợ vì chúng ta vốn là Phật. Chỉ cần buông bỏ tất cả xuống, cái tâm niệm thanh tịnh ấy không phải là Phật thì là cái gì ?
Nhưng Bàng cư sĩ và phu nhân một người nói khó, một người nói dễ là còn chấp, chưa phải là cứu cánh; vì chân trí thì một pháp chẳng lập. Nói khó không đúng, nói dễ cũng không đúng. Do đó con gái của 2 người là Linh Chiếu nói :
-Cũng chẳng dễ, cũng chẳng khó; đói thì ăn, mệt thì ngủ.
Là quét đi vết tích của khó và dễ, quét đi mọi chấp trước đói ăn, mệt ngủ tự do, tự tại; an nhiên thọ dụng. Do đó mới chính là Thiên chân Phật. (Xin xem thêm công án 279)
(Phật Pháp Tu Chứng Tâm Yếu)

1653.- Biết sai thì sửa.

Đời Tấn, hòa thượng Pháp Ngộ là đệ tử của Đạo An, là trụ trì Trường Sa Tự. Trong chùa có một ông tăng vì say rượu, quên thắp hương trên bàn thờ Phật nhưng Pháp Ngộ cũng chỉ phạt nhẹ. Đạo An tuy ở xa nhưng nghe biết chuyện này, lấy một roi gai cho vào ống tre bọc lại, sai người đến đem trao cho Pháp Ngộ. Pháp Ngộ nhận được, mở ra thấy roi gai bèn nói :
-Đây là chuyện ông tăng uống rượu đây ! Do tôi dạy đệ tử không nghiêm mà nên. Thầy tôi gửi roi để cảnh cáo đấy !
Nói rồi sai thị giả đánh mõ chiêu tập đại chúng. Đặt roi gai trên bàn thờ, Pháp Ngộ thắp hương lạy rồi tới trước đại chúng nằm xuống, sai Duy Na đánh mình 3 roi. Sau đó rơi lệ tự trách, rồi đuổi ông tăng say rượu ra khỏi thiền viện.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Chuyện này được loan truyền và được mọi người khen ngợi. Pháp Ngộ là một vị thiền sư biết sai liền sửa.

1654.- Phóng sanh.

Có một bà lão định mang một giỏ ốc đổ xuống ao phóng sanh, một gã hung ác cướp lấy giỏ ốc, hét lên :
-Bà già nghèo khổ kia, bà biết đây là đâu không mà đòi phóng sanh ?
-Ngừng tay !
Mọi người trố mắt nhìn thì thấy một hòa thượng áo rách, tay phe phẩy một cái quạt xông tới. Đó chẳng phải là ai khác, chính là Tế Điên hòa thượng.
-Chúng sanh bình đẳng, phóng sanh là một chuyện lành ngươi sao dám ngăn trở bà lão ?
-Tế Điên ! Đây không phải là chuyện của ngươi, đừng có xía vô nếu không đừng có trách ta.
Gã hung ác vừa hét vừa giơ nắm đấm lên. Tế Điên cười ha hả :
-Trên đường gập chuyện bất bình, ta dĩ nhiên là phải nhúng tay.
Nói rồi Tế Điên đoạt lại giỏ ốc, chạy xuống đổ vào ao phóng sanh.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Phóng sanh là một hành động thực tế và trọng yếu của Phật giáo, lấy lòng từ bi mà giúp đỡ khổ nạn của chúng sanh.

1655.- Người câm nằm mộng chỉ mình biết thôi.

Một người câm nằm mộng, không có cách chi bảo cho người khác biết những gì mình thấy trong mộng. Câu này dùng để ví dụ cho sự thể nghiệm thực cảnh mà không thể dùng lời nói mà diễn tả ra được. Thiền giới cũng dùng các câu : Người câm ăn mướp đắng, nóng lạnh tự mình biết. Trong thơ của Hàn Sơn Tử cũng có câu :

Vui sướng chỉ một mình hay
Chẳng thể chia sẻ chuyện này với ai.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 13 Aug 2012, 5:36 PM | Message # 333
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1656.- Đừng giương cung người.

Ngũ Tổ Pháp Diễn nói :
Thích Ca, Di Lặc đều là nô tài của người ấy.
Người ấy là ai ?
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Người ấy chỉ tự tánh. Một người chân chánh làm chủ được mình thì không cần ăn trộm trí tuệ và học vấn của người về làm của mình; cũng bất tất phải đi sau người mà phụ họa. Từ tâm cảnh ta người chẳng hai mà xét thì lỗi người tức lỗi mình, cho nên không thể nói xấu người. Nói tóm lại “chuyện người mặc kệ”, ta có đếm tài sản của người cũng là vô dụng chẳng bằng tự giác vô vị chân nhân, thì ở mọi nơi đều làm chủ, rộng bước ngang dọc trong thiên hạ. Đó mới là thiền giả chân chánh.
(Xem thêm công án 207)

1657.- Ném cầu trên nước chẩy nhanh.

Một ông tăng hỏi Triệu Châu :
-Con nít vừa sanh có đủ lục thức không ?
-Giống như ném cầu trên nước chẩy nhanh.
Về sau ông tăng đó lại đến hỏi Đầu Tử :
-Triệu Châu nói ném cầu trên nước chẩy nhanh là có ý gì ?
-Từng niệm, từng niệm trôi chẩy không ngừng.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Mặt nước yên lặng nhưng bên dưới là dòng nước ngầm chẩy nhanh. Ném quả bóng xuống sẽ bị nước cuốn trôi đi. Đó gọi là động trong tĩnh. Con người ta cũng vậy, người đạt đạo bề ngoài coi như ngu si, là mặt nước yên lặng, nhưng kỳ thực là dòng nước chẩy nhanh. Đó gọi là người giác ngộ giống như chưa ngộ. Câu nói của Đầu Tử có nghĩa là niệm trước là niệm trước, niệm sau là niệm sau. Mọi lúc đều là chánh niệm, là liên tục của phi liên tục. (Xem thêm công án 161)

1658.- Đây chẳng phải là lửa sao?

Hòa thượng Quy Sơn (771-853) lúc còn trẻ, một tối đứng hầu trong liêu, sư phụ Bách Trượng hỏi :
-Ai?
-Là con, Linh Hựu.
-Ông nhìn xem trong lò còn lửa không ?
-Không còn lửa.
Bách Trượng tự lấy que cời lửa, chọc sâu vào đám tro, tìm thấy một tinh hỏa bèn chỉ cho Quy Sơn coi và bảo :
-Đây chẳng phải là lửa sao ?
Quy Sơn ngay đó tỉnh ngộ, lạy tạ rồi trình kiến giải. Bách Trượng bảo ông :
-Kinh Phật cũng có nói : Muốn biết nghĩa Phật tánh phải quán thời tiết, nhân duyên.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Thời tiết đến, đang mê biến thành ngộ; như đã quên mà chợt nhớ ra tự tánh mình vốn có sẵn, không phải nhận từ ai khác. Chư tổ chả đã nói rồi sao : “Ngộ rồi như chưa ngộ” Nếu đã vô tâm thì sẽ vô pháp, không còn tâm hư vọng phân biệt phàm thánh thì đó là tâm pháp, mọi người đều có đầy đủ nên gìn giữ cho tốt. (Xin xem thêm công án 1062)

1659.- Một mũi tên.

Hòa thượng Hưng Hóa (830-888) lúc sắp mất bảo đại chúng :
-Tôi có một mũi tên, không biết nên trao cho ai ?
Một ông tăng bước ra thưa :
-Xin trao cho con.
-Thế ông gọi cái gì là mũi tên ?
Ông tăng này học phương pháp của Lâm Tế hét lên một tiếng lớn, Hưng Hóa nện cho ông 5, 6 gậy rồi trở về phòng phương trượng. Sau đó kêu ông tăng đó vào hỏi :
-Chuyện vừa rồi ông có hiểu không ?
-Dạ, không hiểu.
Thiền sư lại nện ông 5, 6 gậy nữa, rồi ném gậy đi.
-Từ giờ trở đi, nếu gập người sáng mắt ông hãy trỏ cho họ mũi tên của tôi.
Bất Cố Am Hòa Sơn (1837-1917) có một công án như sau :
Ai cũng có một mũi tên, lúc thì là tên giết người (phủ định) lúc thì là tên cứu người (khẳng định). Hãy nói coi lão nạp thường dùng mũi tên nào ?
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Chỉ cần thâm hiểu “dùng mũi tên nào” là có thể ngộ được hàm ý trong câu nói sau cùng của Hưng Hóa. (Xem thêm công án 471).

1660.- Tham ngộ sanh tử.

Bàn Khuê, một thiền sư Nhật Bản, thuộc dòng thiền Lâm Tế, là người sáng tạo ra Tâm Bất sinh Thiền. Năm 16 tuổi ông xuất gia, đến năm 26 ông vẫn chưa khai ngộ. Cũng trong năm 26 tuổi vì tọa thiền ông bị bệnh, 7 ngày rồi mà cũng không ăn gì, cảm thấy cái chết đã gần kề. Bất giác ông suy nghĩ : Sống cũng tốt, chết cũng chẳng sao, mình cũng chẳng có gì để lưu luyến, chỉ là chưa có thành tựu gì đã lìa đời.Nghĩ tới nghĩ lui không dứt. Một hôm bỗng chuyển niệm đầu vạn vật trong thế giới này há chẳng thể dùng “bất sinh” để điều tiết sao ? Ta đã bao năm hao phí tâm lực khổ sở tìm tòi chẳng là ở đạo lý này sao ? Ông bỗng nhiên khai ngộ, như người chợt tỉnh ngủ, trong lòng không còn thấy khổ nữa. Ông sống đến 71 tuổi. Đối với thiền học Nhật bản, cống hiến của ông rất lớn.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Tử vong là khảo nghiệm lớn nhất của con người. Bàn Khuê khi đối diện với tử vong mới đạt ngộ. Thiền rất trọng vấn đề sanh tử giải thoát, hy vọng thiền sinh từ sanh tử nhận rõ thật tướng của sinh mạng, trừ bỏ tâm lý sợ hãi khi đối diện với cái chết.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 13 Aug 2012, 5:38 PM | Message # 334
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1661.- Là trâu hay là tăng.

Một hôm, Quy Sơn bảo đại chúng :
-Một trăm năm sau, lão tăng xuống núi làm một con trâu đực, tại sườn bên trái có viết 5 chữ “Quy Sơn tăng mỗ giáp”. Lúc đó nếu kêu ta là Quy Sơn Tăng thì ta không phải là con trâu đực, nếu kêu ta là con trâu đực thì ta không phải là Quy Sơn Tăng. Vậy ta hỏi các ngươi phải kêu ta làm sao ?
(Phật Pháp Tu Chứng Tâm yếu)

Nếu tâm ông không được tĩnh, chấp vào trâu hay tăng mà kiến giải thì không có lối ra. Trâu hay tăng nhất thời chỉ là giả danh, giả tướng. Từ chân tánh mà nói thì làm gì có tăng hay trâu. Lúc đó trong pháp hội không có ai đáp được. Về sau có một vị lão túc đáp được rất hay :
-Thầy không có tên khác !
Câu nói không đề cập đến tên mà cũng không lìa tên, đã nói bản lai không tên, lại tùy ý mà gọi tên. Vì không chấp vào tăng hay trâu, cũng không lìa tăng hay trâu, do đó vượt ra ngoài danh tướng. (Xem thêm công án 1005)

1662.- Bảo kiếm.

Có người hỏi thiền sư Huệ Minh :
-Bảo kiếm chưa mài thì sao ?
-Vô dụng.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Bảo kiếm chưa mài dĩ nhiên là không thể xử dụng. Người tu nếu tập khí còn chưa loại trừ thì không thể khởi dụng.

1663.-Rồng kêu trong cây khô.

Sư phụ của Lợi Hưu là Thiệu Âu (1504-1555) để diễn tả tâm cảnh của sá trà (một phương thức của trà đạo) đặc biệt dẫn Định Gia Thi trong Tân Cổ Kim Tập : “Nhìn về quá khứ, hoa không còn, hồng diệp cũng mất tiêu, chỉ còn lại căn nhà nhỏ bên bờ sông,trong buổi chiều thu.”
Đây nói về những đóa hoa đẹp đẽ của mùa xuân và những lá vàng rực rỡ của mùa thu đã không thấy nữa. Những làn gió vi vu nơi hoang vắng có thể hình dung được sự cảm ngộ của trà đạo và tịch tĩnh chăng ?
Nam Phương Lục đưa ra lời bình như sau :
“Nếu không hiểu ý hoa và hồng diệp thì càng sống lâu trong căn nhà nhỏ càng cảm thấy quá vắng lặng.”
Đây là một cái nhìn đặc biệt, nhưng Lợi Hưu lại dẫn Gia Long Thi trong Nhậm Nhân tập :
“Hy vọng chẳng những chỉ chờ xem hoa thôi mà còn có thể xem thấy ở nơi làng nhỏ phủ đầy tuyết những nụ non đã bắt đầu ló dạng.”
Trong cảnh cùng cực đã thấy phát sinh sức sống cũng giống như trong lòng cây khô rỗng gió lùa qua tạo nên tiếng rồng gầm.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Trong thiền định (tĩnh) chuyển thành trí tuệ (động). Đó là thiền, sanh mạng của trà. (Xem thêm công án 823)

1664.- Trà, Thiền một vị.

Một hôm, Giáp Sơn hòa thượng (805-881) thưởng trà xong bèn rót một chén đưa cho thị giả. Khi thị giả giơ tay ra nhận, hòa thượng rụt tay lại, hỏi :
-Cái này là cái gì ?
Thị giả không trả lời được, lúc đó nếu là ông, ông sẽ trả lời sao ? Từ xưa đến nay, người ta thường nói trà, thiền một vị. Lợi Hưu nói :
-Thưởng trà ở phòng nhỏ, lấy xách nước, kiếm củi, đun nước, pha trà cúng Phật làm Phật pháp đệ nhất để tu hành đắc đạo. Tôi cũng uống trà, bầy hoa, dâng hương, đều học theo hành tích của Phật tổ vậy.
Có một vị hòa thượng nhờ một chú tiểu trao một cành Bạch Sơn Trà cho cháu của Lợi Hưu là Tông Đản (1578-1658). Chẳng ngờ chú tiểu không cẩn thận để hoa trên cành đều rụng cả xuống đất, nhưng chú cũng thật tình kể rõ và xin lỗi Tông Đản. Tông Đản nhờ chú chuyển lời mời hòa thượng đến thưởng trà. Khi hòa thượng tới nơi thì thấy trong bình có cắm một cành khô, còn dưới đất là một đóa hoa trắng do các cánh hoa rụng xếp lại. Hòa thượng thấy cảnh tượng rất tự nhiên, tưởng như hoa còn sinh động trên cành.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Tông Đản đã học tập hành tích của Phật tổ, đã có thiền tâm vậy.

1665.- Vốn là Phật.

Có một ông tăng hỏi Hi Vận :
-Phật là ai ?
-Tâm ông là Phật. Phật là tâm; tâm, Phật không sai biệt; nếu lìa tâm thì không có Phật.
-Nếu nói tâm mình là Phật, vậy Đạt Ma từ Tây sang truyền gì ?
-Chỉ cho biết tâm là Phật, nếu hiểu được ý này thì vượt qua 3 thừa giáo pháp, mình vốn là Phật, không cần phải tu thành.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Phật và tâm là một thể. Phật là tâm, tâm là Phật, không có sai biệt. Cái tâm này là tự tánh, là tự ngã của mỗi người. Đó cũng là yêu cầu chúng ta coi trọng nội tâm.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 13 Aug 2012, 5:42 PM | Message # 335
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1666.- Cư sĩ và cao tăng.

Một vị cư sĩ trẻ đến thăm một vị cao tăng. Hai người nói chuyện tâm đầu ý hợp từ sáng đến trưa. Đến bữa trưa, một chú tiểu bưng lên cơm chay gồm một bát lớn và một bát nhỏ. Vị cao tăng đẩy bát lớn đến trước mặt cư sĩ mời ông ăn. Cư sĩ không từ chối ăn liền. Cao tăng rất bất mãn, tự hỏi sao lại có người không hiểu lễ nghi gì cả, do đó không đụng tới đũa. Cư sĩ ăn xong, ngửng đầu lên thấy cao tăng mặt đầy sắc giận, bèn hỏi :
-Sao thầy không ăn ?
Cao tăng yên lặng, cư sĩ cười nói :
-Thật không phải, quên cả mời sư phụ. Mời sư phụ dùng bữa.
Đợi cao tăng ăn xong rồi, cư sĩ bảo :
-Ăn cơm là ăn cơm, ai ăn cũng là ăn, hà tất phải mời mọc, ông mời, tôi nhường trừ phi là thầy không thật lòng mời tôi ăn bát lớn.
Cao tăng nghe rồi có chỗ lãnh ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Làm người quý ở chỗ thành thật, đừng quá câu nệ ở lễ nghi, khách khí.

1667.- Châu ở đâu ?

Một hôm Giác Năng hướng Nguyên Trưng thỉnh giáo Phật pháp :
-Trong quá trình tu tập tâm giác tri và tâm vọng tưởng như 2 rồng tranh châu, không biết con nào được ?
Nguyên Trưng nghe rồi không vui, bảo Giác Năng phải tự mình trừ bỏ vọng tưởng và tập khí tự nhiên sẽ biết con nào được châu. Nhưng Giác Năng cảm thấy mình đã trừ được vọng tâm và tập khí rồi nên càng thấy khó hiểu. Nguyên Trưng biết vậy nên hỏi lại :
-Nếu ông đã trừ được vọng tâm rồi sao lại không biết châu ở đâu ?
Giác Năng không trả lời được.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Là thiền giả, trong quá trình tu tập phải trừ bỏ vọng tâm và tập khí, gìn giữ cái tâm bình thường thì có thể tu thành chánh quả.
(Xem thêm công án 36)

1668.- Pháp bình đẳng.

Huệ Trung khi còn là đứa trẻ mười mấy tuổi, một hôm xin Lục tổ cho xuất gia :
-Xin thiền sư mở lòng từ bi thâu con làm đệ tử.
-Trong thiền tông con cháu Ngân Luân Vương, Kim Luân Vương mới xứng kế thừa pháp tử. ngươi chỉ là một thằng nhỏ chăn trâu ở nơi thôn dã sao có thể vào tông môn ?
-Thiền sư, vạn vật bình đẳng không có cao thấp, sao thầy có thể dùng lý do này làm trở ngại tâm con hướng thiện? Xin thầy từ bi thâu nhận con.
Huệ Trung tuy chưa quy y lại ở trong hoàn cảnh nghèo khổ nhưng dưỡng dục được đức tánh và có ngộ tánh cao được Lục tổ thâu nhận. về sau ông được các vua Huyền Tông, Trang Tông, Đại Tông tôn làm quốc sư.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Người có Nam Bắc, nhưng Phật tánh phổ chiếu thiên nam, địa bắc. Mọi người đều có Phật tánh, đều có khả năng tham ngộ và có cơ hội thành Phật.

1669.- Còn giận không ?

Có một phụ nữ tính tình cổ quái, hơi một chút là nổi giận. Bà ta cũng biết đây là tánh xấu, nhưng không tự kềm chế được. Do lời khuyên của bạn bè, bà ta tìm đến một vị cao tăng nhờ giúp đỡ. Gập mặt xong bà ta kể cho hòa thượng nghe và mong hòa thượng chỉ thị. Hòa thượng không nói một lời dẫn bà ta vào một thiền phòng rồi khóa lại, bỏ đi. Bà ta bỗng nhiên bị nhốt trong phòng vừa tối, vừa lạnh, hòa thượng cũng không nói cho bà ta một lời gì. Càng nghĩ càng giận, bà ta kêu gọi, mắng chửi, rồi van xin nhưng hòa thượng vẫn mặc kệ. Rất lâu sau đó, hòa thượng đứng ngoài cửa hỏi :
-Còn giận không ?
-Tôi chỉ giận mình tự nhiên nghe lời người ta mà đến đây.
-Chính mình còn không tha thứ cho mình, thì làm sao tha thứ cho người được ?
Hòa thượng bỏ đi, một lát sau trở lại hỏi :
-Còn giận không ?
-Không còn giận nữa.
-Tại sao ?
-Dù tôi có giận hay không cũng bị hòa thượng nhốt ở đây vừa tối, vừa lạnh.
-Thế lại còn tệ hơn vì bà cố nén giận, nên khi phát tác ra nó lại còn mãnh liệt hơn nữa.
Hòa thượng lại bỏ đi. Một lát sau trở lại hỏi :
-Còn giận không ?
-Không giận nữa.
-Tại sao ?
-Vì tôi không để hòa thượng làm tôi nổi giận vì hòa thượng.
-Bà còn chưa thoát ra khỏi cái giận.
Hòa thượng lại bỏ đi. Một lát sau bà ta tự động hỏi hòa thượng :
-Giận thật ra là cái gì ?
Hòa thượng không nói, dường như vô ý để chén trà trong tay rơi xuống đất. Bà ta bỗng nhiên tỉnh ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền )

Nếu tâm thông suốt không một vật, giận từ đâu lại ? Tâm có dục vọng giận liền sanh. Con người vì có nhiều dục vọng nên suốt ngày bị phiền não lôi cuốn. Nếu chúng ta có thể lãnh đạm với mọi sự việc thì tâm tự nhiên thanh tịnh.

1670.- Tham thiền là chuyện của bậc đại trượng phu.

Tịch Thất Nguyên Quang (1290-1367) có một bài thơ nói “Tham thiền là chuyện của bậc đại trượng phu, thân và tâm sắt đánh thành một phiến, các ông hãy nhìn mà coi chư Phật, Tổ lúc trước có ai phí thì giờ cho vọng tưởng?”
Trong Bích Nham Lục cũng có câu :
-Muốn chấn hưng thiền thì phải là bậc hào kiệt.
Tây Điền Thốn Tâm (Cơ Đa Lang) có nói :
-Nếu các ông có dõng khí mổ bụng thì mới nên nghiên cứu thiền.
Một vị thiền sư ứng dụng câu nói này bảo :
-Đối với các nữ thiền sinh tôi hỏi : “Các cô có dám cởi truồng trước mặt tôi không?”
Trong thực tế, ông ta cũng chỉ dám nhìn đến đầu gối của các cô mà thôi !
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Hai, 13 Aug 2012, 5:45 PM | Message # 336
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1671.- Sinh hoạt chân thật.

Biện thủ tọa, người đời Tống, trú ở Thê Hiền Tự, Lư Sơn, tánh tục không rõ, tinh thông Phật pháp, sử sự thích nghi nên được suy cử là thủ tọa.
Biện thủ tọa thường mặc áo vá, chân mang dép cỏ rách, chống một gậy trúc. Một lần qua Cửu Giang Đông Lâm Tự gập Hỗn Dung hòa thượng. Hỗn Dung trách :
-Ông làm thủ tọa đáng nhẽ phải làm gương cho đại chúng mới phải. Nay ông ăn mặc như vậy chả là tự khinh thị chính mình sao ? Làm mất cả thể thống !
Biện thủ tọa cười :
-Con người ta chỉ cần hợp ý là vui. Tôi sai ở chỗ nào ?
Bèn lấy bút viết một bài kệ :
勿謂 棲 賢 窮
Vật vị thê hiền cùng
身窮 道 不 窮
Thân cùng đạo bất cùng
草鞋 行 似 虎
Thảo oa hành tự hổ
拄杖 活 如 龍
Trú trượng hoạt như long
渴飲 曹 溪 水
Khát ẩm Tào Khê thủy
飢吞 栗 棘 蓬
Cơ thôn lật cức bồng
銅頭 鐵 額 漢
Đồng đầu thiết ngạch hán
盡在 我 山 中
Tận tại ngã sơn trung.

Chớ bảo Thê Hiền cùng
Thân cùng đạo chẳng cùng
Dép cỏ đi như hổ
Chống gậy tựa như rồng
Khát uống nước Tào Khê
Đói cỏ bồng hạt giẻ
Đầu đồng, cổ sắt hề
Đều trong núi này cả.

(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Hỗn Dung đọc xong bài kệ mắc cỡ, cảm thấy trình độ mình còn kém Biện thủ tọa rất xa.

1672.- Dị Kiến Vương và Ba La Đề tôn giả.

Dị Kiến Vương hỏi Ba La Đề tôn giả :
-Phật là thế nào ?
-Kiến tánh là Phật.
-Thầy có kiến tánh không ?
-Bần tăng kiến Phật tánh.
-Tánh ở đâu ?
-Tánh tại tác dụng.
-Tác dụng là thế nào ? Sao trẫm không thấy.
-Tác dụng rành rành, vương tự không thấy.
-Trẫm có thật sao ?
-Nếu vương tác dụng, không gì không phải. Nếu vương không tác dụng thì khó thấy Thể.
-Khi tác dụng Thể hiện ra ở đâu ?
-Nếu xuất hiện thì ở người đó.
-Xin nói rõ hơn.
-Ở thai gọi là thân, ở đời gọi là người. Ở mắt là thấy, ở tai là nghe, ở mũi là ngửi, ở lưỡi là đàm luận, ở tay là nắm giữ, ở chân là đi lại, ở khắp pháp giới, thâu lại thành một hạt vi trần. Người biết gọi là Phật tánh, người không biết gọi là linh hồn.
Vương nghe rồi khai ngộ.
(Phật Pháp Tu Chứng Tâm Yếu)

Tánh không thể dùng mắt thấy, tai nghe, trí để biết, thức để thức, nhưng có thể dùng Tuệ để quán chiếu, có thể lãnh ngộ. Cổ đức nói rằng Thể không hình tướng, nếu không có dụng thì không hiển lộ. Tánh không trạng mạo không tâm thì không minh. Khởi dụng chính là hiển thể, minh tâm thì mới kiến tánh. Đó là nói muốn kiến tánh thì phải bắt tay vào minh tâm. Nếu lìa tâm thì không có tánh nào để kiến vì thể của tánh là vô hình. Tâm là dụng, dụng không tướng thì không hiển lộ. Từ dụng của cái tâm hữu tướng có thể thấy Thể vô tướng của Tánh. Con người ta từ tư tưởng, sáng tạo, phát minh, công tác cho đến văn minh của thế giới ngày nay đều là tác dụng của tâm.

1673.- Vén mành.

Tại Thanh Lương Viện trước buổi thọ trai, Pháp Nhãn chỉ vào bức mành. Lúc đó có hai ông tăng ở đấy, cùng đến vén mành lên. Pháp Nhãn nói :
-Một được, một mất.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Cùng làm một việc, một người được chấp nhận (tốt), một người lại bị phủ nhận (không tốt). Cùng làm một việc nhưng trước khi ngộ và sau khi ngộ có sai biệt về cảnh giới và đạo lực. Nếu chỉ xét công án này dưới phương diện được mất, thắng bại thì không thể hiểu được kiến giải của thiền giả. Phải chặt đứt mọi giây sắn bìm (những phán đoán thị phi vô ý nghĩa) thì lập tức biến thành người có pháp nhãn. Hãy nhìn tay của thiền sư sẽ thấy quyền xác định hay phủ định đều trong tay ông.
(Xem thêm công án 202)

1674.- Ngồi lâu sanh mệt.

Có ông tăng hỏi Hương Nghiêm :
-Ý tổ sư từ Tây sang là sao ?
-Ngồi lâu sanh mệt.
(Lưỡng Nhẫn Tương Giao)

Đạt Ma tổ sư từ Tây sang là một đại nhân duyên. Do đó các thiền sư thích lấy “Ý tổ sư từ Tây sang” làm cơ phong. Các câu trả lời đặc sắc đã trở thành những công án trứ danh, trong đó câu trả lời của Hương Nghiêm là một. Đạt Ma tổ sư tới núi Thiếu Thất quay mặt vào vách mà ngồi thiền 9 năm, đã được người đương thời gọi là Bích Quán Bà La Môn. Câu trả lời của Hương Nghiêm là phủ định cái “ngồi” của Đạt Ma, ông hỏi Tổ, tôi đã vượt lên Tổ. Nhiều người khi luận về công án này không nhìn thấy khía cạnh này chỉ chú trọng đến chữ ngồi, ngồi lâu sanh mệt là chỉ cho chúng ta ngộ đạo và ngồi thiền là 2 chuyện khác nhau. Loại khế nhập này không thể bảo là sai. Vấn đề là lãnh hội “ngồi lâu sanh mệt” ở 2 chữ ngồi lâu. Nói cách khác là nếu không ngồi thì vô pháp nhập tọa cũng là sau khi ngồi lâu rồi sẽ bỏ được hình thức. Câu này cũng giống như câu nói của Thanh Nguyên Duy Chính “Khi chưa tham thiền thấy núi là núi, sông là sông. Khi có chỗ vào rồi thì thấy núi vẫn chỉ là núi, sông vẫn chỉ là sông.” Nếu không thể hội ngồi lâu sanh mệt thì không thể chân chính bỏ xuống pháp ích. Mọi người đều nói siêu phàm nhập thánh tông môn do đó đề ra siêu thánh nhập phàm.
Vấn đáp trên còn một đoạn nữa như sau :
-Khi quay lại thì sao ?
-Rơi xuống hố sâu.
Ngồi lâu thì sanh mệt, không ngồi thì rơi xuống hố sâu. Thiền sư đối với pháp là như thế, không rơi vào lưỡng biên, cứ trực tâm mà làm. Công phu này cần có thời gian như câu nói :
-Lão tăng 40 năm rồi mới đánh thành một phiến.
(Xem thêm công án 83)

1675.- Thuận theo tự nhiên.

Cỏ ở sân thiền viện héo vàng không còn chút sinh khí, chú tiểu bạch sư phụ, xin gieo hạt cỏ mới.
-Đừng gấp, lúc nào gieo chả được.
Không lâu thiền sư mua hạt cỏ về, sai chú tiểu đi gieo. Khi chú gieo hạt có một cơn gió mạnh thổi qua, một phần hạt cỏ bị thổi bay đi nơi khác. Chú tiểu lấy làm tiếc, sư phụ an ủi chú :
-Không sao ! Hãy còn một nửa mà.
Thế cũng chưa hết, một bầy chim sẻ từ đâu bay tới chăm chỉ mổ những hạt cỏ. Chú tiểu lại vào trình sư phụ.
-Chú đừng lo, chim sẻ ăn được bao nhiêu, thế nào năm tới cũng còn cỏ mọc.
Một đêm, có trận mưa lớn. Chú tiểu sợ nước cuốn trôi đi các hạt cỏ, sáng ngày hôm sau vội chạy ra xem thì thấy không còn hạt cỏ nào trên mặt đất nữa. Chú tiểu buồn muốn khóc, sư phụ an ủi :
-Nước cuốn hạt cỏ đến đâu nó sẽ mọc ở đấy, chú cứ để tùy duyên.
Không lâu, vườn thiền cỏ lại mọc xanh rì, những hạt còn lại đã mọc mầm. Chú tiểu vui mừng lại đi báo cáo sư phụ. Sư phụ chú gật đầu :
-Tất cả đều tùy duyên.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Trong cả câu chuyện, thiền sư lúc nào cũng giữ tâm bình thường. Đối với sự việc, ông thuận theo tự nhiên không cưỡng cầu gì vì ông biết rằng những gì trao ra nhất định sẽ được hồi báo.


Đại Bi Chú
 
ThiệnTâm Date: Thứ Ba, 14 Aug 2012, 2:31 AM | Message # 337
Major general
Group: Moderators
Messages: 365
Status: Tạm vắng
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 14 Aug 2012, 7:06 PM | Message # 338
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1676.- Ý Tổ sư từ Tây sang.

1.-Có ông tăng hỏi Long Nha :
-Ý Tổ sư từ Tây sang là sao ?
-Đợi rùa đá nói, tôi sẽ bảo cho ông.
-Rùa đá nói rồi !
-Nói gì với ông vậy ?
Ông tăng không trả lời được.

2.-Ngưỡng Sơn hỏi Quy Sơn :
-Ý Tổ sư từ Tây sang là sao ?
-Quy Sơn chỉ lồng đèn :
-Lồng đèn lớn tốt.
-Chỉ là cái đó sao ?
-Cái đó là cái gì ?
-Lồng đèn lớn tốt.
-Quả nhiên ông không thấy.

3.-Lại có ông tăng khác hỏi Quy Sơn :
-Ý Tồ sư từ Tây sang là sao ?
Quy Sơn giơ phất tử lên.

4.-Long Nha hỏi Thúy Vi :
-Ý Tổ sư từ Tây sang là sao ?
-Mang thiền bản lại đây.
Nha mang thiền bản tới, Thúy Vi cầm lấy đánh, Nha nói :
-Đánh thì cứ đánh nhưng còn : Ý Tổ từ Tây sang là sao ?
Nha lại đem hỏi Lâm Tế, Lâm Tế bảo :
-Mang bồ đoàn lại đây.
Nha đưa bồ đoàn tới, Lâm Tế cầm lấy đánh, Nha nói :
-Đánh thì cứ đánh, nhưng còn “Ý Tổ sư từ Tây sang là sao ?
Nha lại đến hỏi Động Sơn, Động Sơn bảo :
-Đợi Động Thủy chẩy ngược dòng tôi sẽ bảo cho ông biết.
(Thiền Tông Đại Ý)

Đây là một câu hỏi rất phổ biến trong khoảng 300 năm đời Đường. Cùng một câu hỏi sao có nhiều câu đáp không giống nhau ? Đó là vì căn bản của Thiền là siêu việt tất cả vô sinh pháp, lìa bỏ mọi hình thức, khái niệm cho nên tự tại vô ngại. Có thể nói toàn vũ trụ đều vì ý Tổ sư mà hiện tiền, vì vũ trụ vạn hữu đều tồn tại trong ý Tổ sư. Do đấy lấy một vật nào cũng là ý của Tổ sư, không có một khái niệm cố định nào. Bởi vậy các vị cao tăng, thiền đức tùy hoàn cảnh, cơ hội mà tự tại đưa ra câu đáp.
(Xem thêm công án 812)

1677.- Mũ cao, áo rộng.

Một đệ tử bái biệt sư phụ đi hành cước. Sư phụ quan tâm dặn đệ tử phải thận trọng trong mọi sự giao tiếp.
Đệ tử thưa :
-Dạ ! Con sẽ cẩn thận, con sẽ để họ đội mũ cao họ sẽ không phản cảm, ghét bỏ con.
-Ông thật khéo nghĩ.
-Dạ đúng thế, ai cũng muốn đội mũ cao, chỉ có sư phụ là không thích mà thôi !
-Tôi thật không thích đội mũ cao.
(Phật Pháp Tu Chứng Tâm Yếu)

Vậy đó, sư phụ đã bị đệ tử cho đội mũ cao rồi. Đối với chuyện tốt bất tri bất giác đã bị ô nhiễm. Vì vậy khi công phu chúng ta phải miên mật quán chiếu, không gián đoạn, không để sơ hở.

1678.- Bài kệ của Chân Tĩnh thiền sư.

人人 有 個 天 真 佛
Nhân nhân hữu cá thiên chân Phật
妙用 縱 橫 總 不 知
Diệu dụng tung hoành tổng bất tri
今日 分 明 齊 恉 出
Kim nhật phân minh tề chỉ xuất
斬蛇 舉 拂 更 由 誰
Trảm xà cử phất cánh do thùy.

Người người đều có thiên chân Phật
Không biết nhưng mà vẫn dùng hoài
Ngày nay phải chỉ ra cho rõ
Dựng gậy, chém rắn lại là ai ?

(Phật Pháp Tu Chứng Tâm Yếu)

Thiền sư là lão bà tâm thiết chỉ cho mọi người khỏi mất công tìm kiếm. Muốn biết khuôn mặt xưa nay không phải là khó. Bởi vì bản tánh chẳng ở nơi đâu khác mà ở ngay trước mắt ta. Tiếc vì người đời không biết, chỉ vì bị khốn quẫn bởi chữ Tánh, đều tưởng phải tìm kiếm ở nơi cao thâm huyền diệu; không biết “cái” có thể nhìn, có thể nghe, có thể nói, có thể làm, cái đó chính là bản lai nhân. Nếu lìa cái này để đi tìm cái khác thì càng tìm càng xa, càng không thể thấy.

1679.- Bài kệ của Bàng Uẩn.

1. Bàng cư sĩ có làm bài kệ như sau :

有男 不 婚
Hữu nam bất hôn
有女 不 嫁
Hữu nữ bất giá
合家 團 圝 圓
Hợp gia đoàn loan viên
共說 無 生 話
Cộng thuyết vô sanh thoại

Có trai không cưới vợ
Có gái chẳng gả chồng
Cả nhà cùng xum họp
Cùng nói lời vô sanh.

2. Về sau có một vị hòa thượng đọc bài kệ trên bèn viết một bài kệ như sau :

無男 可 婚
Vô nam khả hôn
無女 可 嫁
Vô nữ khả giá
大眾 團 圝 圓
Đại chúng đoàn loan viên
說甚 無 生 話
Thuyết thậm vô sanh thoại

Không trai cưới vợ
Không gái gả chồng
Đại chúng cùng hội họp
Nói gì lời vô sanh.

3. Nguyên Âm lão nhân lại có bài kệ :

有男 亦 婚
Hữu nam diệc hôn
有女 亦 嫁
Hữu nữ diệc giá
子子 復 孫 孫
Tử tử phục tôn tôn
是說 無 生 話
Thị thuyết vô sanh thoại

Có trai cưới vợ
Có gái gả chồng
Con con rồi cháu cháu
Là nói lời vô sanh.

Bài kệ 1 của Bàng cư sĩ nói nhà ông có 4 người : 2 vợ chồng, 1 con trai, 1 con gái. Con trai không cưới vợ, con gái không gả chồng, mọi người đều chứng đạo, thật là hiếm thấy.
Bài kệ 2, hòa thượng không có vợ nên không có con trai để cưới vợ, không có con gái để gả chồng, nhưng có đại chúng. Trong chùa không có một mình hòa thượng mà còn chư tăng đều cùng tu, không có lời để nói, còn nói gì là nói lời vô sanh.
Cả 2 bài kệ đều hay một bài nói lời vô sanh, một bài nói lời vô sanh cái gì, mỗi người đều có diệu dụng.
Bài kệ thứ 3 : có con trai có thể cưới vợ, có con gái có thể lấy chồng. Các con có gia đình rồi sanh ra các cháu. Con con cháu cháu sanh sanh bất tuyệt. Đó là vô sanh, là diệu dụng của chân tâm, biểu thị phương pháp viên dung vô ngại.
(Xem thêm công án 279)

1680.- Ngũ Đế Tam Hoàng là vật gì ?

1. Hoa Viên Thiên hoàng vời Đại Đăng quốc sư (1282-1337) tới giảng Phật pháp. Sứ giả bảo thiền sư phải mặc đạo phục và ngồi cách Thiên Hoàng mà thuyết pháp. Nhưng quốc sư cứ yêu cầu mặc áo cà sa và ngồi đối diện. Thiên Hoàng nhất nhất nghe lời. Khi gập mặt Thiên Hoàng nói :
-Phật pháp không thể nghĩ bàn, cùng Vương pháp đối tọa.
Quốc sư đáp ngay :
-Vương pháp không thể nghĩ bàn cùng Phật pháp đối tọa.
Thiên Hoàng rất hài lòng.

2. Tuyết Đàm sau khi rời sư phụ Thường Lâm trú ở Mỹ Nùng Y Thâm Chánh Nhãn Tự, do cách dạy quá nghiêm khắc nên có ngoại hiệu là Lôi Tuyết Đàm. Một hôm nhân Vĩ Trương ở Khuyển Sơn Thoại Thiền Tự mời đến giảng tổ lục, Khuyển Sơn Thành Chủ cũng đến nghe. Do đó dựng một bục cao, lại treo mành phía trước. Tuyết Đàm trông thấy rất tức giận hét lên :
–Gã vô lễ ngồi sau mành, những gì ta giảng không phải là cặn bã mà phải dùng màn lọc.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Dù là bậc vương giả, thiền sư cũng chẳng coi vào đâu.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 14 Aug 2012, 7:09 PM | Message # 339
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1681.- Núi cao, sông sâu.

Cao Kiều Nê Chu (1825-1903), Thắng Hải Chu, Sơn Cương Thiết Chu là 3 danh thủ xử dụng trường thương cuối thời Mạc Phủ, thường được gọi là Tam Chu. Thời trẻ Nê Chu cùng vị trụ trì Dã Xứ Tĩnh Viện nói chuyện. ông không dấu được lòng kiêu ngạo về thương thuật của mình. Trụ trì chỉ im lặng nghe, sau cùng cười bảo :
-Đối với việc xử dụng trường thương tôi cũng có chút tâm đắc, chúng ta hãy tỷ thí một chút. Thế nào ?
Nê Chu nghe rồi bèn bước ra sân, nắm lấy một cây sào phơi áo thủ thế. Hòa thượng chỉ dùng một chiếc đũa. Nê Chu nổi giận, tưởng dùng gậy chọc thủng được ngực hòa thượng. Nhưng hòa thượng thủ thế vững như núi Thái Sơn, không chỗ sơ hở. Nê Chu toát mồ hôi mặt, thủy chung vẫn không dám ra tay. Cuối cùng đành chịu thua. Sau đó hỏi hòa thượng thuộc phái võ nào, hòa thượng trả lời :
-Kỳ thật chẳng có môn phái nào, nếu miễn cưỡng thì có thể nói là phái “núi cao, sông sâu”, “phái mắt ngang mũi dọc” hoặc phái “liễu lục, hoa hồng”. Có gì thì là gì, không gì không thể.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Từ đó về sau Nê Chu bắt đầu tham cứu Phật pháp, nhưng hòa thượng không chỉ bảo gì cả. Nê Chu vì muốn học cảnh giới cao của thương pháp nên hết sức nghiên cứu thiền lý. Ít năm sau một hôm nhân đọc Long Môn Dạ Thoại, đọc đến công án Khoái Xuyên “diệt hết tâm đầu, lửa tự mát”. Cuối cùng đã thể nhận được cảnh giới bất động của ngộ cảnh.

1682.- Bỏ xuống đi.

Trong công án “Đệ Tử Đến Tay Không” (công án 1), Triệu Châu bảo :
-Bỏ xuống đi !
Nguyên văn chữ Hán là “Phóng hạ trước” (放下著) !
Có một vị nữ đệ tử khi nghe thiền sư kể lại công án này lại ngắt câu thành : “Phóng ! Hạ trước ! ( 放! 下著!) (Có thể hiểu là hãy cởi đồ mặc ở phía dưới xuống !)
Cô liền cởi quần đứng ngay trước mặt sư phụ. Sư phụ liển trỏ vào ngực cô bảo :
-Bỏ xuống đi !
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Câu “bỏ xuống đi !” của thiền sư có 2 nghĩa :
-Cô hãy còn mặc áo, hãy cởi nốt ra đi !
-Cô hãy còn chấp vào nữ tánh. Hãy bỏ xuống mọi chấp trước. Chữ trước ở đây là hư tự, là trợ từ chỉ mệnh lệnh. (tương tự chữ đi trong”bỏ xuống đi” ở Việt ngữ)
1683.- Bài kệ của Trích Thủy hòa thượng.

Hòa thượng Trích Thủy có để lại bài kệ :

曹源 一 滴
Tào nguyên nhất trích
七十 余 年
Thất thập dư niên
受用 不 盡
Thọ dụng bất tận
蓋天 蓋 地
Cái thiên cái địa

Hạt

Tào nguyên một giọt
Bẩy mươi năm rồi
Thọ dụng bất tận
Trùm cả đất trời
Ha !
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Đại ý bài kệ nói : “Chỉ một giọt nước Tào Khê, dùng đã 70 năm rồi, giọt nước này sung mãn khắp vũ trụ, không đâu không có. Tào Nguyên chỉ nơi cư ngụ của Huệ Năng, vị tổ thứ sáu của Thiền tông Trung Hoa.

1684.- Niệm khởi tức giác.

Đệ tử tâm ái của Thế Tôn là tôn giả A Nan, là một người đẹp trai, được một thiếu nữ Chiên Đà La (thuộc giai cấp nô tài) yêu mến. Lúc đó, sự kỳ thị giai cấp rất khắc nghiệt, khiến tôn giả rất phiền não không biết phải xử trí ra sao. Thế Tôn biết chuyện này bèn lấy ra một khăn tay, thắt nhiều nút rồi hỏi A Nan :
-Đây là cái gì ?
-Là nút buộc.
-A Nan ! Nội tâm ông cũng như những nút này, ông vì nàng Chiên Đà La mà phiền não. Chỉ cần ông mở từng nút, từng nút thì sẽ hết phiền não.
Thế Tôn cởi hết nút rồi hỏi :
-A Nan có còn nút không ?
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Ngồi thiền không thể ngủ gục, nếu không đó chỉ là ngủ gục, không phải ngồi thiền. Ngồi thiền cũng không thể suy tư, nếu không thì đó là suy tư chứ không phải là ngồi thiền. Niệm khởi tức giác. Nếu khởi vọng niệm hoặc buồn ngủ, hoặc ngây ra lập tức “Vô” một tiếng quay trở lại công án. Đó là mở nút phiền não, vọng tưởng. Người xưa có nói qua : chẳng sợ niệm khởi chỉ lo giác chậm.

1685.- Đừng vọng tưởng.

Hòa thượng Nhất Ty Văn Thủ (1608-1648) tài cán phi phàm, tham hiểu rất nhiều công án. Năm 19 tuổi từng tự phụ là trong thiên hạ không có ai đủ giỏi để làm thầy mình, nhưng khi nghe Trạch Am hòa thượng ở Nam Tông Tự, thì cũng lại tham bái. Ông kể cho hòa thượng tại các phương trượng ông học được những công án gì, dương dương đắc ý, yêu cầu hòa thượng phê bình .
Trạch Am cười lớn :
-Nơi đây lão nạp không có loại phương pháp này, không treo những sợi sắn bìm mà bán Phật pháp. Phật pháp của lão nạp chỉ là một viên thuốc trị bá bệnh.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Có ai hỏi gì Câu Chi cũng chỉ giơ một ngón tay lên, Bí Ma (đệ tử đời thứ 3 của Mã Tổ) chỉ dùng một cái néo để néo cổ người hỏi. Đả Địa hòa thượng thì lấy gậy đập xuống đất, Vô Nghiệp chỉ nói “Đừng vọng tưởng”.
Câu đáp của Trạch Am có giống câu “Đừng vọng tưởng “ không? Phải nghe cho kỹ. Về sau Nhất Ty tuy theo Trạch Am tham cứu và được Thiên Hoàng chỉ bày cho nhiều lời nhưng cũng không được Trạch Am ấn khả, chỉ để cho một di hạt (bài kệ lúc sắp mất) là một chữ mộng.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 14 Aug 2012, 7:13 PM | Message # 340
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1686.- Hai dao giao tranh không nên tránh.

Sơn Cương Thiết Chu (chánh trị gia kiêm Kiếm Khách 1836-1888), lúc ban đầu theo Khi Ngọc Chi, Trường Đức Tự nguyện ông hòa thượng học thiền, sau lại theo Y Thần Long Trạch Tự Tinh Định hòa thượng tham thiền, về sau lại theo Kinh Đô Thiên Long Tự Trích Thủy Hòa thượng (1812-1899) lấy câu :
Hai dao, giao tranh không nên tránh
Hảo thủ tức đồng sen trong lửa.
Làm công án. Tham trong 3 năm hoát nhiên đại ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Có sách viết câu trên thành :
Hai dao giao tranh thì nên tránh
Nếu nói như vậy thì đã làm mất đi tông chỉ của Thiền tông vậy. Bất luận thế nào, chúng ta phải kiên trì không nên tránh. Ở tình trạng tự tha sai biệt tương đối, ẩn tàng tinh thần không dao động thì mới có thể có hoa sen trong nước (không trí – tịch tĩnh bất động của Thiền định) và hoa sen trong lửa (Bát nhã – thực tuệ của trí tuệ, sản sanh trong động của đời sống hàng ngày). Cả 2 đều khai hoa, kết quả.

1687.- Hề Trọng làm xe.

Hòa thượng Nguyệt Am hỏi một ông tăng :
-Hề Trọng làm một cái xe, bánh có 100 nan, bỏ 2 bánh xe và trục đi thì thành cái gì ?
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Có người nói Hề Trọng là người Trung Quốc phát minh ra xe ở thời cổ, có người lại nói ông là người đầu tiên dùng trâu, ngựa để kéo xe. Có thể nói ông là bậc cao thủ chế xe. Ông tạo ra xe có 100 nan. Nếu tháo bánh xe, trục xe, thân xe ra thì nó còn là xe không ? Người do tứ đại (đất, nước, gió lửa), nếu phân ly rồi thì trở về không. Thi tụng Chiết Không Quán của Tiểu thừa nói :
Am nhỏ rỡ rồi trở lại nguyên dã
Nhưng Thể Không Quán của Đại thừa thì lại nói :
Am nhỏ chưa rỡ nguyên dã vẫn nguyên
Đó mới chính là chân không diệu hữu.
(Xem thêm công án 192)

1688.- Phật Tổ và thị giả.

Nam Dương Huệ Trung có một thị giả hết lòng phục thị thiền sư đã 30 năm. Do đó thiền sư muốn giúp ông sớm khai ngộ. Một hôm thiền sư gọi :
-Thị giả.
-Dạ !
Thiền sư gọi liền mấy lần, thị giả đều dạ. Một lúc sau thiền sư lại gọi :
-Phật tổ !
-Thầy kêu ai vậy ?
-Tôi kêu ông đó.
-Con không phải là Phật tổ. Con là thị giả của thầy mà.
-Ông thật đã phụ ta !
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Đây là một thoại khác của công án số 198. Có nhiều người không đạt thành công vì khinh thị chính mình, không tin là mình có tiềm lực. Cũng như thị giả trong câu chuyện này chỉ nhận mình là thị giả, không dám nhận mình là Phật. Sự thật Phật và chúng sanh không có sai biệt. Phật sở dĩ có thể thành Phật vì ngài tin rằng ngài có năng lực có thể giải thoát chúng sanh.

1689.- Mục phiêu.

Một hôm, Hoài Hải dẫn các thiền sinh ra đồng cấy mạ. Cấy xong một luống các thiền sinh thấy mạ được sư phụ cấy là một đường thẳng tắp, còn của các thiền sinh thì hoặc lệch bên này hoặc lệch bên kia chứ không được ngay hàng thẳng lối. Họ bèn hỏi nguyên nhân, thiền sư cười bảo :
-Giản dị lắm, chỉ cần các ông lấy một điểm ở xa để làm chuẩn khi cấy thì sẽ được thẳng hàng ngay.
Nghe lời dạy của thầy, các thiền sinh vội thực hành ngay. Cấy xong một hàng họ lại so sánh thì thấy luống cấy cong vòng. Thiền sư bèn hỏi :
-Các ông lấy gì làm chuẩn ?
-Dạ, con trâu đang ăn cỏ ở đàng xa kia.
-Con trâu di động, các ông lấy nó làm chuẩn thì luống cấy không cong sao được !
Các đệ tử nghe rồi tỉnh ngộ, bèn chọn một cây cổ thụ làm chuẩn. Lần này luống mạ cấy được thẳng tắp.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Bất luận làm một việc gì cũng phải có một mục phiêu rõ rệt, rồi từng bước, từng bước đạp thật trên đất, nhất định sẽ thành công.

1690.- Trích Thủy hòa thượng.

Nghi Sơn đối với Thiền học, lãnh ngộ rất sâu, đức cao vọng trọng, thường có nhiều thiền sinh đến xin tham học. Một mùa đông nọ, tuyết xuống rất nhiều, Trích Thủy đến bái kiến thiền sư, nhưng thiền sư không cho ông vào cửa. Trích Thủy bèn quỳ ngay bên ngoài cửa 3 ngày. Các đệ tử đều xin, nhưng thiền sư vẫn không động lòng. Ngày lại ngày, đã nhiều lần ngã xuống, nhưng Trích Thủy lại bò dậy, không chịu rời chỗ. Đến ngày thứ 7 thì ông không gượng được, ngã gục trên đất. Các đệ tử của Nghi Sơn vào báo cáo. Thiền sư hạ lệnh cho đem Trích Thủy vào thiền viện và đồng ý thâu làm đệ tử. Một hôm Trích Thủy không hiểu vô tự và Bát Nhã dị đồng thế nào bèn đem hỏi thiền sư. Nghi Sơn bèn cho ông một tát tai, hét lớn :
-Vấn đề này há để ông hỏi sao ?
Trích Thủy bị thiền sư đánh, mắt hoa đầu váng, hoảng nhiên đại ngộ hữu và vô là ý thức thô thiển của chính mình : ông thấy tôi có, tôi thấy ông không. Do Nghi Sơn nghiêm khắc yêu cầu, Trích Thủy khổ công tham thiền, sau trở thành danh sư một thời.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Phải lao lực tâm chí, trải qua nhiều gian khổ rèn luyện lưng thẳng, đầu ngửng cao mới có thể hưởng thụ niềm vui của sự thành công.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 14 Aug 2012, 7:15 PM | Message # 341
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1691.- Bàn thêm về bài kệ của Phó Đại Sĩ.

Trong bài kệ của Phó Đại Sĩ (Xem công án 263), câu thứ 3 : theo cầu qua bến nước có thể hiểu được, còn 3 câu kia toàn là nghịch lý làm sao hiểu đây ? Thực ra sắc thân chúng ta giống một cái phòng mà người trú ở trong là Phật tánh. Chúng sanh vì mê sắc tướng nhận lầm xác thân này là ngã, mà không biết Phật tánh là cái gì, thậm chí còn tạo nghiệp, thọ báo, sanh tử chẳng thôi. Bài kệ này đề tỉnh chúng ta phải nhận biết chủ nhân ông, đừng nhận giả làm thật. Chính là nói cái nhục thân này không biết nói chuyện, nghe chuyện, cử động. Chúng ta có thể vận động, nói, nghe, đều là Dụng của chủ nhân này. Bài kệ này là nói về vị chủ nhân ấy.
Tay không nắm cán mai : Tôi chẳng nắm một vật gì trong tay. Cái mai nắm trong tay là nhục thể do chủ nhân sai bảo.
Đi bộ lưng trâu ngồi : ông có thể đi đường, chạy nhẩy đều là do chủ nhân ông sai bảo. (Dụng) cũng giống như ngồi trên lưng trâu vậy.
Theo cầu qua bến nước : Sắc thân ở đây coi như cây cầu, người là chủ nhân ông. Người ta sống ở trên đời, chẳng qua tạm trú một khoảng thời gian rồi cũng phải đi, cũng giống như đi qua cầu. Cuộc đời này giống như một quán trọ, ở tạm ít lâu rồi phải đi, hà tất phải tranh danh đoạt lợi.
Cầu trôi : Xác thân chúng ta luôn biến đổi, từ sanh ra, lớn lên rồi già chết. Cái cầu này chẳng phải đang biến đổi đó sao ?
Nước chẳng trôi : Đó là Phật tánh thường tại chẳng đến chẳng đi.
Tóm lại, bài kệ này khuyên chúng ta nên minh tâm kiến tánh vậy.
(Phật Pháp Tu Chứng Tâm Yếu)

1692.- Chúng sanh điên đảo, mê chạy theo vật.

Cảnh Thanh hỏi một ông tăng :
-Tiếng gì ở ngoài cửa ?
-Tiếng mưa rơi.
-Chúng sanh điên đảo, mê chạy theo vật.
-Còn thầy thì sao ?
-Thoát Thân còn dễ, thoát Thể khó nói.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Người ta thường phân biệt mình (chủ thể) và người (khách thể), nhưng đối với thiền giả thì người và cảnh là một, vật ngã đều quên, hòa làm một trong tiếng mưa rơi của đất trời. Lúc đó tuy 2 mà một, chân nhân và chân như liền trình hiện.
(Xem thêm công án 76)

1693.- Con tên Bản Tịch.

Động Sơn hỏi :
-Xà lê tên gì ?
-Con tên Bản Tịch.
-Nói lên trên.
-Không nói.
-Tại sao không nói ?
-Vì nếu nói thì không phải là Bản Tịch nữa.
Ông tăng ở đây là Tào Sơn Bản Tịch rất được Động Sơn coi trọng.
(Công Án Thiền Cơ)

Trong câu hỏi Động Sơn dùng 2 chữ xà lê (có nghĩa là người có đức hạnh) có thể dịch là tôn giả (người đáng kính trọng). Không phải cứ đến tham học là được coi là đệ tử. Người đặt câu hỏi thường là các thiền sinh, chứ các thiền sư ít khi đặt câu hỏi. Ở đây, Động sơn đặt câu hỏi là để dẫn pháp. Câu đáp của Tào Sơn :
-Con tên Bản Tịch.
Thì Bản Tịch là Niết Bàn, là tịch tĩnh, là chẳng hai. Khi trú ở thể không thì chỉ có một hành tướng nhưng khi vào hiện tượng giới thì có thể biến hóa thành sự sự, vật vật. Do đó khi chúng ta nói bản tịch là chỉ Niết Bàn. Khi chúng ta ngồi thiền, không khởi một niệm, lúc đó chúng ta đã tiến vào cảnh giới Niết Bàn. Chúng ta đừng hiểu Niết Bàn là tử vong, thực không phải vậy.
Nói lên trên : tên ông là Bản Tịch, thì nói lên trên có thể nói hay không ?
Không nói : Vì Bản Tịch không có gì để nói.
Tu thiền là trực nhập thể tánh không, lìa ngôn ngữ văn tự. Có nhiều người tới giai đoạn này lại chấp vào không là ngoan không. Nếu có pháp tới mà không hiện thì đó là cảnh phiền não, là vọng tưởng. Nếu không thể lìa các pháp thì không thể như như bất động. Công án này là giảng về không vậy.

1694.- Chuyện tốt chẳng bằng vô sự.

Triệu Châu có lần nói :
-Phật là phiền não, phiền não là Phật.
Chúng đệ tử không hiểu hỏi lại :
-Phật vì sao mà phiền não ?
-Phật vì chúng sanh mà phiền não.
-Làm sao để trừ phiền não ?
-Trừ phiền não để làm gì ?
Ít lâu sau Triệu Châu thấy một đệ tử lễ Phật liền hỏi :
-Ông làm gì đó ?
-Lễ Phật.
-Phật dùng để lễ hay sao ?
-Lễ Phật là chuyện tốt mà.
-Chuyện tốt chẳng bằng vô sự.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Phật vì chúng sanh mà phiền não đó là giác ngộ, vì vậy không trừ phiền não được. Lễ Phật là một chuyện tốt. Đạo ở Tâm, mọi hình thức đều là hư vọng. (Xem thêm công án 1124)

1695.- Thư pháp gia.

Một ông tú tài tự xưng mình thông hiểu phong cách của 24 nhà thư pháp gia. Một lần, ông đến thăm thiền sư Đạo Minh. Ông ba hoa về biệt tài của mình. Đạo Minh giơ gậy đang cầm trong tay lên, điểm vào khoảng không một điểm và hỏi :
-Ông hiểu loại thư pháp này không ?
Tú tài ú ớ không trả lời được.
-Ngay vĩnh tự bát pháp mà chưa nhận ra, còn nói gì là thông hiểu 24 loại ?
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Tú tài tuy hiểu thư pháp nhưng còn chưa rõ cái tâm của thư pháp.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 14 Aug 2012, 7:20 PM | Message # 342
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1696.- Triết lý nhân sinh.

Một hôm, các thiền sinh ngồi quây quần chung quanh sư phụ đợi nghe thầy giảng triết lý nhân sinh. Thiền sư chỉ yên lặng ngồi thiền. Một hồi lâu bỗng hỏi các đệ tử :
-Các ông nghĩ phải làm sao để trừ cỏ dại ?
Các đệ tử kinh ngạc, không ngờ thầy nêu ra vấn đề này. Sau một lúc kinh ngạc họ bắt đầu đưa ra ý kiến.
Ông thứ nhất nói :
-Phải dùng cuốc mà cuốc.
Ông thứ hai :
-Phải dùng lửa mà đốt.
Ông thứ ba :
-Phải dùng thuốc trừ cỏ.
Ông thứ tư :
-Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc.
Thiền sư cười bảo :
-Các ông cứ theo cách của mình mà làm.
Nói rồi phân lô đất cho mỗi người, hẹn năm sau gập lại.
Một năm sau, mọi người tụ hội lại. Các lô đất đã trở thành các nông trại trồng đủ loại nông sản.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Muốn trừ cỏ dại, phải trồng trên đó các nông phẩm. Muốn điều tâm, phải điều dưỡng mỹ đức.

1697.- Tuyệt chiêu.

Tương truyền thiền sư Giác Vận tu tập ở Thiếu Lâm Tự nhiều năm rồi nhưng vẫn chưa nắm được tâm ý, ông bèn du phương bái sư mong được tiến bộ. Trải qua bao gian khổ, cuối cùng ông gập được một vị sư phụ võ công cao cường. Sư phụ mỗi ngày đều dẫn ông lên núi đốn củi, ngoài ra chẳng dạy dỗ thêm gì. 3 tháng trôi qua, chẳng học thêm được một chiêu thức gì, ông có vẻ buồn. Sư phụ thấy rõ ý ông, một hôm dẫn ông đi tản bộ trong rừng. Đến trước một phiến đá lớn, chỉ thấy sư phụ nín hơi, 2 mắt sáng quắc, giơ 2 ngón tay điểm vào tảng đá. Tảng bỗng bị vỡ làm đôi. Giác Vận trợn mắt kinh ngạc, mồm há ra mà không ngậm lại được. Sư phụ liền bảo :
-Ông xuất thân từ chùa Thiếu Lâm phải biết rõ võ công Thiếu Lâm cứu cánh là giảng Tâm pháp. Tâm pháp là nội công, nội công là giải thoát sanh tử công vậy. Tham quán thiền cơ, giải thoát khỏi sự sợ hãi sanh tử mới có thể tâm định, thần tĩnh, nhãn lực đáo xứ, dũng mãnh như sư tử, sắc bén như ưng trảo thì chưởng thuật mới gọi là đạt thành.
Giác Vận khâm phục lời sư phụ, khắc khổ luyện tập cuối cùng trở thành một vị cao tăng, một võ lâm cao thủ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Thiền và võ thuật là Thiền chưởng nhất như. Muốn luyện thành võ công thượng thừa chỉ khổ công luyện võ không thôi thì không đủ, còn phải ngộ tánh. Ngộ tánh từ đâu ra ? Do tập Thiền mà có thiền định.

1698.-Tiếng vỗ của một bàn tay.

Hai bàn tay vỗ vào nhau thì tạo ra một tiếng vỗ, còn một bàn tay vỗ thì tạo ra tiếng gì ?
Đây là một công án hữu danh do Bạch Ẩn sáng tạo ra. Dụng ý của Bạch Ẩn dùng loại vô nghĩa này để giúp thiền giả đi vào thế giới vô phân biệt. Bạch Ẩn nói :
-Trong quá khứ tôi cũng như Ngũ tổ Pháp Diễn ( ?-1104) và Đại Huệ (1089-1163) đã trao công án chữ Không của Triệu Châu cho các ông tăng mới. Nhưng chữ Không này khó dẫn đến nghi đoàn (giai đoạn trước khi giác ngộ). Do đó gần đây công án tiếng vỗ một bàn tay khiến hành giả dễ đạt được cảnh giới giác ngộ.
Thượng tướng Bát Đại Lục Lang của Nhật Bản là một nhà nghiên cứu Kinh Pháp Hoa, có một lần đến bái phỏng Tướng Quốc Tự Độc Sơn hòa thượng (1819-1895) khi nói đến Pháp Hoa chân ý. Từ đạo đức quan đến phong cách của thời đại, ông nhận định rằng nếu không theo kinh Pháp Hoa thì không thiết lập được nền đạo đức căn bản. Trải qua 2 giờ đồng hồ lắng nghe, Bát Đại thao thao bất tuyệt, Độc Sơn bảo :
-Ông đã nói xong chưa ? Đối với vấn đề đạo đức ông quá rành, vậy ông có thể nói cho tôi biết đạo đức xử dụng của cây quạt này không ?
Bát Đại không trả lời được và Độc Sơn trao cho ông công án “Tiếng vỗ của một bàn tay”. Trở về nhà, Bát Đại ngồi trên tảng đá ở sau nhà, 2 tay giơ thẳng ra trước, nâng một thanh đao Nhật Bản, trầm ngâm suy nghĩ. Trải qua 2 tuần, hoát nhiên ông đại ngộ. Không những hiểu rõ chân ý của Pháp Hoa, còn hiểu rõ tính cách xử dụng đạo đức của cây quạt và khí độ cũng thâm sâu hơn. (Xem thêm công án 278)
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

1699.- Về đến gia sơn thì mới thôi.

Buổi chiều sau khi Nam Tuyền chém mèo, cao đồ của ông là Triệu Châu từ ngoài trở về. Nam Tuyền bèn đem chuyện buổi sáng kể lại. Triệu Châu nghe rồi bèn tháo dép đội lên đầu, đi ra.
Tuyết Đậu có bài tụng về chuyện này :

公案 圓 來 問 趙 州
Công án viên lai vấn Triệu Châu
長安 城 裏 任 閑 遊
Trường An thành lý nhậm nhàn du
草鞋 頭 戴 無 人 會
Thảo hài đầu đới vô nhân hội
歸到 家 山 即 便 休
Quy đáo gia sơn tức tiện hưu.

Công án tròn rồi hỏi Triệu Châu
Trường An thành ấy mặc nhàn du
Đầu đội giầy cỏ không người hiểu
Về đến gia sơn thì mới thôi.
(Thích Thanh Từ dịch)
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Nếu chỉ chém mèo thành 2 không thôi thì công án không được trọn vẹn, thành ra Nam Tuyền mới đem ra hỏi Triệu Châu. Tuyết Đậu coi đối đáp của 2 thầy trò như đang đi rong chơi trên đường ở thành Trường An. Nói cách khác, hiểu được chuyện Triệu Châu đội dép trên đầu đi ra có được mấy người. Trường An tuy vui thật nhưng chẳng thể ở lâu, về đến cố hương nằm ruỗi thẳng 2 chân chẳng khoái hơn sao ?

1700.- Gập người đạt đạo.

Một ông tăng hỏi Đức Sơn Tuyên Giám :
-Trên đường gập người đạt đạo, không im lặng, cũng không dùng lời, phải làm sao ?
-Chỉ như vậy đó ?
Ông tăng im lặng hồi lâu, Đức Sơn bảo :
-Ông còn muốn hỏi nữa sao ?
Ông tăng lại hỏi, sư hét đuổi ra.
(Công Án Thiền Cơ)

Một người ngộ đạo : Trên đường gập một người ngộ đạo khác, không im lặng, cũng không dùng lời, mặt đối mặt, tâm không đối tâm. Tâm tôi không động, tâm ông cũng không động, đó là tâm ấn tâm, do đó không dùng im lặng hay lời nói để giao tiếp. Ông tăng này để trừ vọng tưởng đem vấn đề này ra hỏi xem thiền sư trả lời ra sao. Đây cũng giống như một cái gương, có nhân duyên tới liền chiếu, khi không có nhân duyên đến thì không có cái gì để chiếu, nhưng sau đó thì sao ? Có gì để nói ? Nếu có gì để nói thì là chấp cảnh, không có gì để nói thì là người đạt đạo. Có gì để nói là do thức thứ 6 và thức thứ 7 phân biệt tạo nên vọng tưởng, phiền não, không phải là thanh tịnh pháp. Do đó, người đạt đạo không có bệnh này, còn có gì để nói ? Nói cái gì ? Không nói.
Đức sơn nói : Chỉ như vậy đó, thiên địa đồng căn, chúng sanh đồng thể. Thiền sư đứng đó ngậm miệng, không khởi tâm động niệm, chỉ một câu “Như vậy đó” đã giảng xong.
Thiên địa đồng căn : cộng nghiệp của chúng sanh hình thành khí thế giới, do nhân duyên hòa hợp mà sanh, do nhân duyên phân tán mà diệt. Vô tình và hữu tình do cộng nghiệp mà tạo nên khí thế giới, vô tình có trước, hữu tình có sau. Vô tình không có luân hồi còn hữu tình phải luân hồi trong 6 đạo.
Chúng sanh đồng thể : Chúng sanh có cùng thể không, tất cả đều do A lại da thức biến hiện, ngoài thành khí thế giới, trong biến thành thân căn.
Ông tăng thấy thiền sư nói xong đứng im, ông không hiểu định hỏi, thiền sư biết ngay nên nói :
-Ông còn muốn hỏi ?
Đã không hiểu cơ phong của thiền sư lại còn muốn hỏi. Thiền sư mặc kệ, không lý đến ông. Vì sao ? Nếu đã ngộ thì không cần phải nói, nói cái gì ? Đi ra !
2/ Thực ra câu hỏi này là của Hương Nghiêm. Có người phỏng vấn Tây Điền Thốn Tâm (Cơ Đa Lang) ngồi đối tọa 2 giờ thao thao bất tuyệt về thiền lý. Trong thời gian đó Tây Điền tiên sinh không nói một lời. Về sau người đó kể lại :
-Tôi có cảm giác như đứng trước một cây cổ thụ ở chốn rừng sâu, có thể nói đây là Tây Điền Thốn Tâm im lặng hồi lâu (lãng cửu).
Trở lại công án này, cứ đứng lặng ngay trên đường hay là ba hoa chích chòe ? Cả 2 đều không đúng. Thật ra trong công án này chữ “đường” là chữ đáng để mắt tới. Thường, trong công án có nhiều cái bẫy, không thể dùng lý trí mà giải thích, chỉ có thể tọa thiền mà lãnh ngộ. (Long Mân)
(Xem thêm Công án 204)


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 14 Aug 2012, 7:24 PM | Message # 343
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1701.- Gập tai nạn thì đón tai nạn.

Năm Thiên Bảo thứ 2, vào ngày mùng 6 tháng giêng, với sự hiện diện của em ông là Do Chi và đệ tử là Trinh Tâm Ni, thiền sư Lương Khoan tạ thế ở tuổi 74. Ba năm trước đó, Việt Hậu Tam Điền phát sinh địa chấn ông có viết thơ cho Sơn Điền Đỗ Cao, trong đó có đề cập tới vấn đề sanh tử. Ông nhận định rằng khi cái chết đến hãy tiếp nhận nó, đó là phương pháp thoát ly tai biến hay nhất. Ông viết một bài thi tả rõ tâm cảnh lúc đó :

吾遺 何 物
Ngô di hà vật
春天 的 花
Xuân thiên đích hoa
山上 的 杜 鵑 鳥
Sơn thượng đích Đỗ Quyên điểu
秋天 的 紅 葉
Thu thiên đích hồng diệp.

Ta để lại gì nhỉ ?
Mùa Xuân hoa tươi cười
Trên núi Đỗ Quyên hót
Mùa Thu lá vàng rơi !

Bài thi này có thể coi như một di hạt (bài kệ để lại khi chết).
Bài này ít nhiều chịu ảnh hưởng bài thi của Đạo Nguyên :

春天 的 花
Xuân thiên đích hoa
夏天 的 杜 鵑 鳥
Hạ thiên đích Đỗ Quyên điểu
秋天 的 月
Thu thiên đích nguyệt
冬天 亮 麗 的 雪
Đông thiên lượng lệ đích tuyết
都讓 人 覺 得 清 新
Đô nhượng nhân giác đắc thanh tân.

Mùa Xuân hoa tươi thắm
Mùa Hạ vang tiếng Quyên
Trăng mùa Thu sáng lắm
Tuyết Đông đẹp tự nhiên
Đều để cho người thấy
Cảm giác rất thanh tân.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

1702.- Không nắm được.

Cận đại, trong dòng thiền Tào Động, Sâm Điền Do là một thiền sư anh kiệt, làm quán thủ Vĩnh Bình Tự 25 năm, đức cao vọng trọng. Bình thường, bất cứ ai hỏi chuyện gì ông cũng đều trả lời :
-Không nắm được !
Chuyện này được loan truyền. Rất nhiều người đã tìm đủ mọi cách để ông đưa ra một câu trả lời khác, nhưng đều thất bại. Có một lần có một vị có công lớn trong cuộc duy tân vận động là Y Đằng Bác Văn được văn học bác sĩ Tỉnh thượng Triết Thứ Lang giới thiệu, 2 người cùng đến tham phỏng thiền sư. Ba người ngồi nói chuyện. Y Đằng kể lại những gian lao lúc trước khi Duy Tân, đã nhiều phen mình bị lâm vào tuyệt cảnh, rồi đổi giọng hỏi :
-Xin hỏi cao tăng thấy tình cảnh đó thế nào ?
Ông nghĩ rằng vị tăng ngồi trên thiền sàng này chỉ toàn nói thiền ngoài miệng, khi gập chuyện chẳng dám đương đầu. Lúc đó thiền sư đang lắng nghe Y Đằng kể chuyện gian khổ một cách say mê, bỗng quắc mắt :
-Một kẻ chỉ thích kể về các kinh nghiệm của mình là một gã đã hết sài rồi.
Y Đằng lúc đó biết rằng không có cách nào để thiền sư nói lời khác, khom lưng vái chào mà lui.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Đó là diệu dụng của vô tâm, thiền sư lấy “không nắm được” mà biểu hiện.

1703.- Lão nạp đang giới ngữ.

Thiên Hậu triệu thiền sư Nhân Kiệm vào cung giảng pháp. Thiền sư ngẩng nhìn Thiên Hậu rồi hỏi :
-Hiểu không ?
-Không hiểu.
-Lão nạp đang giới ngữ.
Nói rồi bèn lui.
(Công Án Thiền Cơ)

Thiên Hậu mời thiền sư đến giảng Phật pháp. Vì Thiên Hậu ngồi trên cao nên thiền sư phải ngẩng lên nhìn rất lâu rồi hỏi “hiểu không ?” Ý thiền sư là tôi đã giảng xong rồi, Thiên Hậu có hiểu không ? Thiền sư nhìn lâu không nói là diễn ý : tôi nhìn bà không phải là xem bà có đẹp hay không, là chỉ tâm không khởi tâm niệm : đó chính là bản lai diện mục. Bà phải học tập lấy tánh không đối diện với cảnh bà hiểu chưa ? Nếu tâm động niệm là lìa bản thể. Bản thể là Niết Bàn, là vô tướng, là thật tướng, không chấp vào cảnh trước mắt. Đương nhiên Thiên hậu đáp không hiểu. Đây là tâm pháp tối thượng thầy vừa mới giảng làm sao con hiểu ngay được, huống chi thầy lại chưa nói ra. Thiền sư lại nói : lão nạp đang giới ngữ, ám chỉ Thiên hậu nói nhiều chỉ tạo nghiệp mà thôi. Tâm động, khẩu động liền nói ra, tạo nên khẩu nghiệp vậy.

1704.- Gà gáy canh năm sáng.

Tuyết Đàm bái Mỹ Nùng, Từ Ân Tự Thường Lâm hòa thượng làm thầy nhưng mãi vẫn chưa ngộ. Sư huynh Tá Môn bảo ông :
-Muốn ngộ đạo, phải lấy chầy gỗ gõ vào đầu sư phụ mới được.
Tuyết Đàm vì thiết tha cầu đạo nên làm theo lời. Thường Lâm tưởng ông ta khùng bèn vớ lấy pháp trượng ở bên cạnh, giơ lên định đánh. Lúc đó Tá Môn chạy lại xin :
-Gã này chỉ muốn giác ngộ, nhưng thực không có khả năng. Xin sư phụ giao gã cho con, cho gã sống 7 ngày.
Rồi quay lại bảo Tuyết Đàm :
-Sinh mạng của ông chỉ còn 7 ngày, bất luận thế nào ông cũng phải ngộ đạo, bằng không thì tôi chẳng còn mặt mũi nào nhìn sư phụ.
Do đó, Tuyết Đàm quyết tâm ngồi thiền, suốt đêm không ngủ. Đêm 1, 2 rồi đến đêm 7 mà vẫn chưa ngộ. Ông nhìn trời sáng, định ra lan can nhẩy xuống cho xong đời. Ngay chính lúc đó con gà trống gáy sáng, Tuyết Đàm hốt nhiên khai ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

1705.- Ơn sâu Phật Tổ khó báo đáp.

Đằng Nguyên Đằng Phòng (1296-1380) là trung thần của Nam Triều, mới đầu là môn hạ của Đại Đăng quốc sư, 39 tuổi xuất gia, về sau lại theo Vô Tướng đại sư tham cứu công án “Bản hữu viên thành Phật”, một hôm hốt nhiên đại ngộ. Liền trình đại sư bài kệ :

此心 未 嘗 失
Thử tâm vị thường thất
利益 人 天 盡 未 來
Lợi ích nhân thiên tận vị lai
佛祖 深 恩 難 報 謝
Phật Tổ thâm ân nan báo tạ
何能 馬 腹 驢 胎 居
Hà năng mã phúc lư thai cư.

Tâm giác ngộ này chưa từng mất
Lợi ích trời người đến vị lai
Ơn sâu Phật, Tổ khó báo đáp
Vào bụng ngựa đâu để đầu thai.

Đại sư hỏi :
-Làm sao lợi trời người ?
-Đến tận bờ nước ngồi nhìn mây nổi.
-Làm sao báo ân sâu Phật,Tổ ?
-Đầu đội trời, chân đạp đất.
-Vì sao không vào bụng ngựa, lừa ?
Đặng Phòng im lặng, lạy 3 lạy.
Đại sư cười nói :
-Thượng nhân nay đã triệt ngộ rồi.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Theo lời truyền Đằng Phòng chính là vị trụ trì thứ 2 của Diệu Tâm Tự : Thọ Ông Tông Bật.



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 14 Aug 2012, 7:26 PM | Message # 344
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1706.- Ngăn vọng niệm.

Tuyết Phong hỏi Đức Sơn Tuyên Giám :
-Ý cổ nhân khi chém mèo là gì ?
Đức Sơn giơ gậy đánh, sau đó hỏi :
-Ông hiểu không ?
-Không hiểu.
-Tôi đối với ông như lão bà tâm thiết mà sao ông vẫn không hiểu ?
(Công Án Thiền Cơ)

Tuyết Phong khi mới nhập đạo, còn chưa ngộ, theo Đức Sơn học pháp. Một hôm Tuyết Phong đọc công án cũ không hiểu ý Nam Tuyền tại sao lại chém mèo (Xem công án 1053), là tu sĩ thì phải giới sát chứ ? nên ông đã đem ra hỏi Đức Sơn. Việc chém mèo của Nam Tuyền có 2 ý :
-Một là để dạy đại chúng không được chấp vào một cái gì. Đối với người mới tu trước hết phải chặt đứt ngoại duyên chứng nhập ngoại không, nghĩa là đối với trần cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc), tâm có thể như như bất động đạt vô ngã, vô ngã sở. Sau đó hành giả phải chứng nội không, nghĩa là vô ngã (không có tâm vương), vô ngã sở (không phân biệt thiện ác), tức là sáu căn chỉ thức nhưng không khởi phân biệt.
-Hai là Nam Tuyền đã chứng nội, ngoại không nên chém mèo mà như không chém mèo. Tại sao ? Vì ông chém mèo là giải thoát cái thân nghiệp báo của nó. Ông đã dùng cái tâm thanh tịnh mà độ con mèo. Nó nhân họa mà được phước vậy.
Đức Sơn đánh Tuyết Phong vì bất cứ cái gì không dính líu đến sự tu tập của Tuyết Phong đều được coi là vọng tưởng, là lý luận. Nếu như người tu còn chấp vào một pháp nào thì cũng không thể giải thoát được. Đối với ngoại cảnh chỉ nên nhận biết, không được có một niệm thứ 2, thứ 3, v . v . Nói tóm lại là đối với ngoại cảnh không mảy may dính mắc. Đức Sơn đánh, sau đó hỏi “Hiểu không ?” là hỏi ông có hiểu vì sao tôi đánh không ? Có hiểu thiền cơ tôi chỉ ông không ? Tuyết Phong trả lời không vì lúc đó ông mới tu. Đức Sơn thấy căn cơ của Tuyết Phong rất tốt, nên mới đánh để xúc tiến việc khai ngộ, mong cho ổng chóng thành tựu.

1707.- Người không cùng vạn pháp làm bạn là ai ?

Trong công án 988, câu hỏi này được Bàng Uẩn đem đi hỏi Thạch Đầu và Mã Tổ, và giác ngộ ngay sau câu đáp của Mã Tổ. Về sau cũng có người đem câu này ra hỏi Triệu Châu và được Triệu Châu trả lời :
-Hắn không phải là người !
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Người hỏi chạy trốn khỏi mọi độc thoát vô y (độc lập, không nương cậy vào gì). Triệu Châu phủ định loại người này. Người chân chánh độc thoát vô y phải tương y, tương quan với vạn pháp thì mới có chỗ đứng có ý nghĩa. Vị vô vị chân nhân này phải làm bạn với vạn pháp mà thực hành Bồ tát đạo chứ không phải dừng lại ở Phật cảnh Niết bàn.

1708.- Tâm mình không tĩnh khó tìm tĩnh.

Khuất Đa là một thiền sư Ấn Độ vân du tứ xứ. Một hôm ông tới Thái Nguyên gập một đệ tử của Thần Tú ngồi thiền trong một thảo am. Ông liền đến hỏi :
-Ông đang làm gì ?
-Tôi đang tìm sự thanh tĩnh.
-Thanh tĩnh là cái gì ? Sao không tìm bản tâm, rồi để tâm tự thanh tĩnh ?
Ông tăng đó không trả lời được. Khuất Đa bèn dạy ông đến tham Lục tổ Huệ Năng. Ông ta y lời đến gặp Lục tổ và thuật lại sự việc. Lục tổ im lặng hồi lâu rồi bảo :
-Trước tiên ông nên tìm tự tâm, chỉ có mình mới có thể làm tâm mình thanh tĩnh.
Ông tăng này nghe rồi có chỗ lãnh ngộ.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Thanh tĩnh chân chính là tâm tĩnh chứ không phải là không có âm thanh mới là tĩnh.

1709.- Bí quyết thành công.

Chúng đệ tử muốn biết bí quyết thành công là gì, bèn đi hỏi sư phụ. Thiền sư không trực tiếp trả lời, chỉ vung 2 tay ra trước rồi vẫy về sau và nói :
-Từ hôm nay trở đi, mỗi ngày các ông đều làm động tác này 300 lần.
Một tháng sau thiền sư hỏi :
-Ai làm theo lời tôi dặn.
Hầu hết các thiền sinh đều giơ tay. Thiền sư gật đầu. Lại một tháng sau nữa thiền sư lại hỏi, chỉ có một nửa số thiền sinh giơ tay. Một năm sau thiền sư lại hỏi thì chỉ có một thiền sinh giơ tay.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Sự thực, việc dễ làm nhất lại là việc khó làm nhất. Và việc khó làm nhất lại có thể biến thành dễ làm, quan trọng ở chỗ chúng ta có chịu kiên trì làm hay không.

1710.- Biết đủ.

Thiền sư Bàn Khuê sống ở thời đại Giang Hộ, một hôm có người hỏi ông :
-Con có đầy đủ trí tuệ, nhưng không biết cách vận dụng, xin thầy chỉ dẫn cho con.
-Ông lại gần đây.
Người đó bước 2, 3 bước về phía trước.
-Đó không phải là vận dụng tốt hay sao ?
(Danh Thiền Bách Giảng)

Con người ta thường đem mình ra so sánh với người, dễ dàng tạo ra bất bình đẳng hoặc tự kiêu hoặc tự ty, không phát huy được tài năng của mình. Trong kinh Bát Đại Nhân Giác có đề cập đến tri túc. Tri túc là biết đủ. Nếu không biết đủ thì dục vọng sẽ nẩy sinh khiến ta bị phiền não.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 14 Aug 2012, 7:28 PM | Message # 345
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1711.- Không biết.

Lương Võ Đế hỏi Đạt Ma :
-Người đứng trước mặt trẫm là ai ?
-Không biết.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Phật pháp chủ trương tất cả đều bình đẳng, sự vật không phân cao thấp. Câu trả lời “Không biết” của Đạt Ma là phá những cái chấp nhị nguyên cao thấp, phàm thánh, có không của tâm phân biệt, so sánh của Lương Võ Đế. Lão tử cũng có nói :
-Người biết không nói, người nói không biết.
Không biết là vượt lên tri và bất tri. Cái mà người phàm gọi là “tri” không phải là “thực tri” chỉ có tự tâm lãnh ngộ được cảnh giới “không biết” thì mới nắm được thâm nghĩa của Đạo.

1712.- Đừng vọng tưởng.

1/Vào đời Đường, thiền sư Vô Nghiệp ai hỏi gì cũng đáp :
-Đừng vọng tưởng.
2/Ở Nhật Bản vào thời Minh Trị, đại văn hào Sâm Âu Ngoại Bản xuất thân là một quân y sĩ. Lúc tốt nghiệp, trong khi các bạn bè đều được bổ nhiệm đến những chỗ tốt thì ông lại bị phái đi đến một nơi xa xôi hẻo lánh. Lúc đó ông rất tức giận, bất mãn, thậm chí còn định nộp đơn từ chức. Nhưng vài ngày sau ông đổi ý. Ông quyết định lợi dụng thời gian ở đây để học tập tiếng Đức và chuyên chú vào việc dịch thuật. Vài năm sau ông cống hiến nhiều dịch phẩm và tác phẩm. Sau lại được thăng tới chức lục quân tổng đốc. Trong văn học sử Nhật Bản ông là một người có địa vị cao. Sâm Âu Ngoại Bản trong nghịch cảnh đã không để phát sinh ra vọng tưởng. Vọng tưởng là mê hoặc, là tà niệm, phiền não. Con người ta thường bị tham, sân, si là 3 phiền não lớn làm cho đau khổ. Vì tham lam nên con người mưu lợi mình hại người, sân vì khi gập nghịch cảnh không nhịn được sinh oán hận. Si là không phân biệt được phải trái. Trong 3 độc trên, si là căn bản của phiền não, vì si cho nên vọng sinh tham. Khi không chiếm đoạt được thì nổi giận làm ra những chuyện thông thiên hại lý. Quy kết lại chỉ là 2 chữ vọng tưởng.

1713.- Như vầy.

Khi Đức Phật sắp nhập diệt, thị giả của Ngài là ông A Nan hỏi :
-Sau khi Thế Tôn nhập Niết Bàn, những giảng dạy của Phật nói làm sao để cho người ta tin tưởng ?
-Ông hãy bắt đầu bằng câu : “Tôi nghe như vầy”.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Như vầy (như thị) tức bản lai diện mục, thật tướng. Trong kinh Phật có câu “Chim bay như chim, cá lội như cá”. Chim bay trên không, cá lội trong nước đều là bản lai diện mục. Nếu nói cá bay trên không, chim lội trong nước thì là hư vọng, không thể có được. Tất cả mọi sự việc, bao gồm loài người đều do 10 thứ như vầy tác động : tướng, tánh, thể, lực, tác, nhân, duyên, quả, báo, bản mạt cứu cánh.
-Tướng : là hình tướng bên ngoài.
-Tánh : là bản chất bên trong.
-Thể : là tánh và tướng hợp nhất.
-Lực : Năng lực tiềm ẩn.
-Tác : tác dụng của lực hiển lộ.
-Nhân : nguyên nhân trực tiếp sinh ra sự vật.
-Duyên : nguyên nhân gián tiếp.
-Quả : kết quả của nhân và duyên.
-Báo : Kết quả bên ngoài.
-Bản mạt cứu cánh : từ tướng đến báo là một quan hệ liên tục, nhất quán.

1714.- Sanh tử.

Võ tướng Nam Mộc Chính Thành, một ngày trước khi giao tranh với Túc Lợi Tôn, đến tham kiến thiền sư Sở Tuấn, khai sơn Quảng Nham Tự. Ông tự biết cuộc giao chiến này khó thắng và tánh mạng cũng khó mà giữ được nên mang vấn đề sanh tử ra hỏi thiền sư :
-Việc sanh tử thường vương vấn lòng con, làm sao xử trí đây ? Xin thầy chỉ cho.
-Chặt đứt 2 niệm, 1 kiếm dựa trời lạnh.
Nam Mộc Chính Thành được lời này, quên hết chuyện sanh tử, khẳng khái chiến tử sa trường.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Thiền siêu thoát sanh tử, giầu nghèo, phàm thánh, có không. Con người ta thường đem vạn tượng trong vũ trụ này phân hai. Người có giầu nghèo, vật có quý tiện, chạy theo những gì coi là tốt, vất đi những gì coi là xấu, do đó sản sanh vui, khổ. Vì chấp vào thủ, xả (nắm giữ, buông bỏ) nên do dự không quyết định được sanh ra đau khổ. Chỉ cần phá được mọi đối đãi, chấp trước thì sự xung đột mâu thuẫn sẽ như sương tan, mây tán.

1715.- Que cứt khô.

Một ông tăng hỏi Vân Môn :
-Phật là gì ?
-Que cứt khô.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Que cứt khô là những que gỗ dùng như giấy vệ sinh ngày nay. Đối với ông tăng Phật là bậc thanh tịnh tối cao vô thượng, que cứt khô là vật ô uế, cách nhau một trời một vực, làm sao có thể coi là một ? Ông không biết rằng Phật không có tồn tại cố định. Tất cả vạn tượng trong trời đất đều có Phật tánh, cho nên mới nói Phật pháp tại thế gian không lìa thế gian giác. Nếu như lìa các sự vật ở thế gian để tìm Phật thì cái tìm được không phải là Phật thật. Vân Môn phá chấp cho ông tăng : Phật không phải là Phật thật, que cứt khô cũng không phải là Phật, chỉ cần bỏ cái tâm chấp trước đi thì chân Phật ở giữa Phật và que cứt khô.
(Xem thêm công án 199).


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 14 Aug 2012, 7:38 PM | Message # 346
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1716.- Mắt ngang mũi dọc.

Đạo Nguyên (một vị thiền sư Nhật Bản) vì muốn thỉnh ích danh sư không ngại ngàn trùng xa xôi sang Trung Quốc tham học. Ở Thiên Đồng Sơn, ông gặp được thiền sư Như Tĩnh. Như Tĩnh dạy ông tham thiền phải thoát lạc thân tâm và bí quyết của tham thiền là “Chỉ quán đả tọa” (chỉ chăm chú ngồi thiền). Cuối cùng Đạo Nguyên ngộ ra chân lý mắt ngang mũi dọc. Mắt ngang mũi dọc là thuận theo tự nhiên, giả như mắt thẳng mũi ngang thì là hư vọng vậy.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Thuận theo tự nhiên không những là khởi điểm của Thiền mà còn là cảnh giới tham ngộ tối cao của Thiền nữa.

1717.- Nhìn dưới chân.

1/Một đêm, thiền sư Pháp Diễn và chúng đệ tử đang đi trên đường bỗng một cơn gió mạnh thổi qua làm đèn bị tắt ngóm. Pháp Diễn bảo :
-Đèn tắt rồi, làm sao đi ?
Phật Quả Viên Ngộ thưa :
-Nhìn dưới chân.
Pháp Diễn gật đầu.

2/Một hôm, một ông tăng hỏi Giác Minh :
-Chân tủy của Thiền là gì ?
-Nhìn dưới chân.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Không có đèn để soi đường đi, nhìn dưới chân là việc thực tế nhất phải làm. Không nương tựa vào đâu, chỉ nhờ vào chính mình. (Xem thêm công án 319).

1718.- Nóng lạnh tự mình hay.

Thiền sư Đắc Thắng sống vào thời Nam Bắc Triều (Nhật Bản) Đất nước loạn ly, chia năm xẻ bẩy rất hỗn loạn. Một hôm đệ tử của thiền sư Sở Tuấn là Đức Quỳnh gặp Đắc Thắng ở trong núi, ăn mặc như người tục thì rất ngạc nhiên hỏi :
-Thầy vì sao không mặc tăng phục ?
-Tôi không vì thích mặc tăng phục mà xuất gia, chính là muốn thoát ly sanh tử.
-Dĩ nhiên là thế, thầy có đọc các công án của cổ nhân không ?
-Không. Bây giờ ngay chính tâm mình còn chưa nắm được thì hơi đâu quan tâm đến lời người khác ?
-Vậy thầy tu hành làm sao ?
-Tôi căn cứ lãnh ngộ của Phật tổ mà tu hành. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa lãnh ngộ. Tôi nguyện cứu độ chúng sanh, dù có sa địa ngục cũng cam nguyện vì chúng sanh thọ khổ.
Đức Quỳnh nghe rồi chắp tay lạy :
-Lành thay ! Lời nguyện của thầy là nguyện vọng của chư Phật, tinh tủy của Thiền là ở đó.
Đắc Thắng tuy có đại nguyện nhưng vô pháp lãnh ngộ. Do đó ẩn cư ở núi sâu rừng thẳm, ngày đêm tọa thiền. Một hôm ngồi đối diện khê cốc tĩnh tọa, bỗng nhiên cảm thấy mình đạt tới cảnh giới vô tâm. Bèn giở sách xem lại công án “Niêm hoa vi tiếu” nhưng vẫn không lãnh ngộ. Do đó lại ngồi thiền tiếp cho đến sáng hôm sau, nghe tiếng nước chẩy róc rách hoát nhiên đại ngộ.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Người học thiền phải nhờ vào chính tâm mình mà lãnh ngộ. Người khác chỉ nêu ra trường hợp chuyển cơ của người ấy không thể chỉ dạy phương pháp ngộ đạo cho ta vì tâm cảnh ngộ đạo mỗi người mỗi khác, cũng như uống nước sự cảm nhận nóng lạnh mỗi người mỗi khác.

[/b]1719.- Nó chẳng còn ở đây là gì ?

Mã Tổ chỉ vịt trời bảo Bách Trượng :
-Bay đi đâu vậy ?
-Bay đi rồi.
Mã Tổ bóp mũi Bách trượng. Bách Trượng hét lên :
-Đau quá !
-Ông nói bay đi rồi, nhưng nó chẳng còn ở đây là gì ?
(Danh Thiền Bách Giảng)

Nó ở đây là chỉ tâm Bách Trượng không phải là chỉ vịt trời. Bách Trượng tâm hướng ngoại, đi theo vịt trời. Mã Tổ bóp mũi khiến Bách Trượng bị đau kêu toáng lên là tâm đã quay lại với chính mình. (Xem chi tiết các công án 1041 và 1572).

1720.- Đói ăn, mệt ngủ.

Đời Đường, Nguyên luật sư đến tham phỏng Đại Châu. Nguyên luật sư đã lâu nghe danh Đại Châu đạo lực cao thâm, gặp mặt liền hỏi :
-Thiền pháp của thầy có đặc điểm gì không ?
-Đương nhiên là có.
-Cứu cánh là công phu gì ?
-Đói ăn, mệt ngủ.
Nguyên luật sư không hiểu hỏi lại :
-Mọi người đều thế cả, có khác gì đâu ?
-Có khác chứ !
-Khác chỗ nào ?
-Người đời lúc ăn không chỉ ăn còn nghĩ Đông, nghĩ Tây, lúc mệt cũng không ngủ ngay, trằn trọc hết chuyện này tới chuyện khác. Tôi khi đói thì chỉ ăn, mệt thì duỗi chân ngủ, đương nhiên là khác rồi !
(Danh Thiền Bách Giảng)

Đói ăn, mệt ngủ là chỉ cho chúng ta cứ thuận theo tự nhiên mà hành động. [b]


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 14 Aug 2012, 7:41 PM | Message # 347
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1721.- Lục bất thâu.

Có ông tăng hỏi Vân Môn :
-Pháp thân là gì ?
-Lục bất thâu.
(Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ)

Lục ở đây là ý gì ? Là lục hợp hay lục thức, hay pháp thân siêu việt vũ trụ, kiến văn chẳng thâu giác tri ? Nếu như thiền nhân chỉ giải thích trên bề mặt của chữ như vậy thì sẽ sa vào địa ngục nhanh như tên bắn. Thiền sư hét lên 3 tiếng : lục, bất, thâu để diệt tự ngã. Tự ngã diệt rồi tức đạt tới cảnh giới “không” hay “vô ngã”. Khi đã triệt để tử vong rồi thì tự ngã sẽ sống lại thành “hoạt pháp thân”. Lúc đó mới cảm nhận được lục bất thâu của Vân Môn đã có pháp lực mở ra pháp nhãn.
(Xem thêm công án 130)

1722.- Chẳng có công đức gì cả.

Lương Võ Đế là một vị quốc vương yêu thích thiền học, hết sức đề cao Phật pháp. Khi lên ngôi rồi, xây nhiều chùa chiền, sửa sang đường xá, cầu cống, tạo phúc cho bá tánh. Khi gập mặt, Lương Võ Đế hỏi Đạt Ma :
-Trẫm hành thiện như thế đó, có công đức gì không ?
-Chẳng có công đức gì cả.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Làm việc thiện phải xuất phát từ nội tâm, trong lòng không mong hồi báo. Dù có làm nhiều việc thiện đi chăng nữa cũng chỉ khiến ta ngụp lặn trong sinh hoạt thế tục, không thể giúp mình thoát ra được, chỉ có làm sao cho người ta liễu giải tự tánh thì đó mới là công đức tối cao vậy. (Xem thêm công án 1025)

1723.- Đợi trời sáng hãy đi.

Có một lần Triệu Châu hỏi Đầu Tử :
-Khi nói chết đi sống lại là có ý gì ?
-Đêm tối không đi, đợi trời sáng hãy đi.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Chết đi ở đây không phải là chỉ chết đi nhục thể mà là trừ đi mọi nhị nguyên đối đãi. Trừ bỏ đi mọi chấp trước thì mới sản sanh tâm hoạt lực. (Xem thêm công án 54).

1724.- Tâm.

1/Thiền sư Vinh Tây có nói :
-Tâm bao hàm sâm la vạn tượng của trời đất, tâm là bản thể thực tướng của vũ trụ.
2/Có một lần thiền sư Triệu Châu bảo đại chúng :
-Tôi có thể lấy một cọng cỏ làm gậy Hoàng kim một trượng sáu, lấy gậy Hoàng kim một trượng sáu làm một cọng cỏ. Đó là nói Phật là phiền não, phiền não là Bồ đề. (Xem thêm công án 723)
3/Bạch Ẩn lúc nhỏ rất sợ địa ngục, có thể nói ông xuất gia vì muốn thoát khỏi địa ngục. Đến cuối đời ông ngộ ra rằng địa ngục chính ở trong tâm. Ông phá được cái chấp ấy mà giác ngộ.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Tâm giống như nước, nước chứa ở đâu thì có hình dạng ấy. Tâm bao hàm Phật tánh, trí tánh, cảm tình đồng thời cũng phân biệt thiện ác, sạch bẩn, phiền não bồ đề, sâm la vạn tượng. Thật tướng, hư tướng ra ra, vào vào tâm ta. Khi ta chấp trước tâm liền hướng vào vật sở chấp ấy mà sinh cảm tình, dục vọng. Khi cảm tình dứt thì tâm mới được giải phóng, trở lại bản lai diện mục.
Tâm chúng ta thời thời, khắc khắc chấp trước, hồi phục, chấp trước hồi phục. Trong kinh Phật con người có 18 phiền não căn bản : tham, sân, si, mạn, nghi. . . và 20 loại Tùy phiền não : phẫn, hận, não, hại . . .
Người tuy có nhiều phiền não nhưng nếu ta phản tỉnh triệt để thì sẽ phát sinh trí tuệ.
Tâm là thật tướng của vũ trụ vạn năng, tâm bao hàm địa ngục, cực lạc, phiền não và bồ đề. Chỉ cần chúng ta từ tâm bị trói buộc thoát ra biến phiền não thành bồ đề, siêu việt địa ngục, cực lạc là Ta đã nắm được Phật tánh của mình.
(Xem thêm công án 261)

1725.- Đại nhân không cãi lộn.

Có người hỏi hòa thượng Bạch Ẩn :
-Chúng ta quen nhau đã lâu, con chưa hề thấy thầy nổi giận, chẳng lẽ thầy không biết tức giận sao ?
Bạch Ẩn cười :
-Tôi không phải là Địa Tạng Vương do đá đẽo thành, làm sao lại không biết tức giận ? Chỉ là khi nổi giận không để lộ ra bên ngoài thôi.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Trong mỗi người chúng ta đều ẩn tàng một con sư tử lông vàng. Vô sự thì không sao, nhưng khi có chuyện thì con sư tử này sẽ xông ra. Con sư tử này là Phật lực có thể giết người, đả thương người hay hòa mình cùng người sinh sống. Có thể điều phục được con sư tử này hay không là do công phu tu dưỡng có thành tựu hay không.



Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 14 Aug 2012, 7:45 PM | Message # 348
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1726.- Cứ đi thẳng.

Dưới chân Ngũ Đài Sơn có một bà lão mở quán bán trà. Có một ông tăng đến đó hỏi thăm đường đi. Bà lão không chỉ phương hướng chỉ nói một câu :
-Cứ đi thẳng.
Ông tăng y lời đi. Đi được vài bước thì nghe tiếng bà lão cười nói :
-Tưởng là một ông tăng có đạo hạnh, nào ngờ lại nghe lời của một bà lão.
Ông tăng này không hiểu ý bà lão, khi tới chùa bèn kể lại cho Triệu Châu nghe. Triệu Châu đã nghe vài ông tăng khác thuật lại cái kinh nghiệm đã trải qua như vậy, bèn quyết định tự mình đi coi xem sao.
Ngày hôm sau, Triệu Châu cũng giả đi hỏi đường và bà lão cũng nói :
-Cứ đi thẳng.
Triệu Châu đi vài bước lại nghe tiếng bà lão cười và nhắc lại câu nói cũ. Triệu Châu không tức giận, không mắc cỡ, cũng không ngoảnh cổ lại, cứ đi thẳng về chùa. Về tới chùa rồi, Triệu Châu bảo đại chúng :
-Tôi đã vì các ông khám phá hàm ý của bà lão rồi !
Ngoài ra không nói gì thêm.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Bà lão nói “Cứ đi thẳng” là khuyên các ông tăng chuyên tâm nhất ý cầu Phật đạo, đừng để ngoại cảnh sai xử, nếu bị người cười chê, chọc giận, cũng không bị sân hận làm lay chuyển lòng cầu Đạo. Con người là một động vật có cảm tính. Cảm tính dễ làm mất lý tính. Do đó, chúng ta nên nhớ kỹ lời bà lão :”Cứ đi thẳng”. Để cầu chân lý chúng ta phải vứt bỏ mọi sân hận đối với đối phương, hiểu biết đối phương, yêu thích ưu điểm của đối phương. Lấy ưu điểm của đối phương bổ túc cho khuyết điểm của mình. Nếu được vậy con người sẽ gần gũi nhau hơn, xã hội cũng không có đối lập tranh chấp. Đó mới là vượt qua đối phương và chính mình. (Xem thêm công án 111).

1727.- Bạch Ẩn.

Bạch Ẩn mới đầu theo học thiền sư Tánh Triệt, trụ trì chùa Anh Nham Tự. Một hôm đang ngồi thiền bỗng nghe tiếng chuông chùa từ xa vẳng lại hoát nhiên đốn ngộ. Ông đem cảnh giới này trình cho thiền sư Tánh Triệt, nhưng không được thiền sư chấp nhận. Ông bèn rời bỏ Anh Nham Tự, trong lòng đầy kiêu ngạo. Một hôm ông gập Chánh Thọ Lão Nhân, lúc đó ông mới 24 tuổi, mạnh miệng bảo Chánh Thọ :
-Thiền truyền sang Nhật Bản đã 300 năm rồi mà chẳng có ai ngộ đạo như tôi cả.
-Ngộ cái gì ? Nếu ông đã ngộ thì chữ “Vô” của Triệu Châu ông giải thích thế nào ?
-Vô là vô, vô pháp nắm được.
Bạch Ẩn nghĩ rằng câu đáp của mình hay ho lắm, chẳng ngờ bị Chánh Thọ bóp mũi :
-Ông còn chưa đáp đúng.
Bạch Ẩn bị đau, lùi lại vài bước. Chánh Thọ hãy còn giận mắng :
-Ông là đồ tăng chết dẫm trong động !
(Danh Thiền Bách Giảng)

Đối với một kẻ kiêu ngạo từ nhỏ như Bạch Ẩn đây là lần đầu tiên bị lăng nhục, giống như bị đá từ đỉnh núi lăn xuống đáy vực sâu, lúc đó Bạch Ẩn bỗng tỉnh ra, quyết định theo Chánh Thọ học tập, và cuối cùng đã giác ngộ.

1728.- Ông không biết leo núi.

Ngưỡng Sơn hỏi một ông tăng mới đến :
-Vừa từ đâu tới ?
-Lư Sơn.
-Có leo núi Ngũ Lão Phong không ?
-Không.
-Ông không biết leo núi.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Ông tăng coi việc tu hành và du hí là 2 chuyện khác nhau không thể hòa làm một. Ngưỡng Sơn lại chủ trương tu hành tức du hí. Người đời cứ coi công tác là nghĩa vụ nên không thấy được ý nghĩa và lạc thú của công việc.
Sơn Điền Vô Văn lão sư cũng từng nói :
-Làm việc là du hí, khổ, vui, bi, hỷ là du hí, ngay cả đời người cũng là du hí.
Chỉ cần chúng ta gìn giữ tinh thần “tu hành là du hí” của Ngưỡng Sơn vì công tác mà công tác, từ trong công tác khai quật ra tiềm năng của mình thì mới hưởng được lạc thú của công tác. (Xem thêm công án 166).

1729.- Mộc Đường.

Thiền sư Mộc Đường trên đường hóa duyên bỗng nghe tiếng một kỹ nữ gọi :
-Mộc Đường hòa thượng, vào chơi rồi hãy đi.
Ông ngạc nhiên không biết ai lại biết tên mình bèn hỏi lại :
-Cô là ai ? Sao biết tôi ?
Thì ra cô gái đó là con một thí chủ. Cô nói trên đường toàn là khách uống trà không có phiêu khách nên không kiếm được tiền. Cô khẩn khoản mời hòa thượng bồi bạn với cô qua đêm. Mộc Đường nhận định rằng vì có duyên nên mới gặp gỡ bèn đồng ý vào kỹ viện. Nhưng ông không ngủ trên giường với kỹ nữ mà ngồi thiền trên sàn nhà. Đến nửa đêm, kỹ nữ không nhẫn nại được nữa, thỏ thẻ :
-Sao thầy không lên giường ngủ với em ?
-Công việc của cô là ngủ với người, công việc của tôi là ngồi thiền. Đừng để ý đến tôi, hãy ngủ cho ngon giấc.
Hai người qua đêm như vậy.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Người học thiền phải biết quý cái tâm tự nhiên của mình, không bị sắc giới, sanh tử, thiền cảnh trói buộc, tự do tự tại.

1730.- Tuyết đầy chén bạc.

Một ông tăng hỏi thiền sư Ba Lăng :
-Đề Bà Tông là thế nào ?
-Tuyết đầy chén bạc.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Tuyết ở đây chỉ thiền, chén bạc chỉ Phật pháp. Dùng thiền để vào Phật pháp như đem tuyết đổ đầy chén bạc. Tuyết trắng che lấp chén bạc là phủ định chén bạc, phủ định Phật pháp. Trong quá trình phủ định cái sanh ra là chân lý của thiền. Mỗi người trong tâm đều có một vật đựng. Trước yêu mình rồi ái tâm sẽ thăng hoa mà yêu người. Đó là chân ái, đem lòng chí thành, chí chân mà quan tâm đến người. Phật pháp và thiền không có sai biệt, nếu có thì là đối lập, chỉ có hợp nhất mới là Phật pháp và Thiền. (Xem thêm công án 117).


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Ba, 14 Aug 2012, 7:49 PM | Message # 349
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1731.- Chính vấn chính đáp.

Có ông tăng hỏi Động Sơn :
-Thế nào là chính vấn, chính đáp ?
-Không mở miệng.
-Nếu có người hỏi, thầy có đáp không ?
-Chưa có ai hỏi.
(Công Án Thiền Cơ)

Ở đây ông tăng hỏi là hỏi về thể tánh không. Thể tánh không khi có nhân duyên tới thì cảm ứng, khi tâm không khởi động niệm thì nhân duyên không tới. Dùng thể tánh không để hỏi, làm sao hỏi ? Hỏi chân chính là không hỏi, chỉ có thể cảm tri. Làm sao dùng thể không để cảm tri ? Cái cảnh giới đó như thế nào ? Đó là lời dư thừa bởi vì hỏi không ra. Vì sao ? Vì nói ra thì cảnh giới đó không còn là cảnh giới đó nữa. Cho nên không thể nói, vì vậy Động Sơn mới bảo :
-Không mở miệng.
Ông tăng không hiểu, lại đưa ra câu hỏi :
-Nếu có người hỏi thì sao ?
Chính vấn thì không hỏi vì không thể hỏi. Đương nhiên nếu không hỏi thì không đáp. Tâm một khi khởi động niệm liền lìa bản thể. Đối với câu ông tăng hỏi vì chưa có người chính vấn đặt câu hỏi nên thiền sư đáp :
-Chưa có ai hỏi .
Người kiến tánh không hỏi, vì hỏi là lìa bản thể không, không phải là chính vấn nữa.

1732.- Đầu gậy trăm trượng bước thêm bước nữa.

Tông Phong là tổ sư khai sơn Đại Đức Tự. Mới đầu cắt tóc xuất gia ở Vạn Thọ Tự, chăm chỉ học tập Phật pháp, sau khi ngộ rồi lại theo thiền sư Thiệu Minh khắc khổ ma luyện. Thường các vị thiền sư giác ngộ rồi thì ở lại chùa giáo hóa đồ đệ, nhưng Tông Phong thì lại lìa Vạn Phật Tự. Ông ẩn cư ở Vân Cư Am cùng sinh hoạt với bọn ăn mày ở Ngũ Đại Kiều và giảng Phật pháp cho bọn họ. Trải 20 năm như vậy, một hôm ông được Thiên Hoàng triệu kiến. Khi gập mặt, Thiên Hoàng bảo ông :
-Phật pháp vô biên không thể nghĩ bàn, một gã ăn mày đối tọa với Thiên Hoàng.
Ông trả lời ngay :
-Vương pháp không thể nghĩ bàn, Thiên Hoàng đối diện với Phật pháp.
Thiên Hoàng thấy Tông Phong đối với uy nghi của Hoàng Đế mà vẫn thản nhiên không hề khiếp phục thì rất kính phục.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Đối với câu nói của Thạch Sương :
-Đầu gậy trăm trượng làm sao bước thêm bước nữa ?
Trường Sa trả lời :
-Đầu gậy trăm trượng, bước bước nữa
Đại thiên thế giới hiện toàn thân.
Đã leo tới đầu gậy là đã đạt ngộ. Ngộ đạo rồi nên tiến lên cảnh giới cao hơn là lìa đầu gậy bước vào thế giới hiện thực, một là để đào luyện đạo lực của mình, hai là để cứu độ chúng sanh. Sinh hoạt của thiền sư Tông Phong chính là như vậy. (Xem thêm công án 275).

1733.- Không màng danh lợi.

Khai sơn tổ sư của tông Tào Động Nhật Bản là Đạo Nguyên. Cả đời ông không hề chạy theo danh lợi. Khi Đạo Nguyên du học ở Trung Quốc, ngộ đạo rồi, từ biệt Như Tĩnh về nước. Như Tĩnh bảo :
-Phen này ông về Nhật Bản, tuyên dương Phật pháp, khai hóa dân tâm, đừng sống ở nơi thành thị, đừng thân cận các vị quan lớn, cứ sống ở nơi rừng sâu, núi thẳm mà dạy dỗ học trò.
Đạo Nguyên y lời dạy, trở về nước mới đầu cư ngụ ở kinh đô. Về sau danh tiếng càng cao bèn rời về làng Vũ Trị dạy học và hoàn thành tác phẩm Chánh Pháp Nhãn Tạng. Ông từng nói :
-Học tập Phật đạo là học tập chính mình. Học tập chính mình là quên đi chính mình, quên đi chính mình là chứng minh vạn pháp, chứng minh vạn pháp là thoát ly chính mình.
Danh càng cao thì càng nhiều phiền nhiễu, ông bỏ Vũ Trị di chuyển đến nơi xa xôi hơn, lập nên Vĩnh Bình Tự. Chính quyền Mạc Phủ vời ông đến Liêm Thương, ông vâng lời. Nửa năm sau ông lại trở lại Vĩnh Bình Tự. Trong khi ông vắng mặt đệ tử Huyền Minh nhận 2000 thạch do Mạc Phủ hiến tặng. Đạo Nguyên biết chuyện này rất tức giận, mắng đệ tử :
-Ông là đồ thối tha mới nhận tiền của người, tôi bình sinh chưa hề thuyết pháp vì danh hay lợi. Ông nghe theo lời của người quyền thế vọng cầu danh lợi là giặc của Phật.
Nói rồi đuổi Huyền Minh ra khỏi chùa, đoạn tuyệt quan hệ.
(Danh Thiền Bách Giảng)

1734.- Một bài Thiền thi của Hoa Đình Thuyền Tử.

天尺 絲 綸 直 下 垂
Thiên xích ty luân trực hạ thùy
一波 才 動 萬 波 隋
Nhất ba tài động vạn ba tùy
夜靜 水 寒 魚 不 食
Dạ tĩnh thủy hàn ngư bất thực
滿船 空 載 月 明 歸
Mãn thuyền không tải nguyệt minh quy.

Buông xuống dây câu dài ngàn thước
Một sóng vừa động, vạn sóng theo
Đêm tĩnh nước lạnh cá không đớp
Thuyền không chỉ chở ánh trăng gieo.
(Thiền Môn Khai Ngộ Thi)

1735.- Linh hồn.

Thiền sư Bạch Ẩn lúc nhỏ có lần bị một loại thiền bệnh là do tinh thần suy nhược mà ra. Lúc đó sư phụ ông bị bệnh liệt giường, ông phải túc trực hầu hạ bên mình. Ban ngày hầu hạ sư phụ, ban đêm tọa thiền niệm Phật. Trải mấy tháng trời như vậy, một hôm trong khi ngồi thiền ông thấy xuất hiện một đầu mèo to bằng bánh xe bò. Ông hoảng sợ, nhưng định tâm lại không thèm để ý đến nữa. Một lúc thì đầu mèo biến mất. Lại một hôm khác, đang ngồi thiền, ông bỗng thấy mình nhẹ bỗng, thấy mình bay khỏi Điền Vũ Thành, bay qua Năng dã sơn rồi dọc theo ven biển Ký Châu. Bạch Ẩn kinh hoàng hét lớn :
-Không thể thế được !
Tiếng hét này làm tâm ông trở lại bản thể. Bạch Ẩn liền hiểu rằng linh hồn là do ý niệm sinh ra.
(Danh Thiền Bách Giảng)

Khẳng định có linh hồn là thường kiến, phủ định có linh hồn là đoạn kiến. Thiền là vượt lên thường kiến và đoạn kiến, chỉ coi trọng hiện tại.


Đại Bi Chú
 
LongTracAn Date: Thứ Tư, 15 Aug 2012, 6:32 PM | Message # 350
Generalissimo
Group: admins
Messages: 3159
Status: Tạm vắng
1736.- Bài kệ của Đông Sơn Huệ Không.

梁魏 山 河 本 太 平
Lương ngụy sơn hà bản thái bình
無端 容 此 老 狐 精
Vô đoan dung thử lão hồ tinh
九年 皮 髓 分 張 盡
Cửu niên bì tủy phân trương tận
隻履 空 棺 更 誑 人
Chích lý không quan cánh cuống nhân.

Đất nước Lương Ngụy vốn thái bình
Vô cớ lại chứa lão Hồ tinh
Chín năm chia hết da và tủy
Bỏ dép trong hòm dối chúng sanh.
(Thiền Môn Khai Ngộ Thi)

Đây nhắc lại tích Đạt Ma quẩy một chiếc dép về Tây, khi đi ngang qua ngọn Thông Lãnh thì gặp Tống Vân đi sứ trở về. Vân hỏi :
-Thầy đi đâu ?
-Tôi về Tây Phương.
Khi gặp vua, Vân kể lại câu chuyện trên, vua sai quật mả Tổ lên thì chỉ thấy một chiếc dép. (Xem thêm công án 442)

1737.- Bài kệ của ni sư Vô Trước.

殺活 并 行
Sát hoạt tịnh hành
醍醐 毒 藥
Đề hồ độc dược
是賞 是 罰
Thị thưởng thị phạt
一任 卜 度
Nhất nhậm bốc độ

Thi hành cứu, giết
Thuốc độc, đề hồ
Là thưởng hay phạt
Do ông tự lo
(Thiền Môn Khai Ngộ Thi)

Đây là phê bình câu nói của Đức Sơn :
Nói được hay không cũng đánh ông 30 gậy.
Dù đáp được hay không, Đức Sơn đều đánh. Vì sao ? Đây không phải là thưởng hay phạt mà là xem trình độ hư thực của ông tăng thế nào .

1738.- Nhận giả làm chân.

Một ông tăng hỏi Đầu Tử Đại Đồng :
-Mặt trời, mặt trăng chưa sáng, Phật và chúng sanh ở đâu ?
-Thấy lão tăng giận nói giận, Thấy lão tăng vui nói vui.
(Công Án Thiền Cơ)

Lời giải thích ở đây bổ túc cho lời giải thích ở công án 69. Chúng ta sống trong thế giới này thường nhận giả làm chân, cứ nhận rằng những gì mình nhìn thấy, nghe thấy là thật. Người chưa giác ngộ, Phật tánh bị vọng tưởng tập khí che lấp.
Thường trong thiền học người ta lấy mặt trời, mặt trăng, tinh tú để chỉ các thức 8, 7, 6 .
Khi mặt trời (8) sáng chỉ ánh sáng của trí tuệ hiển hiện, chiếu phá tất cả phiền não, tình kiến. Khi trăng (7) sáng thì tâm không vọng chấp, những chủng tử của A Lại Da Thức là thật mà lạc vào ảo cảnh. Khi tinh tú (6) sáng thì tâm không còn phân biệt ngoại cảnh nữa. Ba thức này tạo nên nghiệp lực của chúng ta. Vì vậy cần mặt trời, mặt trăng sáng để khống chế hành vi của thức thứ 6, vĩnh viễn thoát khỏi phiền não, chứng đắc vô thượng Bồ đề.
Giận là cái gì ? Chỉ là tướng bên ngoài. Nội tâm thiền sư có giận không ? Phật tánh như như bất động có giận không? Phật tánh không nổi giận, nổi giận là tập khí. Chúng ta thấy cổ tăng đại đức thường nổi giận để độ chúng sanh, kỳ thật nội tâm họ như như bất động. Cũng như trong công án này thấy lão tăng giận nói giận, vui nói vui, đó chỉ là nhìn quả không nhìn thấy nhân. Thể tánh của chúng ta là cái gì ? Là vô lậu công đức, có vô lậu công đức tướng làm sao có thể nổi giận ? Phiền não, tham, sân, si ? Không thể được ! Nhân vì si là không nhận thức được nhân quả. Thể tánh sao lại không nhận thức được nhân quả chứ.

1739.- Bài kệ của Phật Huệ.

出門 便 是 太 忙 然
Xuất môn tiện thị thái mang nhiên
萬里 無 來 未 得 圓
Vạn lý vô lai vị đắc viên
欲識 山 家 門 去 路
Dục thức sơn gia môn khứ lộ
暮煙 輕 鎖 綠 綿 綿
Mộ yên khinh tỏa lục miên miên

Cứ ra khỏi cửa là mịt mùng
Vạn dậm không đi, chuyện chẳng cùng
Muốn biết con đường ra khỏi cửa
Khói lam chiều nhẹ nhẹ vờn không.
(Thiền MônKhai Ngộ Thi)

Phật Huệ nhắc đến công án “ra cửa liền là cỏ.” (Xem công án 668)

1740.- Bốn bà vợ.

Một hôm, Đức Phật kể cho đại chúng nghe một câu chuyện cổ :
-Ngày xưa, có một vị phú thương có 4 bà vợ.
Bà thứ 1 : lanh lợi, đáng yêu, luôn ở bên cạnh.
Bà thứ 2 : do ông chiếm đoạt về, rất xinh đẹp.
Bà thứ 3 : giúp đỡ ông trong sinh hoạt.
Bà thứ 4 : vì suốt ngày đêm đôn đáo việc này việc nọ, ông ta hầu như quên hẳn sự tồn tại của bà này.
Một lần phú thương định đi xa, hành trình rất gian khổ. Ông định đem theo một bà vợ đi cho có bạn. Ông ngỏ ý với các bà.
Bà thứ 1 :
-Ông cứ đi đi, tôi không theo đâu !
Bà thứ 2 :
-Tôi bị ông chiếm đoạt về, không phải là tự nguyện, tôi không đi.
Bà thứ 3 :
-Tôi không chịu được gian khổ, cùng lắm đưa ông ra tới cổng thành thôi.
Bà thứ 4 :
-Dù ông đi đâu tôi cũng theo, vì tôi là vợ ông.
Do đó, ông đem bà thứ 4 theo.
Kỳ thật, phú thương là chúng ta. Bà thứ 1 là thân xác ta, khi chết ta không mang theo được. Bà thứ 2 là tiền bạc do ta kiếm về, sanh không mang đến, chết chẳng thể đem theo được. Bà thứ 3 là bạn bè. Bà thứ 4 là tự tánh.
(Nhất Nhật Nhất Thiền)

Tự tánh vĩnh viễn đi theo ta. Chúng ta phải gìn giữ tâm điền để cho sự sinh hoạt trở về thuần phác.


Đại Bi Chú
 
Search:


TỰ-ĐIỂN TRỰC-TUYẾN :

Từ Điển Online
Bấm vào dấu V để chọn loại Tự-Điển
Gõ Chữ muốn tìm vào khung trắng dưới đây:
Xong bấm GO