Thứ Sáu
29 Mar 2024
9:17 AM
ĐĂNG NHẬP


Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

[ BÀI VIẾT MỚI · Forum rules · TÌM KIẾM · RSS ]
  • Page 1 of 1
  • 1
FORUM » TRANG THÔNG TIN » CHIA BUỒN » NHẠC SĨ PHẠM DUY qua đời
NHẠC SĨ PHẠM DUY qua đời
socolar Date: Chủ Nhật, 27 Jan 2013, 9:35 PM | Message # 1
Colonel
Group: Users
Messages: 194
Status: Tạm vắng
Nghệ sĩ Việt ngậm ngùi tiếc nhớ Phạm Duy
Ánh Tuyết bùi ngùi vì không kịp ra đĩa nhạc tặng Phạm Duy còn Tùng Dương buồn đến nỗi ngừng ngang công việc thu âm anh đang làm khi nghe nhạc sĩ tài hoa qua đời.

Phạm Duy cười hạnh phúc trong đêm 'Tạ ơn đời'

Nhạc sĩ Phạm Duy qua đời

Ánh Tuyết: "Buồn khi không kịp mang đĩa đến tặng ông!"

Từ khi học lớp 3, lớp 4 tôi đã biết hát và yêu nhạc Phạm Duy. Ngày ấy, tuy chưa hiểu hết ý nghĩa của những ca khúc như Tình hoài hương, Đưa em tìm động hoa vàng, Ngày xưa Hoàng Thị, Áo anh sứt chỉ đường tà... tôi đã say mê và ngấm vào lòng những giai điệu trữ tình ấy. Ngày đó, ở quê, tôi còn được mọi người gọi với nickname là "Tình hoài hương" vì còn bé tý mà đã thể hiện thành công nhạc phẩm này.

pham-duy-2-jpg-1359284292-1359284296_500
Ánh Tuyết thăm Phạm Duy ngày ông nằm cấp cứu ở bệnh viện cách đây không lâu.

Trên con đường âm nhạc của mình, tôi dành cho Phạm Duy sự kính trọng, yêu mến gia tài âm nhạc đồ sộ mà ông để lại. Trong nhạc Phạm Duy có tình yêu quê hương, yêu đất nước, cuộc sống... nhưng nhiều nhất là sự đa tình - tình yêu đôi lứa.... thứ tình yêu duyên dáng, mặn mà, rất Việt Nam mà hiện đại.

Từ lâu tôi đã ấp ủ thực hiện album nhạc riêng về nhạc sĩ Phạm Duy. Nhưng do thời gian, do bận bịu và nhiều yếu tố khách quan, đến gần đây tôi mới có thể bắt tay vào thực hiện. Những ngày cuối đời, ông đều giữ sự vui vẻ, lạc quan và rất vui khi mỗi khi tôi ghi âm được bài hát nào đó gửi qua email cho ông nghe. Tôi rất buồn khi chưa kịp hoàn thành bộ 3 album này để đến khoe với ông như mong muốn.

Cẩm Vân: "Ông ra đi để lại mất mát lớn cho nền âm nhạc!"

Nhạc sĩ Phạm Duy qua đời là một mất mát lớn của nền tân nhạc Việt Nam. Tôi nhớ tiếc vừa ở góc độ một người ca sĩ thể hiện nhạc phẩm của ông vừa như một khán giả yêu thích các ca khúc của Phạm Duy. Chỉ cần nhìn vào gia tài hàng nghìn sáng tác của ông, mà phần lớn đều hay, đều đi vào lòng người nhờ vào sự hòa quyện giữa nét hiện đại và truyền thống, mới thấy được sức làm việc đáng nể cũng như sự đóng góp rất lớn của ông cho âm nhạc Việt.

Ca khúc của ông, dù sáng tác hay phổ thơ, đều tinh tế, tài hoa về giai điệu, truyền thống ra truyền thống, hiện đại ra hiện đại. Trong số các sáng tác ấy, tôi yêu nhất là bài hát Áo anh sứt chỉ đường tà. Mỗi lần thể hiện nhạc phẩm này, tôi đều cảm phục nhạc sĩ ở việc ông dồn nén được mọi cung bậc cảm xúc vào bài hát. Mọi hỷ, nộ, ái, ố... đều được gửi vào nhạc điệu.

Quang Hà: "Ông có nhiều ca khúc đi vào lòng người!"

Quang Hà khá bàng hoàng khi nhận được tin Phạm Duy Mất. Anh cho biết, những ca khúc của Phạm Duy đã đi vào lòng người mộ điệu trong và ngoài nước. Sự ra đi của ông là một mất mát lớn cho nền âm nhạc Việt Nam. Nam ca sĩ Hà Nội chia sẻ, anh thường chọn ca khúc Cây đàn bỏ quên để hát thường xuyên trong các phòng trà ca nhạc tại TP HCM và được nhiều người yêu mến. Đây cũng là bài hát “tủ” của anh trong sự nghiệp ca hát.
19-1350380996-480x0-jpg-1359284178_500x0
Ca sĩ Mỹ Lệ.

Mỹ Lệ: "Phạm Duy đã sống trong sự yêu thương của mọi người"

Đang chuẩn bị cho đêm nhạc Cặp đôi hoàn hảo, khi được biết thông tin Phạm Duy qua đời, Mỹ Lệ cũng không khỏi chua xót.

Chị bùi ngùi, hiếm có một nhạc sĩ nào có tinh thần lạc quan và yêu đời như Phạm Duy. "Con người già rồi cũng có lúc phải ra đi nhưng nhìn lại quãng đời của nam nhạc sĩ, ông có phúc vì được sống trong sự yêu thương của người hâm mộ", chị nói.

Nữ ca sĩ cho biết, chị từng có vinh dự thể hiện các tác phẩm của ông: Tôi đang mơ giấc mộng dài, Kiếp nào có yêu nhau, Tiếng đàn tôi. Theo chị, nhạc Phạm Duy đòi hỏi ca sĩ có một quãng rộng và nội lực thâm hậu. Chị cho rằng, âm nhạc của ông vừa bác học vùa gần gũi, thân quen.

Nhạc sĩ Quốc Bảo: "Phạm Duy để lại màu sắc âm nhạc chỉ riêng ông có!"

Nhạc sĩ Quốc Bảo chia sẻ trên trang các nhân: "Ở ngoài đời, tôi chỉ trò chuyện với ông đúng ba lần: khi ông về nước lần đầu, khi làm đĩa Những bài tình Duy Quang (2005) và khi làm concert Đêm Hiền cho chị Thái Hiền (2006). Nhưng Phạm Duy là nguồn cảm hứng và ảnh hưởng lớn đến âm nhạc của tôi (giai đoạn Vàng Son) vì bằng tài năng của ông, ông đã 'bắt' tiếng Việt và ngũ cung Việt phải vang lên một cách đẹp đẽ nhất, thiết tha nhất, giàu âm hưởng nhất. Gần như một mình một cách không lẫn vào đâu, bằng những sáng tạo về lai ghép điệu thức, ông đã rải thảm hoa với màu sắc chỉ riêng ông có, cho khu vườn ca khúc Việt. Tôi viết đoạn này để tưởng niệm ông".
duong-jpg-1359283458_500x0.jpg
Ca sĩ Tùng Dương bên nhạc sĩ Phạm Duy.

Tùng Dương: "Quá buồn về sự ra đi của ông"

Tôi đang thu âm thì nhận được tin về cái chết của Phạm Duy. Tôi quá buồn và không thể hát được nữa trước hung tin này. Không thể buồn hơn được nữa... Tôi là một trong nhiều ca sĩ yêu nhạc của ông. Sự ra đi của ông khiến không chỉ tôi mà hàng ngàn người yêu nhạc Việt Nam phải tiếc thương. Tôi dành một phút cúi đầu trước vong linh của ông.
Tang lễ nhạc sĩ Phạm Duy được tổ chức tại tư gia ở Lê Đại Hành, Phường 13, Quận 11, TP HCM. Lễ nhập quan diễn ra lúc 9h ngày 28/1. Lễ động quan lúc 6h ngày 3/2. Nhạc sĩ Phạm Duy sẽ yên nghỉ tại Hoa viên Nghĩa trang Bình Dương.

vnexpress

Thành thật chia buồn với Gia Đình nhạc sỹ. Cầu chúc hương linh ông sớm siêu thoát!


Message edited by socolar - Chủ Nhật, 27 Jan 2013, 9:36 PM
 
saigoneses Date: Chủ Nhật, 27 Jan 2013, 9:47 PM | Message # 2
Lieutenant general
Group: Administrators
Messages: 505
Status: Tạm vắng
NHẠC SĨ PHẠM DUY QUA ĐỜI: CHỦ NHẬT BUÔN...
Nguyễn Đông Thức 28/01/2013 07:30 (GMT + 7)

Tuổi Trẻ - Sáng chủ nhật 27-1 vào Bệnh viện 115 thăm, thấy ông vẫn còn rất minh mẫn dù đang thở oxy. Ông nhận ra từng người, nói mình khỏe và cười khi nghe "thế nào cháu cũng đến chúc tết bác".



Là người Hà Nội, xuất hiện trước công chúng bao giờ ông cũng thật tinh tươm, vì thế khi ý thức tình trạng tiều tụy của mình, trong bệnh viện bao giờ ông cũng "xin lỗi tôi không tiếp chuyện lâu được" trước những người vào thăm, đặc biệt là với phụ nữ.

15g, nghe tin ông đã mất... Bên mình không một người thân...

Là hàng xóm của ông từ thập niên 1960, quan tâm đến ông từ lúc ông bắt đầu nộp đơn xin về nước, theo ông suốt chuyến đi xuyên Việt thực hiện bộ phim tài liệu Phạm Duy - nhạc & đời (*) do tôi viết kịch bản với đạo diễn Ðinh Anh Dũng, làm MC trong nhiều chương trình của ông ở các cà phê sách Phương Nam..., giờ phút này tôi chỉ ấn tượng nhất về ông hai điều:

Thứ nhất, tôi chưa thấy người cha nào thương con bằng ông (lẽ dĩ nhiên còn vô số người cha thương con không kém ông, nhưng tôi chưa được gặp). Tám đứa con, nhắc tới đứa nào là mắt ông cũng sáng lên, giọng đầy tự hào. Ông chăm chút từng chút cho mỗi người, đến mức tôi luôn ngạc nhiên khi họ đã lớn vậy mà vẫn để cho ông phải lo như một đứa trẻ. Mỗi một sô của ông, thậm chí ông còn lo vé cho từng đứa con trở về. Nghề nghiệp của con cái đều do ông quyết định và xây đắp...

Ðối với ông, con cái là mối quan tâm lớn nhất. Chính tay ông đã dẫn dắt tất cả những người con của mình vào con đường âm nhạc. Dạy từng nốt nhạc, từng cách hát. Sáng tác cho con và vì con.

Với ông, những đứa con mãi mãi vẫn bé bỏng như những đứa trẻ. Dù đó đã là danh ca Duy Quang, Thái Hiền, Thái Thảo vang bóng một thời, dù đó đã là Duy Cường tài hoa nổi tiếng. Hơn 80 tuổi, khi ca sĩ Duy Quang mở phòng trà, đều đặn mỗi tối ông vẫn đến để giúp con tiếp khách, góp ý biên tập chương trình. Hơn 90 tuổi ông vẫn chưa yên tâm vì còn vài người con chưa lập gia đình hoặc còn phải mưu sinh khó khăn. Mấy tháng trước, ngay cả lúc bệnh nặng, gặp người vào thăm, ông chẳng lo gì bản thân mà cứ nằn nì nhờ cậy tìm cách chữa chạy cho ca sĩ Duy Quang đang bị ung thư. Dù đã tuổi cao, sức yếu, hơi tàn ông vẫn yêu thương, lo lắng, chăm sóc cho từng người con, từng chút một. Một tình yêu thương vô bờ bến.

Chính vì biết ông rất thương con như vậy nên hơn một tháng trước đây, ngày 19-12-2012, khi người con trai cả của ông là ca sĩ Duy Quang mất vì bệnh ung thư ở Mỹ, thoạt đầu đã không có ai dám báo tin cho ông. Nhưng rồi ông cũng phải biết, bình tĩnh đến đáng ngạc nhiên. "Tôi không đau ở đây - ông đặt tay lên đầu - mà là đau ở đây - lên tim". Trái tim già nua và sử dụng hết công suất hơn rất nhiều người ở tuổi ngoài 90 có lẽ đã quá tải với cơn đau ấy. Một tháng qua ông phải vào bệnh viện mấy lần và cuối cùng đã gục ngã.

Ðiều thứ hai tôi ấn tượng về ông là về sức làm việc. Con số hơn 1.000 ca khúc để lại chưa đủ cho thấy sức làm việc đáng nể của người nhạc sĩ này. Mấy năm nay đến nhà, tôi luôn thấy ông thường ngồi trước máy vi tính. Ông nói: "Tôi mắc bệnh... nghiện làm việc, dù sức khỏe không còn được như xưa. Lúc trước tôi ngồi năm tiếng trước máy, giờ thì chỉ hai tiếng phải nghỉ tí rồi mới làm tiếp được".

Trở về VN sau 30 năm sống tại Mỹ, ông vẫn tiếp tục công việc sáng tác, phổ nhạc, viết sách. Ông đang thực hiện một quyển sách tập hợp các kinh nghiệm mình học hỏi được trong nhiều năm ở xứ người, cũng như toàn bộ tinh hoa ông chắt lọc được trong hành trình đến với âm nhạc.

Ðồng thời, ông còn dự định cho phát hành quyển sách mang tên Vang vọng một thời viết về xuất xứ, hoàn cảnh ra đời các ca khúc của mình. Một sức làm việc và một tình yêu với công việc của đời mình thật đáng nể. Ði sô với ông, bao giờ tôi cũng thấy trước đó có vẻ như ông đang mệt hết hơi, chỉ cần tới giờ phải ra sân khấu là lại tươi tỉnh, tinh tươm và hoạt bát đầy năng lượng! Lòng yêu nghề và sức làm việc ấy là một bài học lớn cho tôi. *

Thêm một ngày chủ nhật buồn!

Chợt nhớ tới lời Việt mà ông viết - có ai tìm ra nhạc sĩ nào của VN viết nhạc phổ thơ và viết lời Việt cho ca khúc nước ngoài hay bằng ông? - cho bài Sombre dimanche (**):

Chủ nhật nào tôi im hơi
vì đợi chờ không nguôi ngoai
bước chân người
nhớ thương tôi
đến với tôi thì muộn rồi
Trước quan tài khói hương mờ
bốc lên như vạn ngàn lời
dẫu qua đời mắt tôi cười
vẫn đăm đăm nhìn về người...


Trong Phạm Duy - nhạc & đời, ông cho biết mình thích nhất Tình ca trong những ca khúc đã viết, rồi nói về cái chết của mình: "Mộ tôi sẽ nằm trên môi những người hát Tình ca. Cứ mỗi lần có ai hát bài này, tôi tin là mình đang được tái sinh trong lòng họ".

Vâng. Trước quan tài khói hương mờ, ngày mai đây và nhiều ngày sau nữa sẽ vẫn còn rất nhiều người hát: Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời... Ðể tin ông sẽ còn sống rất lâu trong lòng người yêu nhạc VN.

(*) Bộ phim tài liệu này chưa phát hành.

(**) Ca khúc gốc Szomorú Vasárnap của nhạc sĩ Rezso Seress (Hungary) viết năm 1932 đã từng khiến nhiều người tự tử khi nghe.


Nguồn: tuoitre.vn


Message edited by saigoneses - Chủ Nhật, 27 Jan 2013, 11:04 PM
 
saigoneses Date: Chủ Nhật, 27 Jan 2013, 11:55 PM | Message # 3
Lieutenant general
Group: Administrators
Messages: 505
Status: Tạm vắng
"CA SĨ CÒN HÁT NHẠC CỦA TÔI NGHĨA LÀ TÔI CÒN SỐNG"

Vietnamnet "Tôi đã nói về cái chết từ khi 40 tuổi. Tôi coi mục đích tối hậu của con người là cái chết. Tôi không có gì là hãi hùng và buồn phiền cả... Ca sĩ còn hát nhạc của tôi là tôi còn sống”.

Nhạc sĩ Phạm Duy, người vừa đi về miền miên viễn, từng chia sẻ như vậy với VietNamNet nhân dịp chương trình “Điều còn mãi 2012” của báo trình diễn nhạc phẩm “Tình ca” của ông vào đúng ngày Quốc khánh.



Vào thời điểm ấy, sức khỏe ông đã xuống rất nhanh, khiến ông phải ngồi xe lăn, ăn uống khó khăn. Ông gần như thức trắng đêm và chỉ ngủ được vài tiếng vào ban ngày. Ngày bình thường của ông trôi qua trong căn nhà im vắng ở lưng chừng một con hẻm đường Lê Đại Hành. Căn nhà ấy thường chỉ đông vui vào cuối tuần khi con cháu, dâu rể về thăm hỏi, ăn uống.

Ấy vậy mà, khi thần sắc đã trở nên mệt mỏi vì tuổi già, ông vẫn miệt mài sáng tác, và khoe với người viết ông vừa hoàn thành 10 ca khúc phổ thơ của thi sĩ Bích Khê. “Nếu được theo đúng thuyết nhà Phật, người ta ăn ở đức độ thì sẽ được tái sinh. Và nếu có sự tái sinh thì tôi sẽ không thích tái sinh nữa đâu. Bởi vì mệt quá rồi. Các nhạc sĩ ở đây sướng lắm, không ai mệt như tôi cả, không ai đi nhiều, hát nhiều và sáng tác nhiều như tôi cả. Khổ tâm lắm”, ông nói với phóng viên VietNamNet.

Thưa ông, vậy hẳn là ông đã viết di chúc. Cháu xin mạn phép được tò mò, điều gì làm ông tâm tư nhất trong bản di chúc ạ? Vậy còn đám tang, ông có tâm nguyện gì về đám tang của mình?

Tôi sợ nhất là vấn đề đó. Đám tang của tôi rùm beng là tôi ghét lắm. Tôi muốn đốt cùng với xác mẹ. Cùng lắm đưa đi một cái chùa nào đó, (trong) một hai bình tro gì đó. Kinh nghiệm như nhà lưu niệm của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đến thì thấy vắng tanh như chùa bà đanh. Ca sĩ còn hát nhạc của tôi, nghĩa là tôi còn sống.

Ở tuổi xưa nay hiếm thế này, ông có còn cảm thấy mình mắc nợ gì với cuộc đời không?

Nợ thì nhiều. Tôi tự thấy mình đã sống bừa bãi. Cách nay 10 năm thì tôi ổn định một tí. Còn trước kia tôi liều lắm, tôi làm những chuyện mà người ta không dám làm. Tôi lao vào những trò chơi làm ảnh hưởng đến tiếng tăm của mình. Tôi hối hận lắm nhưng đành chịu thôi. Tôi mong người ta đừng nghĩ nhiều về những hành động đó, mà nhìn vào những bản nhạc của tôi. Còn nói về người ngoan thì tôi không phải là người ngoan.

Cuộc đời đưa ông dường như luôn đứng trước những sự kiện phải chọn lựa giằng xé giữa hai thái cực, vậy có khi nào ông phải trả giá?

Trả giá ghê lắm chứ, nếu tôi đừng bỏ nước ra đi thì chắc tôi vẫn còn 3 căn nhà trị giá 3 triệu USD. Còn 8 đứa con như vậy, gọi là để lại một gia tài thực sự thì ít nhất cũng phải 3 cái nhà chứ. Đó là một cái nhỏ thôi đấy. Còn những cái khác nữa. Trường hợp yêu người này mà không yêu người nọ cũng là một vấn đề nữa. Rắc rối lắm (cười).

Và hôm nay, sau nhiều năm ở hải ngoại, ông đã trở về và đã an nghỉ trên đất mẹ, khép lại trăm năm nhỏ bé và bộn bề như lời ông đã viết trong “Hẹn em năm 2000”. Ông nói ông không phải là người theo lý tưởng sống để mà đi. Thế nên, những năm xứ người là những năm ông đau đáu ngày về. “Tôi là người Việt Nam thì tôi phải sống chết với nước Việt Nam chứ. Khi qua hải ngoại được vài năm, tôi đã viết bài “Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà”. Nhưng lúc đó tôi không thể về nhà được ngay, đợi đến ba mươi mấy năm thì mới về được. Cả một đời người rồi còn gì”, ông nói.

Nguồn: vietnamnet.vn

Những người bạn thân ngậm ngùi bên linh cửu Phạm Duy


Message edited by saigoneses - Thứ Hai, 28 Jan 2013, 4:52 AM
 
atoanmt Date: Thứ Hai, 28 Jan 2013, 12:14 PM | Message # 4
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 5081
Status: Tạm vắng
Nhạc sĩ Phạm Duy qua đời tại Sài Gòn

Tác giả Nghìn Trùng Xa Cách, nhạc sĩ Phạm Duy vừa qua đời vào chiều Chủ nhật 27/01/2013 tại Sài Gòn, ở tuổi 92.

Phạm Duy, tên thật Phạm Duy Cẩn, sinh ngày 05/10/1921 tại Hà Nội. Với tác phẩm đầu tay là Cô Hái Mơ, viết năm 1942, Phạm Duy bước vào thế giới âm nhạc từ năm 1942.

Biến cố năm 1975 đưa ông sang định cư tại Mỹ và đến năm 2005, ông trở lại sống ở Sài Gòn, Việt Nam cho đến nay. Có thể nói hơn 70 năm sống với âm nhạc, Phạm Duy đã để lại nhiều tác phẩm đi vào lòng người, những ca khúc của ông gắn liền với những biến cố thăng trầm của đất nước.

Bài viết dưới đây của ca sĩ - nhà văn Quỳnh Giao viết về một ca khúc của Phạm Duy chưa đầy một tuần trước ngày ông qua đời. Trân trọng giới thiệu cùng bản đọc VOA.

Ngày Xuân, Nghe Lại Ca Khúc "Xuân Hành" Của Phạm Duy

Quỳnh Giao


Có phải là ngẫu nhiên không mà hai nhạc phẩm đầy tính chất anh hùng ca của Lizst và Beethoven đều lấy âm giai Mi giáng Trưởng (Mi bémol Majeur)? Đó là Cầm tấu khúc số 1 của Lizst có tên là "Héro" và Cầm tấu khúc số 5 của Beethoven có tên là "Emperor" viết cho đại đế Napoléon.

Trong nền tân nhạc Việt, các ca khúc về lịch sử hay những bài hùng ca thường được viết trên âm giai Fa Trưởng. Nói về nhạc thuật, các âm giai Trưởng như Do, Ré và Fa nghe thấy trong sáng và hợp với giọng Kim.

Khi giọng Kim là giọng chính (chant), bè phụ thường được viết thấp hơn để làm nổi giọng chính.

Những ca khúc như “ Việt Nam Minh Châu Trời Đông” của Hùng Lân, “Nước Non Lam Sơn” hay “Bóng Cờ Lau” và “Tiếng Chim Gọi Đàn” của Hoàng Quý, “Hội Nghị Diên Hồng” hay “Bạch Đằng Giang” của Lưu Hữu Phước, “Việt Nam, Việt Nam” của Võ Đức Thu, “Việt Nam Anh Dũng” của Dương Thiệu Tước”, “Việt Nam Hùng Tiến” của Thẩm Oánh…v.v. đều được viết trên cung Fa Trưởng.

Thật sự, thì âm giai trong sáng hay u tối, êm dịu hay gay gắt chỉ có ảnh hưởng với nhạc khí, chứ không ảnh hưởng với giọng hát.

Giọng hát nhẹ êm hay mạnh mà cứng là do âm sắc (timbre) của người trình bày. Giọng Thổ thường dầy hơn giọng Kim, ngược lại thì giọng Kim lanh lảnh và thánh thót hơn giọng Thổ.

Riêng các nhạc sĩ sáng tác và sử dụng dương cầm, mà Frederic Chopin là một điển hình, thì chuộng loại âm giai mang nhiều dấu giáng (bémol).
Ông cho rằng đàn những nốt giáng (phím đen trên dương cầm) thì tiếng đàn êm hơn, và về kỹ thuật thì ngón tay trườn trên phím, càng sâu càng dễ di chuyển lả lướt hơn…

Trong khung cảnh chung như vậy, ca khúc “Xuân Hành” của Phạm Duy lại được viết trên cung Mi giáng Trưởng, trong sáng mà êm dịu hơn âm giai Fa Trưởng.

Những ai mới nghe ca khúc này thì tự hỏi rằng tác giả dùng chữ "hành" trong ý nghĩa nào. Hành có thể là hành trình, hành khúc, hoặc biết đâu còn là một thể thơ cổ, như bài “Tỳ bà hành” mà ai cũng biết qua bản dịch của Phan Huy Vinh, hay bài “Hiệp khách hành” mà các độc giả của Kim Dung có thể còn nhớ và nhất là “Hành phương Nam” của Nguyễn Bính?

Người nghe hay người thưởng ngoạn có quyền mở rộng sự cảm nhận để hiểu tác phẩm từ sở thích hay nhận thức khác biệt của mình.

Nhưng nhạc sĩ Phạm Duy là người cẩn trọng, như tên của ông.

Trong cuốn "Ngàn Lời Ca" được xuất bản tại hải ngoại năm 1987, ông giải thích khung cảnh sáng tác của từng bài mà gọi đó là "sự tích".
Ông trình bày rằng mình đã soạn nhiều ca khúc về hành trình của con người trong cuộc đời, trong đó có ba bài hành là "Lữ Hành", "Dạ Hành" và "Xuân Hành".
Chúng ta liền hiểu ra ý nghĩa của chữ hành trong tác phẩm.



Nếu "Lữ Hành" là cuộc hành trình thơ thới và bất tận của loài người và được ông sáng tác tại Sài Gòn vào năm 1953 đầy hy vọng thì "Dạ Hành" là lúc con người đi trong đêm tối. Mà bóng tối ở đây không là một khái niệm về thời gian khi thiếu ánh mặt trời. Bóng tối là chông gai hiểm hóc của phận người và ca khúc cũng được viết tại Sài Gòn nhưng mà là Sài Gòn khói lửa của chiến chinh năm 1970.

Rồi Phạm Duy mới nói về cuộc đi bình thường là bài "Xuân Hành", sáng tác năm 1959, ở giữa hai bài hành kia. Hành trình bình thường và muôn thuở như câu hỏi đầy vẻ triết học là
"người là ai, từ đâu tới và sẽ đi về đâu"....

Người từ lòng người đi ra rồi sẽ trở về lòng người. Người vừa là thần thánh, vừa là ma quỷ, biết thương yêu dai mà cũng biết hận thù dài….Nhất là biết vui buồn giữa hai nhịp đập của con tim, ngay cả khi tim ngừng đập.

Với khoảng cách thời gian, nghĩa là có thêm sự chín muồi của cuộc sống, ta có thể nghe lại ba bài hành này mà thoát khỏi hoàn cảnh của Sài Gòn thời 53, 59 hay 70. Nghe lại với tâm cảnh của chính mình. Đấy cũng là lý do mà tôi thích bài “Xuân Hành” hơn cả.

Về nhạc thuật thì đấy là một ca khúc có nhịp điệu uy nghi hùng dũng, trong sáng mà êm dịu chứ không chát chúa như nhiều bài hùng ca hoặc một khúc quân hành. Bài "Lữ Hành" rất hay nhưng ít người hát vì từ đầu đến cuối là dùng nhịp chõi – syncope. Đôi khi có người còn trình bày theo điệu "swing" khá giật mà không phản ảnh được nội dung sâu sắc thánh thiện của lời ca.

So với "Lữ Hành" thì bài "Xuân Hành" dễ hát hơn, nhưng cũng cần trình bày hợp ca nên đòi hỏi kỹ thuật hòa âm mới diễn tả hết giá trị của tác phẩm. Phải chăng vì vậy mà ngày xưa, chúng ta ít được nghe ca khúc này ở ngoài các chương trình của đài phát thanh?

Bây giờ mà nghe lại, khi tư duy đã lắng đọng, người ta còn thấy ra một giá trị khác, là nội dung của lời từ.

Phạm Duy đã dẫn chúng ta vào tác phẩm với lời giới thiệu về câu hỏi muôn đời là người từ đâu tới và đi về đâu.

Nhưng trong ca khúc mà cũng là một đời người từ thuở là mầm non chớm nở đến khi trở thành lá úa, ông còn diễn tả nhiều điều khác nữa. Nổi bật trong đó là chữ nhân, hay tinh thần nhân ái là chữ mà ông dùng.

Chúng ta sinh ra là từ lòng người với tiếng khóc và nụ cười, với thương yêu và hận thù lẫn đắm say.
Nhưng chân lý muôn đời là trưa hôm qua có thể còn là người, đêm hôm sau thì đã thác, có khi là vị thần hoặc một lũ ma lẻ loi....

Chữ sinh và hủy chỉ là hai mặt của cuộc đời và ai ai cũng như vậy. Nhưng, nội dung mang tính chất thánh ca của tác phẩm nằm trong thông điệp chìm ẩn bên dưới: sự bất diệt trong vòng tử sinh đó là chữ nhân.

Nếu sinh ra và sống mãi với lòng nhân thì chẳng ai nên sợ cái chết. Cuộc hành trình của đời người mang ý nghĩa thăng hoa của một mùa Xuân khi nó được hướng dẫn bởi lòng tử tế.

Khi liên lạc với chú Phạm Duy - người viết vẫn gọi ông như vậy với sự tôn kính - về bài Xuân Hành, tôi đã lẩm nhẩm hát lại và ngẫm lại rồi nghĩ đến một thông điệp tôn giáo.

Đó là lẽ tử sinh của luân hồi, là ngũ uẩn gồm có sắc-thọ-tưởng-hành-thức.

Nhờ sự suy ngẫm đó mình tìm ra một chữ "hành" trong kinh sách nhà Phật.
Đấy là ý khác của "hành" trong bài Xuân Hành.
Rất đơn giản thì hành động tốt sẽ tạo ra thiện nghiệp để có ngày vượt khỏi lẽ tử sinh.
Phải chăng, câu "Đường nhân ái còn đi mãi mãi" của ca khúc nói về một cách sống bất tử? Nếu quả như vậy thì thông điệp này còn sâu xa hơn lời ca trong bài "Đường Chiều Lá Rụng" của Phạm Duy....

Quỳnh Giao


AToanMT
 
saigoneses Date: Thứ Sáu, 01 Feb 2013, 2:23 AM | Message # 5
Lieutenant general
Group: Administrators
Messages: 505
Status: Tạm vắng
Nhạc Sĩ Phạm Duy Qua Đời

Trần Vấn Lệ

Qua đời là Đi Qua Khỏi Cõi Đời, là Đi Ra Khỏi Cõi Đời, là Từ Trần,…là Chết!

Hàng chữ Nhạc Sỹ Phạm Duy Qua Đời là tựa đề một bản tin hàng ngày của đài phát thanh BBC phát đi từ Thủ Đô London, nước Anh, sáng sớm ngày Chúa Nhật 27 tháng Giêng năm 2013.

Tôi xin ghi lại đây toàn văn bản tin đó:

Cập nhật: 08:54 GMT - chủ nhật, 27 tháng 1, 2013

Nhạc sỹ Phạm Duy được cho như một trong những người đã kiến tạo nên nền tân nhạc Việt Nam

Người nhạc sỹ lớn của nền tân nhạc Việt Nam, Phạm Duy, vừa qua đời tại TP Hồ Chí Minh ở tuổi 93, các nguồn thân thiết với gia đình ông cho biết.

Nhà thơ Đỗ Trung Quân cho BBC hay ông được tin nhạc sỹ qua đời vào buổi trưa Chủ nhật 27/1. Có nguồn tin nói ông ra đi trong bệnh viện. Nhạc sỹ Phạm Duy có tiền sử bệnh tim và từng qua hai lần giải phẫu tim.

Ông Đỗ Trung Quân không giấu nổi nghẹn ngào:
"Tôi thực sự rất xúc động khi nghe tin ông (Phạm Duy) qua đời". "Ông là một trong những nhạc sỹ đã tạo nên diện mạo nền âm nhạc Việt Nam."

Các tác phẩm âm nhạc của Phạm Duy đã kết hợp được những nét của âm nhạc cổ truyền, dân ca, với các trào lưu phong cách hiện đại.
Ông từng nói trong một cuộc phỏng vấn với BBC:
"Tôi nghĩ rằng tôi là người Việt Nam, nếu tôi muốn được gọi là một nhạc sỹ Việt Nam, thì tôi phải làm nhạc dân ca. Đó là chuyện rất giản dị".

"Tôi phải khởi sự sáng tác của tôi bằng những bản nhạc mang tinh thần Việt Nam và với chất liệu của Việt Nam nữa."

Mới tháng trước, con trai lớn của nhạc sỹ Phạm Duy, ca sỹ Duy Quang, cũng qua đời tại Mỹ.

Vợ của ông là ca sỹ Thái Hằng, bà qua đời năm 1999.

Tài năng lớn

Nhạc sỹ Phạm Duy sinh ngày 5/10/1921. Tên thật của ông là Phạm Duy Cẩn. Không chỉ là tác giả của một khối lượng đồ sộ các sáng tác, ông còn là nhà nghiên cứu âm nhạc lớn, với công trình khảo cứu về âm nhạc có giá trị.

Phạm Duy bắt đầu con đường âm nhạc trong vai trò ca sỹ. Ông từng tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng sau bỏ vào sống trong vùng Pháp chiếm ở Hà Nội, rồi di cư vào Nam sau khi chia cắt hai niềm Nam Bắc Việt Nam.
"Tôi phải khởi sự sáng tác của tôi bằng những bản nhạc mang tinh thần Việt Nam và với chất liệu của Việt Nam nữa."

Nhạc sỹ Phạm Duy

Sau sự kiện 30/4/1975, khi ông vượt biên sang Hoa Kỳ. Các ca khúc của ông bị cấm ở trong nước một thời gian dài.
Việc ông trở về Việt Nam định cư năm 2005 đã gây ra nhiều tranh cãi. Kể từ đó, một số ca khúc của ông mới bắt đầu được phép phổ biến ở Việt Nam. Tuy nhiên cho tới nay, mới khoảng 1/10 số bài hát của ông được biểu diễn ở trong nước.

Trong cuộc trao đổi với BBC, nhạc sỹ kỳ cựu thừa nhận ông từng có giai đoạn sáng tác tuyên truyền trong các giai đoạn chiến tranh, nhưng cho rằng ông chỉ làm như vậy vì yêu nước.

"Lẽ tất nhiên bổn phận của chúng tôi là thế. Bổn phận của người nhạc sỹ khi đi theo kháng chiến, thì phải dùng cái đàn của mình để xưng tụng cuộc kháng chiến."

"Ngoài những bản nhạc về tình ái, hay về những chuyện khác, thì những bản nhạc có tính chất gọi là tuyên truyền đó thực ra cũng là những bản nhạc yêu nước thôi. Đừng nói là tuyên truyền hay không tuyên truyền."


Nhạc sỹ cho rằng âm nhạc của ông đa dạng và luôn biến đổi vì thân phận và tâm trạng của ông luôn "vui buồn" và "trôi nổi" theo vận nước.

*

Tôi mở nhiều báo điện tử trong nước, đọc được tin nhạc sĩ Phạm Duy đã qua đời. Thế là không còn nghi ngờ gì nữa. Một ông già chin mươi ba tuổi, hơn tháng trước vừa ôm ngực khóc cái chết của đứa con đầu lòng bạo bệnh, ông già không chịu đựng nổi và ngã bệnh. Con cháu đưa ông vào bệnh viện tại Sài Gòn, các bác sĩ tận tình chăm sóc nhưng không sao cãi được số trời: Phạm Duy – một Nhạc Sĩ Tài Danh của Việt Nam trải dài hai Thế Kỷ qua – đã trút hơi thở vào buổi xế trưa ngày Chúa Nhật. Khi Việt Nam ngày Chúa Nhật thì bên Mỹ đang còn ngày Thứ Bảy.

Tin nhạc sĩ Phạm Duy qua đời, các đài phát thanh Mỹ, Pháp, Úc đều đưa tin sớm, các báo Việt Ngữ, các đài Phát Thanh, Truyền Hình Việt Nam ở ngoài nước sau đó cũng loan tin, không cần dè dặt. Có nhiều người mong Phạm Duy chết liền ngay khi ông “quay đầu về núi”, về với nước Việt Nam Cộng Sản, năm 2005, ông không chết năm đó…thì có ngày cũng phải chết thôi!

Không ai đặt ra chuyện “Nghĩa Tử Nghĩa Tận” với Phạm Duy vì người ta ghét Cộng Sản, Phạm Duy “quy hàng” Cộng Sản là làm nhục cho người “Quốc Gia”. Mới thấy sớm nhất có bài báo của ông Nguyễn Thiếu Nhẫn, người còn có bút danh Lão Móc, đăng trên vài báo mạng. Ông Nguyễn Thiếu Nhẫn hoàn toàn không thương tiếc gì cái tài, cái danh của nhạc sĩ Phạm Duy. Một bài khác, không biết có lên mạng chưa, nhưng phóng vào hộp thư e mail của tôi, thì có vẻ ngậm ngùi. Bài này của nhạc sĩ Châu Đình An, tác giả nhạc phẩm nổi tiếng Đêm Chôn Dầu Vượt Biển.

Tôi xin chép luôn bài đó để bạn đọc đọc, rồi nghĩ sao thì tùy:

Đây, bài viết của nhạc sĩ Châu Đình An.


Phạm Duy: Còn Gì Đâu Trong Cuộc Được Thua

Nhạc sĩ Phạm Duy và Châu Đình An (1998)

Tháng 4 năm 1981 tôi bước chân xuống phi trường Los Angeles, California trong bỡ ngỡ của một “dân giả quê mùa” lần đầu tiên đặt chân đến thành phố sầm uất nổi tiếng của Hoa Kỳ. Đang long ngóng thì có tiếng reo “A! đây rồi…”.
Một người đàn ông ăn bận giản dị, chân đi dép và mái tóc hoa râm đến bên tôi “Phải An không?”.

Tôi nhận ra nhạc sĩ Phạm Duy, ông dẫn tôi đến bên chiếc xe Buick cũ đời 1977 màu cam nhạt, cất hành lý vào khoang xe và trực chỉ về nhà ông ở Midway City, Quận Cam Cali.

Trên đường đi từ Los Angeles đến Midway City vào khoảng gần 1 tiếng lái xe, ông hỏi thăm tôi về cuộc sống mới đến Mỹ ra sao, và một vài chi tiết thân thế long đong của tôi. Quen biết ông qua sự giới thiệu của cựu dân biểu VNCH Nguyễn Văn Cội, và khi tôi gửi đến ông 10 ca khúc để nhờ ông giúp thực hiện một băng nhạc cassette.

Những bài nhạc tôi viết từ trại tỵ nạn Hồng Kông cho đến khi qua định cư ở Kenosha, Wisconsin Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 1980.
Trong đó có những bài như Đêm Chôn Dầu Vượt Biển, Tâm Động Ca, Như Những Lời Ca Thép, Trại Tù Chữ S, Sẽ Có Sáng Mai Này, Như Một Lời Thề Nguyền…

Khi nhận được 10 bài nhạc, ông đã nhanh chóng hồi âm sau hai tuần lễ và một cuộc nói chuyện với ông dẫn tôi đến Los Angeles, mà tôi đâu biết đã bắt đầu đưa tôi bước chân vào giới nghệ thuật. Qua thư trao đổi, ông khen nhạc tôi có nét lạ của một người vừa vượt thoát từ Việt Nam sau 5 năm dưới chế độ cộng sản, và ông nhận lời đứng ra làm Producer, nghĩa là nhà thực hiện và sản xuất cho băng nhạc đầu tay trong đời sáng tác của tôi.

Bước chân vào căn nhà xinh xắn ở Midway City, tôi được chào đón bởi bà Thái Hằng, phu nhân của ông với một nụ cười hiền hậu, bà vui vẻ, dễ thương ân cần hỏi han và chỉ tay trên vách phòng ăn một bức hình tôi ở đấy. Ngạc nhiên thì bà bảo là:
“bác trai dán hình cháu để nhận diện đi đón cho dễ, mấy em ở nhà cứ thì thầm với bác là, có lẽ đây là con rơi hay sao mà bố lo lắng ân cần quá!”

Mà cũng dễ nghi lắm, vì khuôn mặt tôi và Duy Minh có phần giống nhau lắm. Tôi cười và cảm thấy gần gũi ngay với không khí gia đình ông bà Phạm Duy. Đến chiều Duy Quang đi làm về, lịch thiệp trong quần Jean và áo sơ mi trắng, nụ cười hiền hậu, Duy Quang thiện cảm chào tôi. Chúng tôi bắt tay nhau và Quang hỏi đã ăn uống gì chưa rồi không đợi tôi trả lời anh đưa tôi ra xe bảo là đi uống cà phê và thăm phố Bolsa cho biết cộng đồng mình. Mặc cho bà Thái Hằng căn dặn là chiều về ăn cơm cả nhà.

Đó là những kỷ niệm đầu tiên của tôi với gia đình nhạc sĩ Phạm Duy mà tôi còn nhớ. Đến chiều về, cả nhà đông đủ, lần đầu tiên tôi dự bữa cơm gia đình gồm có ông bà Phạm Duy và các con Quang, Minh, Hùng, Cường, Hiền, Thảo, Đức, Hạnh, 10 người ăn và thêm một miệng mới nữa là tôi. Bữa cơm rất ngon vì vui, và từ lâu tôi chưa hề có cái không khí gia đình, thân mật, ấm cúng.

Là một gia đình nghệ sĩ, các con của nhạc sĩ Phạm Duy nói chuyện thoải mái, đùa cợt với bố mẹ, nhưng vẫn có sự kính phục. Đây là một gia đình Bắc Kỳ chính hiệu có truyền thống và nề nếp. Cho dù 4 chàng con trai (Quang, Minh, Hùng, Cường) và 2 cô con gái (Hiền, Thảo) đã trưởng thành, nhưng vẫn ở chung với bố mẹ.

Nhà nhỏ, nhưng ngăn chia nhiều phòng, có phòng thì hai người, chỉ riêng Duy Quang có riêng một phòng lớn là cái gara để xe trưng dụng thành phòng ngủ, và Duy Cường có một phòng riêng vì bận làm hoà âm cho nhạc. Ngoài công việc đi làm thường ngày, nhạc sĩ Phạm Duy và các con vẫn dựng lại ban nhạc The Dreamer và mỗi cuối tuần chơi nhạc tối thứ sáu, thứ bảy tại vũ trường ở Quận Cam thời bấy giờ.

Tôi ngụ lại nhà nhạc sĩ Phạm Duy suốt thời gian hai tuần lễ thực hiện thu âm cho dĩa nhạc, phải nói là ông rất chu đáo về tổ chức, ngày nào thu thanh ai hát, xem lại bài nhạc, xem lại hoà âm, và cuối cùng, trong tay chúng tôi có dĩa master nhạc Châu Đình An, và thời bấy giờ Master băng rất to, đến hai dĩa băng nhựa nặng tay.

Nhạc sĩ Phạm Duy liên lạc với hoạ sĩ Hồ Đắc Ngọc vẽ cho tôi cái bìa băng Cassettes, chở tôi đến nhà in AnNam của ông Lê Ngọc Ngoạn để xem giá cả và ấn loát, những buổi đi làm việc như thế chỉ có ông và tôi trên chiếc xe cũ của ông băng qua những con đường trong sương mù buổi sáng, và trong xe thì luôn phát ra các ca khúc mới toanh của tôi. Bạn tưởng tượng xem, tôi hạnh phúc và ngây ngất như thế nào bên một nhạc sĩ lừng lẫy nghe nhạc của tôi mới ra lò.

Ông còn thủ bút viết cho tôi những lời sau:
“Nhạc Châu Đình An vì có nội dung rất tích cực, hy vọng sẽ là người đại diện cho những ai vừa vượt thoát từ Trại Tù Chữ S, sẽ có ngày trở về dựng cờ Quốc Gia trên đất nước thân yêu”.
Ký tên Phạm Duy


Ông không ngần ngại khen ngợi nhạc tôi viết hay, và ca khúc của tôi nhan đề Tâm Động Ca do Thái Hiền trình bày đã làm ông xúc động rưng rưng khoé mắt, lời bài hát tôi viết sau 5 năm tả tơi trong chế độ mới từ 1975 đến 1980:

“Khóc cho người ở lại Việt Nam
Một tiếng khóc thương cho đồng loại
Một tiếng khóc thương em khờ dại
Một tiếng khóc nhăn nheo mẹ già
Có tổ quốc, mà không có quê hương
Có đồng bào mà sao xa lạ
Có Việt Nam mà tôi mất đâu rồi
Có giòng sông mà con nước khô cạn
Có tình yêu mà không có bè bạn
Đứng bên này bờ biển đại dương
Nhìn chẳng thấy quê hương chỗ nào
Nhìn chỉ thấy thêm thương đồng bào
Lời tổ quốc trong tim dạt dào
Và nghe tiếng trong tôi thì thào
Giọt nước mắt lưu vong chợt trào
Tạm biệt
Tổ quốc thương yêu…
Của tôi”
(CDA 1980)

Ông xúc động và chắt lưỡi thốt lên “hay lắm!” không những vì giòng nhạc tôi mà còn vì giọng con gái ông là Thái Hiền cao vút kết thúc câu tạm biệt tổ quốc thương yêu của tôi.

Đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ một hình ảnh của nhạc sĩ Phạm Duy ngồi sau tay lái chiếc xe và nỗi rung động thiết tha với quê hương đang đau khổ. Cứ thế, hằng ngày, những câu chuyện ông kể, từ đời sống âm nhạc của ông, lộ trình vượt thoát đến Mỹ, và đến nỗi đau đớn dày vò suốt bao năm tháng dài khi 4 người con trai còn kẹt lại quê hương.

Ông cũng kể là cả hai ông bà in roneo, loại giấy copy để đóng thành tập nhạc dạy đàn guitar do Phạm Duy biên soạn để bán kiếm tiền sinh sống, và nhận lời đi hát dạo cho cộng đồng người Việt phôi thai hình thành. Ban nhạc gia đình với Phạm Duy, Thái Hằng, Thái Hiền, và Thái Thảo, ông luôn nghĩ là mình không lúc nào quên được cách để kiếm tiền, hầu có phương tiện tìm cách cứu thoát Quang, Minh, Hùng, Cường còn lại quê nhà.
Bà Thái Hằng còn cho tôi biết, những ngày bận rộn sinh kế thì thôi, còn khi về đến nhà, là ông Phạm Duy nằm dài ra thừ người, đau đớn, ray rứt với 4 người con trai mà ông đang suy tính tìm đủ cách để đoàn tụ.

Ở đây tôi muốn nói đến tình yêu con quá sức nơi nhạc sĩ Phạm Duy, cả nhà 10 miệng ăn, và từ khi còn ở Việt Nam qua đến Mỹ, nhất nhất do bàn tay của ông làm ra, từ viết nhạc, viết bài và làm những việc liên quan đến âm nhạc để nuôi sống gia đình.
Các con của ông dựa vào ông, chỉ vì yêu quá, săn sóc và lo lắng thái quá, do vậy đã dẫn đến tình trạng sau này, là ông đánh đổi tất cả sự nghiệp âm nhạc tiếng tăm, để chọn một lối thoát kinh tế cho các con khi về sinh hoạt trong một nước Việt Nam do cộng sản cai trị.
Đây là một sự thực mà ít ai hiểu được.

Trong email với nhà báo Hoàng Lan Chi, khi chị đề cập về thái độ và lời nói của ông trong các cuộc phỏng vấn của báo chí “lề phải” trong nước, đã dấy lên sự phản ứng bất bình của cộng đồng hải ngoại, về những bức ảnh ông cầm tấm thẻ “chứng minh nhân nhân”, “chứng minh hộ khẩu”, tôi đã trình bày cho chị về những điều tôi biết, và nhà báo Hoàng Lan Chi, một người quen biết với gia đình ông.

Chế độ Việt Cộng và nhạc sĩ Phạm Duy chơi “game” với nhau, cả hai lợi dụng nhau, và cả hai đều có đường tính toán khác nhau.

Chắc chắn một điều là Phạm Duy không thể nào theo cái gọi là chủ nghĩa cộng sản, và ông đã nhận ra chế độ hiện nay ở Việt Nam, không còn thứ cộng sản của thời Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, mà là cái vỏ bọc cộng sản che chắn cho cái thực chất là chế độ tư bản đỏ, độc tài toàn trị và cái ruột chính vẫn là mô hình tư bản kinh tế, hay rõ hơn là tham nhũng, bán tài sản quốc gia làm giàu cho các lãnh tụ và phe cánh.

Ông Phạm Duy chọn một lối đi như tôi đã nói ở phần trên là, lối đi kinh tế cho các con của ông sau này, mà nhìn phiến diện đó là sự thoả hiệp dễ nhạy cảm phát sinh ra sự chê trách, chống đối từ phía cộng đồng người Việt quốc gia, cái nôi đã cho ông hít thở, phát triển gần như toàn diện sự nghiệp âm nhạc của ông.
Do vậy, người ta giận dữ cũng chỉ vì tiếc cho ông, một tài năng, một biểu tượng văn hoá còn sót lại của Việt Nam Cộng Hoà.

Tôi đoan chắc là chỉ vì quá yêu thương các con, ông đã chọn về Việt Nam trong chế độ độc tài hiện hữu để có ba việc:

Thứ nhất:
Cái chết của vợ là bà Thái Hằng đã làm ông hụt hẫng năm 1999, dù ai nói ra sao về cuộc đời tình ái phiêu lưu thêu dệt của người nhạc sĩ, nhưng, có lần ông cho tôi nghe ca khúc “Nắng Chiều Rực Rỡ” mà ông bảo là viết riêng cho bà, vì cả ngàn ca khúc của ông chưa có bài nào viết cho bà. Trong đó có câu
“thế kỷ này, đang trong nắng ban chiều. Cho lòng mình bâng khuâng nhớ nhau”.
Ông bắt đầu cô độc thực sự sau ngày bà ra đi.

Thứ hai:
Người già cô độc, và đơn chiếc, dễ tủi thân mủi lòng, nếu ông mất sớm vào khoảng 70 tuổi thì thôi không có chuyện nói đến, và bây giờ Phạm Duy vẫn là thần tượng, nhưng ông sống đến trên 80 tuổi mà quê hương với ngày về thực sự vẫn xa vời vợi, chế độ cộng sản chưa sụp đổ như bao người trông chờ, không biết đến bao giờ quay trở lại cố hương.

Ông mất sự kiên nhẫn, ông muốn về một lần rồi nhắm mắt xuôi tay ở cái quê hương khốn khổ đã cho ông nếm trải nhục vinh rồi ra sao thì ra.

Thứ ba:
Sau hết là cuộc sống các con, khi ông chết rồi con mình sẽ ra sao, chẳng ai có nghề nghiệp cố định, chẳng ai có bằng cấp gì cả, chỉ hoàn toàn sống bằng âm nhạc của chính ông dạy dỗ, tạo dựng.

Và môi trường hải ngoại thì không đủ điều kiện để các con sinh sống, làm thầy thì không được, làm thợ thì khó, do vậy, ông lợi dụng chính sách gọi là “nghị quyết 36” hoà giải dân tộc để trở về, mở đường máu tồn tại và nuôi sống “âm nhạc của ông và các con”, bất chấp sự phản đối, bất chấp, ông biết là người ta sẽ thất vọng vì sự sụp đổ hình ảnh thần tượng nghệ sĩ quốc gia nơi ông.

Người nghệ sĩ Việt Nam đứng giữa hai lằn đạn của hai chiến tuyến khác nhau trong mọi thời kỳ, dù chiến tranh hay hoà bình hiện nay. Và người nghệ sĩ trong một giây khắc xúc cảm rất dễ trở nên yếu đuối. Vì tâm hồn không yếu đuối, không thể là nghệ sĩ.

Cái còn lại, tôi nghĩ xa hơn, một khi tâm hồn chúng ta yếu đuối, cần có nơi nương tựa, cần có nơi chở che. Cộng đồng hải ngoại là nơi để nương tựa, nơi để thở than và mong nhận che chở. Dù sao thì, cộng đồng chúng ta ở hải ngoại khi thương thì hết lòng, khi ghét thì hết tình.
Ngay như bản thân tôi về ở Orlando, Florida hơn 20 năm qua, chuyên làm kinh tế, nghĩa là lo đi làm ăn, mà vẫn không yên, tôi hiểu con người ta, chỉ có một thiểu số có sự ganh ghét, đố kỵ, chụp mũ và thiếu sự cảm thông.

Do vậy, không riêng gì ông Phạm Duy, mà còn nhiều nữa, cộng đồng nói chung, đôi khi vì quá nhiệt tình, quá sôi nổi, quá bức xúc vì chế độ cộng sản Việt Nam, do vậy vô tình đã thiếu sự khoan dung, thiếu sự che chở, không có trái tim bao dung che chở, nương tựa cho những nhà văn hoá, chính trị, tôn giáo.
Cuối cùng, chỉ xô đẩy người ta sống theo cách sống của họ là bất chấp, và họ trở thành ích kỷ.
Điều này đã xảy ra ở các hiện tượng Nguyễn Cao Kỳ, Thích Nhất Hạnh và bây giờ là Phạm Duy.

Ông Phạm Duy đã nằm xuống, nhắm mắt xuôi tay suốt 93 năm làm con người sống thở trên cõi đời này. Chắc chắn là các báo lề phải trong nước sẽ có nhiều bài “vinh danh” ông, ca ngợi sự nghiệp âm nhạc và con người ông.

Chế độ cộng sản hiện nay luôn nhận vơ cho mình những khuôn mặt lớn của văn học nghệ thuật, từ Văn Cao, Trịnh Công Sơn và bây giờ là Phạm Duy là người của họ, là những kẻ thành danh do bởi chế độ, hoặc là tài sản chung của đất nước. Bởi vì có mất mát gì đâu, khi một cái “Game” mà chế độ lúc nào cũng là kẻ thắng bởi vì cầm quyền ban phát “xin và cho”.

Đây là một bài học cho giới làm nghệ thuật một khi thoả hiệp trong một trận đấu “Game”.

Ở sao cho vừa lòng người
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê!

Châu Đình An


*

Một Bản tin của Đài Phát Thanh BBC, một bài viết của nhạc sĩ Châu Đình An, tôi nghĩ đây là hai bài “đại diện” tỏ bày lòng yêu thương và quyến luyến nhạc sĩ Phạm Duy. Nói “đại diện” tức là tôi có cảm nghĩ rằng có nhiều người không ghét Phạm Duy đến nỗi phải căm thù. Tôi chép đủ hai bài đó, xin Đài BBC và nhạc sĩ Châu Đình An cho tôi ké vào vài giọt nước mắt…

Tôi thật buồn tôi khi tôi nhớ lại vào năm 2005, khi biết tin nhạc sĩ Phạm Duy chính thức trở về, tôi có viết một bài rất nặng lời dành cho người phản bội. Tôi hứa với độc giả báo Văn Nghệ Tiền Phong là tôi sẽ không bao giờ nhắc nữa đến cái tên Phạm Duy. Sở dĩ tôi viết được bài báo đó vì tôi “lượm lặt” được một số chuyện không tốt của Phạm Duy:

1, Chuyện trai gái lẳng lơ: Trước năm 1975, ở Sài Gòn, nhạc sĩ Phạm Duy bị báo chí móc lò về chuyện trăng hoa, bậy bạ, nhảm nhí, mà ba chuyện nổi cộm là: Phạm Duy “cua” ca sĩ Khánh Ngọc, Phạm Duy léng phéng với ca sĩ Julie (người sau này là con dâu của Phạm Duy) và…Phạm Duy từng khoe đã qua tay hai trăm cô gái.

Chuyện thứ nhất, tôi hỏi một số bạn làm báo kỳ cựu, được biết: báo chọc Phạm Duy…cho bõ ghét!

Chuyện thứ hai, chính tôi gặp Julie trong một buổi Ra Mắt Sách của Bác Sĩ Nguyễn Xuân Quang tại Orange County, California, tôi hỏi vài người lớn tuổi, chịu chơi một thời Sài Gòn, tôi bị la: “Người ta nói bậy đó. Trước khi lấy Duy Quang, Julie là học trò của Phạm Duy, ông dành cho cô này nhiều cảm tình và chăm sóc tận tình, nên mang tiếng…kiểu khách quan!

Chuyện thứ ba, là chuyện nhạc sĩ Phạm Duy khoe với ai, ở đâu, không biết, nhưng có một ký giả hỏi Phạm Duy có thật vậy không, Phạm Duy cười và bảo người phóng viên kia nếu muốn biết rõ hơn thì nên hỏi thẳng bà Thái Hằng, vợ của Phạm Duy!

Còn các chuyện khác…cũng nặng mùi xú uế lắm, nghe mà phát tởm, nhưng qua bài viết của ông Nguyễn Thiếu Nhẫn thì tôi “bổ ngửa”. Chuyện “dây” mà nào phải “dậy”. Toàn là Oan Ôi Ông Địa…Lu, không hà!

Chuyện với Giáo Sư Lê Hữu Mục tại Canada đúng là chuyện phịa của một nhà trí thức có tên tuổi! Giáo Sư Lê Hữu Mục “méc” với ông Nguyễn Hữu Nghĩa, Chủ Nhiệm Báo Làng Văn rằng-thì-là Phạm Duy khoe với “tui”:
Tất cả các bản nhạc Hay của mình, Phạm Duy đều làm ở trong cầu tiêu!

Khi nghe được chuyện này (lùm xùm trên các báo chợ hồi ấy), Phạm Duy đã phân bua:
“Tôi không hề gặp và nói chuyện như vậy với Giáo Sư Lê Hữu Mục, tôi sẽ đi kiện đòi bồi thường danh dự”...
Vì…không thấy Phạm Duy kiện tụng gì, ai cũng yên chí là…đúng như vậy! Mà nói chí tình: Phạm Duy có tiền đâu để kiện ai. Sống ở Mỹ, đáo tụng đình…là chết, hơn nữa muốn kiện người ta thì phải coi họ có tiền để đền cho mình không!

Chuyện này thiệt hay “giả ngộ” thì miễn bàn. Chính trên tờ báo Làng Văn có lần đăng một bài thơ dài, tác giả là tôi, chửi bới tục tỉu cô Trương Anh Thụy và giáo sư Nguyễn Ngọc Bích ở Virginia, mà tình thật tôi nào có quen hay biết gì hai vị này bao giờ! Sau này tôi “vỡ nhẽ”, chính danh thủ phạm là họa sĩ / thi sĩ Nguyễn Hữu Nhật ở Na Uy, người giữ mục Chém Đá trên báo Làng Văn làm ra và ký tên tôi…
Tôi không yêu cầu báo Làng Văn đính chính…bởi tôi chẳng muốn dây dưa chuyện ruồi bu, dơ dáy đó.

Chuyện đáng “kinh hãi” là báo Ép Phê của ông Trần Trung Quân ở Pháp in hình Phạm Duy đứng chung với Đại Sứ Việt Cộng và lu loa lên là Phạm Duy chầu rìa Cộng Sản.
Phạm Duy không đọc báo này nhưng có người gặp Phạm Duy đưa tờ báo cho ông thấy, ổng hoảng hồn và viết thư cho ông Trần Trung Quân. Báo Ep Phê đăng ngay bài Cải Chính và Xin Lỗi Nhạc Sĩ Phạm Duy! Việc Phạm Duy oan không ai cần biết, người ta chỉ “đồ” thêm những gì thiên hạ đồn đãi.
Ác chi mà ác thế! Nhân sinh tính bản ác, nói theo Tuân Tử nghĩ cũng không ngoa vậy!

Hai mẩu chuyện trên đây tôi thấy trong bài của ông Nguyễn Thiếu Nhẫn. Ông Nguyễn Thiếu Nhẫn cứ thuận tay viết dài dài về những gì ông “bất mãn” với Phạm Duy và lờ đi, chẳng sao! Phạm Duy sống đã câm trước bao nhiêu tiếng xấu, chết rồi thì càng câm luôn! Hỡi ơi một kiếp người!…

Năm 2005 là năm không xưa lắm, tôi “hung hăng” con bọ xít, bây giờ tự thấy mình hư! Tôi cúi đầu xin lỗi nhạc sĩ Phạm Duy. Tôi, hồi đó, năm 2005, tôi “quyết định” quên hẳn quá khứ tôi từng gặp Phạm Duy ở Việt Nam – khi thì Đà Lạt, khi thì Sài Gòn, tôi cứ viết cho “sướng” tôi, cho hả “căm hờn”, cho…có một bài báo cập nhật tin thời sự.

Năm 1959, tôi học trường Việt Anh ở Đà Lạt, ngồi trong lớp giờ Việt Văn của Thầy Tam Ích Lê Nguyên Tiệp, nghe tiếng gõ cửa, tôi đứng dậy ra mở. Một người đàn ông tầm thước, tóc bạc, quăn, tôi thưa:
“Xin phép hỏi Bác, bác cần gì ạ?”.

Người đó đáp:
“Bác là Phạm Duy, con thưa với Thầy Tam Ích cho Bác gặp Thầy một phút”.

Tôi đến bàn thầy giáo thưa lại với Thầy tôi, ông lật đât ra bắt tay nhạc sĩ Phạm Duy và bảo nhạc sĩ Phạm Duy lên Văn Phòng đợi mười phút nữa tan trường…

Một lần nữa, cũng tại Đà Lạt, đâu hình như năm 1962, nhạc sĩ Phạm Duy đi cùng với một nhạc sĩ Mỹ, thuê Hội Trường Hòa Bình trình diễn Mười Bài Tâm Ca. Tôi có đi dự. Khoảng hai ngàn khan giả rất “chịu” các nhạc phẩm đậm chất Tình Người của Phạm Duy nhất là bản Giọt Mưa Trên Lá, hầu như ai cũng ứa nước mắt…Trên sân khấu, Phạm Duy thật đẹp lão và hiền hòa, nói năng tao nhã; người bạn Mỹ của Phạm Duy cũng nói tiếng Việt và hát Tâm Ca…

Lần cuối cùng tôi gặp nhạc sĩ Phạm Duy ở Việt Nam vào năm 1969, tại Cư Xá Chu Mạnh Trinh Sài Gòn. Lần đó, tôi đi công tác Sài Gòn, bạn tôi nhờ cầm thư khẩn xuống trao cho nhà văn Hoàng Hải Thủy. Tôi chỉ là người đưa thư, không cần nêu tên, Tôi gõ cửa nhà nhà văn Hoàng Hải Thủy và làm xong bổn phận. Tôi ra về, giữa chừng, trước khi ra cổng cư xá Chu Mạnh Trinh thì thấy nhạc sĩ Phạm Duy đi vào, tôi chào: “Thưa Bác Phạm Duy!”.

Ông dừng lại, chào lại tôi và đến vỗ vai tôi: “Anh là ai mà sao biết Bác?”.
Tôi đáp:
“Thưa con là đứa học trò mở cửa lớp gặp Bác khi Bác lên Đà Lạt tìm Thầy Tam Ích, Bác nhớ không ạ?”.

Nhạc sĩ Phạm Duy cười thật “đẹp”:
“Nhớ rồi! Lâu quá cháu nhỉ, cháu bây giờ chắc không còn là học trò?”.
“Vâng, cháu đã đi dạy gần chín năm nay…”.

Nhạc sĩ Phạm Duy đó, trước tôi thế đó. Sao tôi lại mù vào năm 2005 nhỉ ? Tôi vừa hư vừa tệ! Lậy Trời cho tôi mù mãi. Tôi thật tình sẽ khiếp hãi khi nghe ai chửi mắng tôi từ nay khi đọc những dòng tối viết về một người vừa mất!

*

Thập niên 1981, tôi cải tạo về, quần áo xơ xác, người tôi đi thăm đầu tiên là Má tôi, tôi sợ mình về nhà thì hết đi đâu dễ dàng. Tôi đi rất nhiều chặng xe mới về gặp Má tôi được, phần thì người ta không niềm nở với người rách rưới, phần tôi có ít tiền (trại thả tôi chỉ cho có ba chục, tôi eo sèo thêm được hai chục nữa, vị chi là năm chục).
Phương tiện đi lại khó, thấy người rách rưới càng không muốn giúp. Má tôi đã bỏ phố về ruộng. Tôi vào mới tới hiên nhà, Má tôi bước ra, hai Mẹ Con giống nhau như đúc: Nghèo Xác Xơ. Má tôi mặc áo bao cát, tôi thì mặc áo bà ba đen có vài miếng vá trên vai….
Tôi nhớ một bài hát của Phạm Duy:
"Ngày trở về có anh bước lê trên quãng đường đê….
Mẹ lần mò ra trước ao nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ…


Nhạc Sĩ Phạm Duy ơi…ông chết đi ở tuổi nào thì cũng vẫn là một người còn trẻ. Trẻ như anh thương binh kia…Tôi vừa nghe xong mấy bài rất tình của ông…và nhìn tấm ảnh ông thời ông còn là chàng trai Hà Nội, trước năm 1953. Thương ông quá hà…

Vĩnh Biệt Phạm Duy

Trần Vấn Lệ


Đài khí tượng nói đúng: Tuần Lễ này trời mưa. Nhiều năm như hề chưa tháng Giêng nào buồn vậy!

Mưa từ tối Thứ Bảy. Sáng Chúa Nhật lê thê. Thêm cái tin Phạm Duy vừa từ trần trong nước…(*)

Mưa lê thê lướt thướt. Mưa buồn như nhạc mưa…Mưa buồn như bài thơ tôi mở đầu nghèn nghẹn!

Ông Trời không hề hẹn tuần cuối tháng sẽ mưa. Chỉ con người hẹn đò – chuyến đò đi bến cuối!

Buồn không chân mà đuổi được mưa gió lê thê! Tiếc…trên đường-trở-về chỉ một người lủi thủi!

Phạm Duy ngừng tiếng nói nhưng nhạc ông mở ra. Buồn. Nỗi buồn xót xa…Bà-Mẹ-Quê nức nỡ!

Người trở về gậy gõ…lác đác nhịp quân hành. Lũy tre nửa còn xanh, nửa thì bom đạn xém…

Nhà tôi trong ngõ hẻm. Hẻm buồn…mưa đang mưa…

(*) Nhạc Sĩ Phạm Duy, vĩnh viễn ở tuổi 93, vĩnh biệt những người yêu / ghét mình kể từ 2 giờ 30 chiều Chúa Nhật 27 tháng Giêng năm 2013 tại Sài Gòn, Việt Nam.


Message edited by saigoneses - Thứ Sáu, 01 Feb 2013, 2:32 AM
 
atoanmt Date: Thứ Hai, 04 Feb 2013, 4:25 PM | Message # 6
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 5081
Status: Tạm vắng
Chuyện Phạm Duy và chuyện Tết nhất ở Việt Nam

Văn Quang - Viết từ Sài Gòn, ngày 01.02.2013

Viết thì thừa, không viết thì thiếu. Đó là chuyện nhạc sĩ Phạm Duy vừa ra đi và chuyện Tết nhất ở VN. Bởi cả hai thứ chuyện này đã có nhiều người tường thuật rồi. Bài nào cũng dài thoòng. Đọc trên net và được bạn bè “năm châu bốn biển” gửi cho, đọc mệt nghỉ. Ấy thế nhưng mấy ông viết chuyện hàng ngày hàng tuần, cộng tác thường xuyên với các báo đều… tự ý thức được phải “mùa nào thức nấy”. Những chuyện “đại sự” không thể bỏ qua. Thế nên tôi cũng có bổn phận phải hầu chuyện với bạn đọc về hai cái thứ chuyện “đại sự” này, chưa nói đến việc các ông chủ bút mấy tờ báo nhắc khéo: “Chắc kỳ sau anh viết bài về Tết VN nhỉ? Có ông hỏi khéo hơn “Ông Phạm Duy từ trần ở VN, trong tòa soạn, anh là người gần nhất, chắc anh biết nhiều”. Ông nào cũng đúng cả.

Tôi phân vân vì kỳ trước tôi đã hứa với độc giả sau bài “văn hóa hòa cả làng” sẽ bàn tiếp về các thứ văn hóa khác đang khiến dư luận nổi sóng. Nhưng có đến hai ông chủ bút nhắc khéo tôi về đề tài Tết và Phạm Duy nên tôi đành tạm ngưng chuyện văn hóa lại rồi ra giêng ngày rộng tháng dài tha hồ bàn chuyện văn hóa linh tinh. Xin nói “chuyện xưa” về anh Phạm Duy trước.

Phạm Duy –Thái Hằng hàng xóm của tôi

Thưa bạn đọc, đó là tiêu đề trong một bài tôi viết trong tờ đặc san “Văn” xuất bản tại Cali vào năm 2002. Hồi đó anh Nguyễn Xuân Hoàng phụ trách tờ báo này. Anh ra số đặc biệt về Phạm Duy, hồi đó nhạc sĩ Phạm Duy còn ở Mỹ, chưa về “định cư” tại VN. Anh Nguyễn Xuân Hoàng gửi mail giục tôi viết bài về Phạm Duy. Lần thứ nhất tôi trả lời là “Có gì để viết về ông ấy đâu, nhiều người viết quá rồi, tôi không chen chân vào lãnh vực âm nhạc. Cái gì biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe”. Nhưng hai lần sau, anh Hoàng nói là viết về bất cứ mặt nào cũng được, anh Hoàng “gáy” tôi: anh là hàng xóm của anh Phạm Duy mà. Tôi tóm được cái ý chính, một anh hàng xóm viết về anh hàng xóm, cũng được đấy chứ. Tôi bèn viết rất sơ lược về anh Phạm Duy, dồn tâm ý viết về chị Thài Hằng (chắc độc giả thừa biết đó là phu nhân Phạm Duy). Gia đình chúng tôi ở rất gần nhau trong cái cư xá gọi là Chu Mạnh Trinh, gần ngã tư Phú Nhuận. Thật ra cái ngõ đó không có tên, nó nằm ở số 215 đường Chi Lăng (nay là Phan Đăng Lưu). Bởi ngõ nằm ngay sau trường học Chu Mạnh Trinh nên lâu ngày nó thành tên chứ có ai đặt tên cho cái ngõ đó đâu. Và một sự thật nữa là cái cư xá đó do ngân hàng xây dựng nên thoạt tiên người ta gọi là “Cư xá nhà băng”, mãi sau này nhiều gia đình thuộc giới văn nghệ Sài Gòn đến mua nhà ở nên người ta mới thay tên là cư xá Chu Mạnh Trinh cho khỏi lẫn với mấy cư xá nhà băng khác trong thành phố.

Sơ lược tôi còn nhớ những gia đình đã từng ở đó, sau này có thể đã dọn đi nơi khác. Từ ngoài đường lớn vào là nhà các ông Nguyễn Mạnh Côn, Năm Châu, Dương Thiệu Tước - Minh Trang- Quỳnh Giao, Phạm Duy, Đỗ Tiến Đức, Hoàng Anh Tuấn, Anh Ngọc, Mộc Lan, Hoàng Nguyên, Hồ Anh, Duyên Anh, , Thẩm Thúy Hằng, Trịnh Viết Thành, Linh Lan…

Nhà tôi ở ngay mặt đường ngõ vào, cách nhà anh Phạm Duy không quá 50m. Nhưng rất it khi sang nhà nhau. Lý do giản dị, tôi và Thanh Nam, Mai Thảo là bạn khá thân của anh Phạm Đình Chương. Sau “vụ Khánh Ngọc”, chúng tôi rất ít tiếp xúc với anh Phạm Duy. Suốt thời gian tôi làm ở Đài Phát Thanh Quân Đội, anh Phạm Duy có một chương trình nhạc trong Đài này, hàng tuần gặp nhau ở Đài, chúng tôi không có thì giờ nói chuyện nhiều. Ở đây tôi nhắc lại một đoạn trong bài tôi đã viết 10 năm trước:



Lần duy nhất sang nhà Phạm Duy

“Tôi chỉ sang nhà anh duy nhất một lần vào cuối năm 1974, anh mua được mảnh đất khá rộng, bán căn nhà cũ cho ông Nguyễn Mạnh Côn. Anh dọn vào ở cuối ngõ, xây căn nhà mới khá lớn. Chị Thái Hắng đi qua nhà tôi, nhắc
“Anh rủ bạn bè qua nhà tôi chơi. Nhà tôi đang làm một chỗ cho các anh chơi ở ngoài vườn, thơ mộng lắm”.

Tôi sang nhà anh Phạm Duy khi khu vườn vừa được trang trí rầt hữu tình. Những hòn giả sơn, những hàng cây, bể nước lớn, những hòn đá tảng rải rác đây đó… Đúng là nơi dưỡng già thật tuyệt. Nhưng “cảnh quan” đó chưa hoàn chỉnh thì ngày 30-4-75 tới, anh phải rời xa. (Xin chú thích thêm là sau này khi anh về VN sống cũng không “đòi” lại được. Một lần tôi hỏi, anh chỉ nói “quên chuyện đó đi, ông ơi”. Coi như huề cả làng).

Tính cách của nữ danh ca Thái Hằng

Tôi có nhận xét rất thành thật là nếu ở con người anh Phạm Duy, luôn luôn hiện diện hai chữ nghệ sĩ lớn như cây đại thụ thì ở chị Thái Hằng trong xóm tôi, chị là người rất bình dị.

Chưa bao giờ chị chứng tỏ mình là “một cái gì”, ít ra cũng là vợ một nhạc sĩ có tên tuổi. Nói khác đi, chị không phải là bà Phạm Duy nổi tiếng và cũng chẳng phải là một nữ danh ca thượng thặng trong ban hợp ca Thăng Long.

Gia đình chị là một gia đình nghệ sĩ danh tiếng với Phạm Đình Chương, Thái Thanh, Hoài Trung và những anh em như Phạm Đình Sĩ, Kiều Hạnh, Mai Hương…

Chị sống chan hòa như một người chị mẫu mực, hiền hậu. Đối với mọi người trong xóm, chị sống hết sức bình dị, không se sua, không làm dáng.

Mỗi buổi sáng, quần ta, áo cánh xách giỏ đi chợ như mọi bà nội trợ bình thường khác.
Chị thân thiện chân thành chứ không phải sự “nhún mình” để che giấu một thứ hào quang sau gáy.

Suốt hơn 10 năm, sống gần gia đình chị, từ khi Duy Quang, Duy Cường, Duy Minh còn rất nhỏ cho tới khi các cháu lớn lên, tôi chưa hề thấy chị to tiếng với bất kỳ cháu nào và chị cũng chưa từng làm mất lòng ai trong xóm.
Sự khoan hòa dung dị của chị có thể là một tấm gương lớn cho nữ giới.

Trong những ngày sau này, có vụ tai tiếng ở nước Mỹ giữa ông Clinton và cô thư ký nhà trắng, thái độ khôn ngoan của bà Hillary Rodham Clinton khiến nhiếu người nể phục. Khi có chuyện tình lỉnh kỉnh của anh Phạm Duy, các báo ở Sài Gòn khai thác tối đa.

Thái độ điềm đạm của chị Thái Hằng còn đáng khâm phục hơn. Các phóng viên cố khai thác ở chị một vài chi tiết nhưng chị chỉ có một câu trả lời: “Tôi rất tin tưởng ở chồng tôi”.

Thế là hết, chẳng anh nào khai thác được gi ở chị, nhờ vậy dư luận cũng xẹp dần. Sau này chị cũng không xuất hiện cùng chồng con ở những cuộc vui, những đại hội.

Cái bóng cực kỳ thầm lặng đó làm nên tính cách lớn của chị Thái Hằng.
Từ trong đáy sâu tâm tư tôi, chị mãi mãi là một nữ nghệ sĩ rất xứng đáng được kính trọng.


Phạm Duy trên đường đến đoàn tụ cùng Thái Hằng

Thưa bạn đọc, đó là những gì tôi đã viết 10 năm trước. Và bây giờ, năm 2013, anh Phạm Duy từ trần, tôi cũng được một ông chủ báo nhắc: “Viết bài về Phạm Duy đi ông”. Tôi cũng trả lời như 10 năm trước: “Chẳng có gì để viết về ông ấy cả. Nhiều người viết quá rồi. Tôi chỉ xin nhắc đến chị Thái Hằng. Tôi nghĩ đó là một lẽ công bằng và ít người viết”.



Sau 1 ngày anh mất, sáng 28-1-2013 tôi và anh Nguyễn Quốc Thái cùng Quốc Anh, phóng viên báo Tuổi Trẻ, mang một trong những vòng hoa đầu tiên đến tiễn đưa anh. Một mái che như cái rạp dựng ngay trên ngõ, trước cửa ngôi nhà nhỏ của anh. Lúc đó tôi chỉ thấy vài người quen mặt như ông Nguyễn Ánh Chín, Phạm Thiên Thư, Lưu Trọng Văn, Nguyễn Thiện Cơ, Nguyễn Khắc Nhân, vợ chồng nữ ca sĩ Ánh Tuyết…

Sau lễ nhập quan vào 9g sáng, chúng tôi chia buồn cùng tang quyến, đứng trước bàn thờ thắp nén nhang vĩnh biệt anh. Riêng tôi, chỉ cầu xin anh trên đường đi gặp chị Thái Hằng mang tấm lòng kính trọng của người cùng xóm đến với chị, anh chị mãi mãi bên nhau như những ngày còn ở cư xá Chu Mạnh Trinh.





Những ngày cận Tết

Sang đến chuyện Tết đang đến gần, trong những ngày này, bất cứ một gia đình nào ở VN cũng nói đến cái Tết đang gần kề, từ ông nhà giàu đến anh rách tả tơi cũng nói chuyện tết. Mỗi anh nói theo cách của mình. Anh nghèo càng nghèo, càng lo chạy tiền ăn Tết, thậm chí sợ tết. Anh giàu lại vẫn đi tậu những “đặc sản” tô điểm cho cái vẻ “đại gia” của mình.

Tuy thế năm may nhiều đại gia vỡ mặt vì suy thoái, nhưng dù “vỡ mặt cũng còn cái mũi”, vẫn phài làm ra vẻ “đẳng cấp” để che cái túi rỗng. Ngoại trừ những ông “ xụm bà chè” không đứng dậy nổi vì bị con nợ đến tận nhà bao vây, có ông trốn luôn ngay từ đầu tháng chạp.



Nhưng nổi bật nhất là rất nhiều công nhân bị nợ lương từ 1 tháng đến vài tháng, suốt ngày long đong đi kiếm chủ công ty. Họ khổ hơn là những anh chị làm ở ngân hàng, ở những công ty xí nghiệp to đùng không được thưởng Tết hoặc không có lương tháng 13. Những khoản tiền này không có trong hợp đồng lao động và cũng không có trong luật nên các ông chủ toàn quyền quyết định. Cho nên có những công ty thưởng Tết “không giống ai”. Như công ty sản xuất hương, tặng công nhân mỗi người vài bó hương với lý luận nhà nào chẳng cần hương ngày Tết. Một công ty may ở Hà Nội, tặng nhân viên mỗi người 70 cái quần đùi (quần lót đàn ông) là thứ hàng bán ế. Thậm chí có công ty còn thưởng Tết cho nhân viên bằng…gạch xây dựng… Đúng là kiểu thưởng chỉ có ở VN.

Những cảnh chờ tàu xe từ “muôn năm cũ” vẫn tái diễn

Vế quê ăn tết luôn là mối lo của những anh chị công nhân từ miền Bắc, miền Trung vào miền Nam làm ăn. Dường như chẳng có mối bận tâm nào của người miền Nam ra Bắc kiếm ăn, con số này quá ít, hầu như chỉ có vài ông công chức, vài ông giám đốc gặp thời đang phất mới ra Bắc “lãnh nhiệm vụ” mà thôi. Còn hầu hết là những ông công chức bự từ miền Bắc vào miền Nam lãnh nhiệm vụ quan trọng. Những ông này ở đây lâu năm, có nhà cửa vợ con xe pháo đề huề nên đôi khi cũng chẳng cần “về quê ăn Tết” nữa. Mà có về thì máy bay đi cái vèo là tới. Lo gì cái vặt.

Với ngươi lao động, tình trạng vẫn như cũ bao năm rồi. Nhà tàu nói “cải tiến”, khách kêu “cải lùi”! Trong khi hai bên liên quan chính năm nào cũng như dàn trận đấu với nhau, “cò vé” ở giữa hưởng lợi lớn từ nguồn vô biên là túi tiền của khách.



Vài năm nay công nghệ thông tin lên ngôi nên vé tàu hỏa được đặt qua mạng internet. Nhưng khách chờ dài người từ chập tối đến đêm, có người chờ 3 ngày liền mạch vẫn nghẽn đến “sập mạng”, không thể chen vào ghi tên được. Cái nền văn minh ấy coi như tắc tịt. Lại nhào đến nhà ga mua vé. Lại ngày đêm nằm vạ nằm vật chờ đợi mua được tấm vé. Nhưng ra chợ đen thì bao nhiêu cũng có, đi Đà Nẵng hay Hà Nội đều đầy đủ.

Có hàng ngàn lời kêu ca gửi đến các báo. Bạn chỉ cần đọc vài ý kiến của người đi mua vé tàu cũng đủ biết họ bị hành như thế nào:

- Bạn Thế có địa chỉ thepearltb@gmail.com muốn gào lên “Tức muốn chết! Ngồi đặt vé cả sáng không được, chạy ra ga Sài Gòn đã thấy 1 đám người kêu ơi ới: “Em ơi, muốn vé về Tết không?”. Sau đó là tiến hành giao dịch: 200k 1 vé hẹn vài hôm sẽ có vé. Và tổng thiệt hại cho 1 vé là 1triệu + 200k nữa. Chả hiểu bao giờ mới được như các hãng hàng không nữa? Chung quy vẫn khổ dân!” -

-Bạn Mai Thùy Giang có địa chỉ giangthuy@gmail.com viết:“Không thể chấp nhận được cách làm việc của ngành Đường Sắt VN (ĐSVN). Đừng đổ lỗi cho nghẽn mạng mà hãy xem lại nội bộ ngành đường sắt như thế nào. Tôi nghĩ, mỗi một mùa Tết chắc mỗi nhân viên liên quan cũng kiếm được chiếc xe hơi nhờ ôm vé đẩy ra chợ đen và các đại lý... Vậy thì lấy đâu ra vé cho người dân mua nữa? Có ít thì chỉ một số người cực kỳ may mắn mới mua được vé giá gốc thôi...Thật buồn!”

- Bạn Hùng vu.dinh.hung.234@gmail.com than thở: “Vậy mà năm nào các ông nhà tàu cũng kêu ầm lên: Chúng tôi đã cải thiện tốc độ đường truyền, mọi người có thể yên tâm... Năm nào cũng cải thiện, năm nào cũng nghẽn, vậy mà chả rút được tí kinh nghiệm nào thì chả hiểu các ông lập kế hoạch, vạch hướng đi thế nào nữa? Mà năm nào cũng tái diễn, sao không thấy mấy ông quản lý cấp trên nữa nói gì nhỉ? Hay cũng lại nói đã vạch kế hoạch rồi và phải làm từng bước một?”.

Quá nhiều lời thở than với bao giọt nước mắt ngắn dài, những giọt mồ hôi cay xé mắt…ẩn chứa trong đó. Vậy mà hình như chưa bao giờ động được tới con tim, khối óc của những ai có khả năng và cả trách nhiệm phải thay đổi tình thế?

Những người nông dân cần cù lo đói ngày Tết


Những năm gần đây, nền kinh tế suy thoái, đồng tiền trở nên mất giá, đồ ăn thức uống cái gì cũng cao nên việc bỏ tiền ra thuê người dọn nhà hay giúp việc những ngày cuối năm cũng không còn nhiều như trước. Nhiều khi người ta tự tay làm còn chỉ những việc quá khó nhọc hay cần thiết phải thuê thì người ta mới thuê.

Gần Tết, là lúc công việc đồng áng cũng khép lại, lao động tự do từ các huyện kéo lên thành phố càng đông, người thì đông việc thì ít, kéo theo mức giá trả cho nhân công cũng bèo bọt. Mỗi ngày chỉ khoảng 70 - 80.000đ VN, may mắn lắm cũng chỉ 100.000đ/ngày.

Nếu như những năm trước, gần Tết là dịp để người lao động tự do kiếm được “đồng ra đồng vào” hơn, công việc cũng nhiều hơn thì năm nay việc cũng ít mà giá trả cũng thấp, thành ra “nghề đứng đường đợi Tết” những ngày cuối năm lại càng trở nên ảm đạm. Trên những góc đường không khó để bắt gặp từng nhóm “cửu vạn” vật vờ, co ro chờ việc.



Anh Hải, một người lao động bốc vác tâm sự: “Vào thời điểm này các năm về trước, ngày nào tôi cũng có vài mối, không đi dọn nhà thì cũng bốc vác gì đó. Từ năm ngoái đến nay thì ít hẳn, chẳng có việc. Giờ đây kinh tế suy thoái, giá cả leo thang nên có sửa sang nhỏ hay dọn dẹp gì thì họ toàn làm lấy, cái gì vất vả lắm thì họ mới thuê. Ban ngày tôi cứ ra đây ngồi chán chê, rồi lại lang thang ra các ngã tư tìm việc mà cũng chẳng ai thuê, Tết nhất đến nơi rồi, ngồi không thế này như ngồi trên đống lửa. Cuối năm mà công việc còn không có thì ra giêng chỉ có mà đói”.

Chứng kiến những cảnh vật vờ, co ro trong giá lạnh của những người nông dân cần cù vào những ngày tháng cuối năm mới thấu hiểu phần nào sự khốn khổ của họ. Tết đang tới gần và cũng như hết thảy những người “tìm Tết” nơi đô thị vẫn đứng co ro tìm cái Tết đạm bạc nhất cũng không xong!

Dân nhà giàu vẫn chơi sang

Thế nhưng có một thành phần ngược hẳn. Thời kỳ bão giá có thể khiến bạn nghĩ rằng các đại gia sẽ “ngại” mở ví tiền sắm những món đồ chơi Tết đắt đỏ. Tuy nhiên, đến làng đào Nhật Tân, chợ hoa Quảng Bá của Hà Nội những ngày này, chứng kiến nhịp mua bán đào, lan giá “khủng” vô cùng sôi động, chắc chắn bạn sẽ hết hồn.



Vườn đào của ông Lê Hàm có khoảng 60 -70 gốc đào Thất Thốn. Năm nay, mặc dù kinh tế khó khăn, nhưng giá đào Thất thốn dường như vẫn chẳng hề bị tác động. Những cây thất Thốn nhỏ nhất cũng có giá trên dưới chục triệu đồng. Cây đào thất thốn đẹp nhất trong vườn nhà ông Lê Hàm đã được khách đặt giá 70 triệu đồng, chờ đến ngày Táo Quân tới chở về.

Theo chân một vài đại gia đi sắm đào ở Nhật Tân, có thể thấy giá của những gốc đào bích đẹp có thể được “hét” từ 18 đến 30 triệu đồng một cây. Giá thuê và mua chỉ chênh nhau khoảng 3 triệu đồng. Trong khi đó, giá của cành đào rừng “quý” nhất chợ Quảng Bá đang được ghi nhận ở mức 20 triệu đồng.

Bên cạnh đó, lan hồ điệp cũng rất bền, có thể chơi lâu tới hơn 2 tháng. Giá các loại lan hồ điệp từ 600 đến 800 ngàn đồng một cành, cao nhất có thể cán mốc 1,5 triệu đồng/cành.



Các cửa hàng hoa, siêu thị hoa ở Quảng An bày bán không ít những chậu lan hồ điệp có giá lên tới 20 triệu đồng, 28 triệu đồng, 35 triệu đồng, thậm chí là 65 triệu đồng!

Giá đắt như vậy nhưng có khách mua không? Một người bán lan ở chợ Quảng An cho biết đắt mấy cũng có khách mua, giá càng đắt, dân chơi càng chứng tỏ mình là loại người nào nên thị trường hoa Tết sẽ càng sôi động trong một vài ngày tới. Bên cạnh lan hồ điệp, rất nhiều đại gia Hà Nội đã liên lạc tới hỏi và đặt cọc tiền mua các loại đia lan cao cấp như giống vàng Nhật, xanh Newzealand... Giá cả của mỗi chậu lan này cũng không thể dưới chục triệu đồng.

Thú chơi sang như Mỹ

Lì xì, mừng tuổi đã trở thành việc “không thể thiếu” vào dịp Tết. Cho nên không nhiều thì ít, cứ tết đến, hầu hết các ông các bà lại nhờ một số người quen “đổi” ít tiền mới để lì xì. Gần đây ở VN nhiều người, kể cả dân tiểu thương có cái thú chơi tiền lì xì là 2 đô la Mỹ. Ông Tứ, nhân viên của trang web liên quan đến đổi tiền cho biết đồng 1-2 USD được người dân dùng nhiều để lì xì trong dịp Tết nên có mức phí khá cao. Thậm chí để có được tờ tiền loại 2 USD in năm 1976, khách hàng phải mua với giá 160.000 đồng/tờ, hay phải mua với giá trên 450.000 đồng cho tờ in năm 1953. Tờ 2 USD in năm 1917 có giá 2 triệu đồng. Khách hàng mua số lượng nhiều mới có giá đó, còn mua ít giá còn cao hơn nữa.

Đợi cái hài kịch ông Táo để xả hơi

Ở đây tôi chỉ nêu vài hoàn cảnh trái ngược để bạn đọc có thể hình dung thấy những cảnh đời trái ngược tại VN hiện nay ra sao. Khoảng cách giữa giàu nghèo ngày càng lớn càng sâu, không thể nào san lấp được. Và tại sao lại có những người giàu khủng khiếp nhanh chóng đến thế và tầng lớp lao động, nông dân lại khôn khổ đến như vậy? Câu hỏi tưởng như rất khó trả lời mà thật ra rất dễ. Tại tham nhũng, quan liêu, xa xỉ công quỹ, pháp luật chưa nghiêm minh.
Khi tối viết bài này, sắp đến ngày 23 thàng chạp, theo tập tục VN là ngày ông Táo lên chầu trời để báo cáo về công việc dưới trần thế. Báo chí VN đang quảng bá rầm rộ cho vở “đại hài kịch táo quân” với những “danh hài” sẽ ra mắt khán giả, nhưng đối với tôi, chẳng có gì lạ, bởi đây chỉ là dịp quả bóng được xì hơi. Dù sao, cười được một tí cũng đỡ buồn!

Văn Quang


AToanMT
 
FORUM » TRANG THÔNG TIN » CHIA BUỒN » NHẠC SĨ PHẠM DUY qua đời
  • Page 1 of 1
  • 1
Search:


TỰ-ĐIỂN TRỰC-TUYẾN :

Từ Điển Online
Bấm vào dấu V để chọn loại Tự-Điển
Gõ Chữ muốn tìm vào khung trắng dưới đây:
Xong bấm GO