Thứ Tư
24 Apr 2024
1:32 PM
ĐĂNG NHẬP


Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

[ BÀI VIẾT MỚI · Forum rules · TÌM KIẾM · RSS ]
  • Page 1 of 1
  • 1
FORUM » TRANG PHẬT GIÁO » PHẬT-SỰ MUÔN NƠI » THẦY TÔI VÀ TÔI (TIÊN SHA LÊ LUYẾN)
THẦY TÔI VÀ TÔI
saigoneses Date: Chủ Nhật, 09 Mar 2014, 9:44 PM | Message # 1
Lieutenant general
Group: Administrators
Messages: 505
Status: Tạm vắng
THẦY TÔI VÀ TÔI



Thuở còn bé, làng tôi có vị sư trụ trì chùa Từ Tôn được mọi người, không kể lương hay đạo, kính mến gọi là thầy. Thầy ở đây có nhiều nghĩa, vừa là vị hòa thượng đức cao đạo trọng, vừa là người làu thông chữ nghĩa sách vở thánh hiền, vừa là vị cha già lớn tuổi kính mến, am hiểu sâu sắc trường đời, sống trọn vẹn thủy chung với nghĩa tình bà con làng nước.

Người ta cũng không bận tâm tìm hiểu pháp danh của thầy làm gì, chỉ thường dùng tên chùa mà gọi, lâu dần trở thành nề nếp quen thuộc, từ đó thầy có tên là Từ Tôn. Theo lời thầy giải thích thì chữ Từ dịch chữ tiếng Phạn, có nghĩa là Di Lặc. Hay nói cách khác, Đức Thế tôn Di Lặc (Maitreya) có danh hiệu là Từ. Chữ Từ Tôn cũng dùng để chỉ Đức Thích Ca và chư Phật, vì các ngài đều đủ lòng đại từ đại bi và lấy đại từ đại bi làm gốc.*

Ngoài tri thức đạo pháp uyên thâm là điều tất nhiên của bậc dày công tu hành, thầy còn am tường thấu đáo được đạo trời của tạo hóa nhiều lẽ biến thiên, huyền diệu, nhiệm mầu vô biên. Riêng với con người, bất cứ trong tình huống nào, thầy bao giờ cũng tỏ ra khoan hòa, độ lượng và chân thành. Chẳng gắt gỏng, nặng nhẹ, chì chiết với ai và chưa hề thể hiện một chút bực tức, giận hờn nào. Với thầy, dường như mọi sự ở trên đời đều được gạn lọc, hóa giải qua cái tâm tĩnh lặng, nhân hậu bác ái của bậc tu hành.

Nét từ bi lồ lộ trong phong thái sinh hoạt hàng ngày. Thầy sống, kinh kệ cần mẫn, làm việc siêng năng, hoạt động tích cực. Chuyện Đạo, Đời thầy đều xem quan trọng như nhau, hoàn tất chu đáo mọi việc nhẹ nhàng chẳng chút lơ là, chểnh mảng. Hễ cứ nhà nào, người nào trong làng gặp phải cảnh tai ương hung hiểm hay lâm vào tình huống ngặt nghèo bất trắc, thậm chí chuyện vợ chồng con cái lục đục, bất hòa ... thì hầu như đều có mặt thầy xuất hiện vào lúc sớm nhất để giúp đỡ, xoa dịu, an ủi hay hòa giải, hàn gắn mọi vết thương đau. Khó khăn cách mấy thầy cũng cố gắng tìm cách làm cho bằng được, thậm chí còn làm thật tốt nữa là đằng khác. Hầu như mọi người đều lĩnh hội lời khuyên của thầy để áp dụng cho cuộc sống hiện tại của họ.

Không chỉ chừng đó. Tâm của thầy còn sáng ngời tình thương sâu sắc, có ý nghĩa góp phần vun bón thêm mảnh đất quâ hương chút mầm xanh tương lai dành cho thế hệ con cháu mai sau qua việc làm thực tế đầy tình người của bậc thức giả. Thầy đứng ra vận động với chính quyền tỉnh, thành và sở tại địa phương, cũng như các tổ chức từ thiện quốc tế để xin kinh phí xây dựng một trường học nhỏ nằm trong khuôn viên chùa, bắt đầu thực hiện kế hoạch khai hóa cho các em học sinh con nhà nghèo hoặc côi cút. Nhờ vậy, tôi bắt đầu bài học khai tâm lớp vỡ lòng trong ngôi trường chùa nghèo, không học phí của thầy tạo dựng.

Có ai hỏi nhờ đâu mà được vậy, thầy trả lời nhờ vào cái Tâm có chữ Nhẫn. Lâu dần, người dân cảm hóa, xem thầy Từ Tôn là hình ảnh của Bồ Tát “ thị hiện “, xem lời nói hiếm hoi của thầy là vàng ngọc, là mệnh lệnh xuất phát từ trái tim nhà Phật, xem việc làm của thầy là cứu độ chúng sanh.

Thầy chỉ nói lúc cần thiết. Tôi còn nhớ có lần thầy nói với mọi người một câu mà mãi đến nhiều năm tháng sau nầy khi trưởng thành, lăn lộn vào giông bão cuộc đời, tôi mới thấu hiểu được phần nào lý lẽ thâm sâu của bậc chân tu “ hành thâm Bát nhã “:
“ Giá trị lời nói không phải phát ra từ người mình kính trọng, mà chính vì sự kiểm chứng chính xác của người nghe, hợp với năng lực trí tuệ và con đường tâm linh của mình. Đời sống tâm linh cao đẹp là con đường chứng nghiệm. “

Qua lời thầy, qua cung cách sống của thầy, tôi hiểu về Đạo thấm nhuần và dễ dàng hơn.

Tuổi ấu thơ của tôi lớn lên, gần gũi trong khung cảnh lớp học và sự trầm lặng của khuôn viên ngôi chùa làng cùng với hình ảnh của các chú tiểu và những vị sư tăng sớm tối kinh kệ. Lớn hơn một chút nữa, cha mẹ cho tôi gia nhập vào đoàn thiếu niên oanh vũ gia đình Phật tử Từ Tôn cũng do thầy chủ xướng thành lập trong cao trào thịnh phát của Phật giáo miền Trung vào thời điểm cuối thập niên 50. Tôi lại có thêm cơ hội rèn luyện bản thân theo con đường giáo huấn khuôn phép, lễ nghi Phật đạo. Hàng tuần cùng các anh chị huynh trưởng và các bạn trang lứa, tôi học giáo lý, lên Niệm Phật đường thắp hương đảnh lễ Phật, tập tụng niệm kinh cầu an, cầu siêu, sám hối.

Việc học hành tu tập tưởng nhẹ như mây trôi, giản dị như trong đời sống bình thường, nào ngờ chẳng đơn giản chút nào và không làm sao hấp dẫn được đứa bé hiếu động, nghịch ngợm, ưa leo trèo chạy nhảy hơn là ngồi yên một chỗ nắn nót từng chữ viết, ê a từng lời kinh khó hiểu như tôi. Học giáo lý, nghe thuyết giảng nhưng quả thật tôi chẳng hiểu biết là bao. Khi phát biểu lại, nếu không lệch lạc thì cũng chưa chắc đã đúng (thuật nhi bất trước).

Tôi chỉ làm một thứ “ répétiteur “ đơn giản mà cũng không xong, bởi lẽ, tôi chưa nhận diện được thực hư, chân giả. Càng học càng thấy khó, càng tu rèn càng thấy khổ. Con đường học, đạo sao mà nhiêu khê quá. Tuy vậy, lớn dần vào độ tuổi suy nghĩ, tôi vẫn là đứa trẻ hấp thụ được những tinh hoa của cửa Thiền thật trong sáng, thuận lòng. Đó là may mắn nhờ vào ngộ tánh cao. Cái bản thể chân thật, tự tại, bao quát minh mông vô tận vô biên, chính là cái bản thể chung, tốt lành khởi đầu của chúng sanh như câu: “ Nhân chi sơ tánh bổn thiện.” Phật học đã âm thầm gieo vào lòng tôi một hạt nhân quý hiếm từ lúc nào mà thời đó tôi chưa cảm nhận được. Đó là thiện căn. “ Thiện căn ở tại lòng ta, chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài “ (Kiều).

Mãi về sau, trên bước đường đời long đong, vấp ngã tôi mới suy nghiệm ra lời thầy ân cần dạy bảo ngày xưa là chân lý tuyệt vời: “ Tâm không bình an thì có cầu ngàn câu kinh cũng vô vọng. Miệng niệm, tâm hành, ắt tâm khẩu ứng nhau. Bổn tánh là Phật, rời tánh ra, không có Phật nào khác. Đến với Phật trước hết là phải đến với cái Tâm. Con đường tu hành xuất phát từ căn nguyên đời sống tâm linh và khởi đầu từ ý chí nỗ lực tự nguyện cá nhân.

“ Quả vậy, miệng cầu niệm cả ngày lẫn đêm mà tâm chẳng thiệt thành thì hóa ra như ảo như vô, như nước chảy mây trôi. Có làu thông ngàn vạn quyển kinh mà không “ thực chứng “ để nếm trải, để am tường, để thông suốt mà “ hành thâm Bát nhã “ thì phỏng có ích gì. Trong cuộc sống ngập tràn những bất trắc, lo toan, căng thẳng, đầy rẫy những nguy cơ tật bệnh ... khiến con người chán chường, không còn thiết tha mọi thứ, kể cả mạng sống quý giá. Vậy Đạo phải “ Hành thâm “ thế nào để giúp họ tái tạo lại cái Tâm lạc quan, thay đổi nếp suy nghĩ, có cái nhìn mới mẻ về cuộc sống, về cõi người, về tình cảm ... để thấy cuộc đời đẹp hơn, cuộc sống quý giá và đáng sống rồi từ đó họ đứng dậy, vươn vai, nhập cuộc làm lại từ đầu, góp phần xây dựng xã hội ngày càng thăng tiến và có trách nhiệm hướng dẫn thế hệ kế thừa đi vào con đường Chân, Thiện, Mỹ.

Có nhiều cách giải thích từ “ hành thâm “ nhưng tựu trung ý nghĩa cũng tương tự nhau là “ thực hành sâu xa “, “ thực tập một cách thâm sâu “ và phải thấy “ thực chứng “ trực tiếp chớ không phải chỉ giỏi suy luận. Cụm từ “ hành thâm Bát nhã “ nếu viết đầy đủ phải là “ hành thâm Bát nhã Balamậtđa “. Hai chữ Bát-nhã (Prajnâ) nghĩa là Trí huệ và Balamậtđa (Paramita ) là : Vượt qua bên kia tức Niết Bàn, tiếng Phạn viết liền nhau - Prajnâ-Paramita. Dịch ra tiếng Hán thì Bát nhã Balamậtđa có nghĩa là :
Trí huệ đáo bỉ ngạn. Tóm lại, bậc Bồ Tát nhờ nương theo Bát nhã Balamậtđa nên trong tâm không có điều gì ngăn trở, không hề thấy mình lo sợ, xa lìa mộng tưởng điên đảo đắc Niết bàn trọn vẹn. *

Tôi giã từ mái trường tiểu học chùa làng, bước lên bậc trung học ở trường tư thục thành phố. Vào lứa tuổi dậy thì, khởi đầu những biến động tâm sinh lý với những mơ mộng, những xao xuyến rạo rực lửa đam mê dục vọng, khiến tôi không ít suy nghĩ viễn vông lẩn thẩn trong tâm hồn. Đêm ngồi một mình nhìn ánh sao trời, ngắm cảnh nam thanh nữ tú dập dìu qua lại phố phường ngập tràn ánh sáng đèn màu hay nằm thao thức nghe tiếng gió luồng qua khe cửa, nghe tiếng mưa rơi lộp độp trên mái hiên... lòng bỗng dưng tư lự, bâng khuâng vô cớ.

Tôi bắt đầu suy nghĩ đến tình yêu và ái ân. Hình ảnh những khuôn mặt khả ái với mái tóc thề phủ bờ vai, chiếc nón lá che nghiêng, những tà áo dài nữ sinh tha thướt tung bay trong gió, quấn quít ôm sát bắp đùi tròn lẳn, những đường viền chữ V trên cặp mông nở nang ẩn hiện chập chờn sau vạt áo dài, những bước chân chim tung tăng đi đến trường với chiếc cặp sách trên tay, e ấp che hờ khuôn ngực tròn trịa chắc nịch con gái... làm tôi xốn xang phải ngoảnh mặt. Nhìn thì phạm tội ; Ngó lơ thì tiếc, cũng chẳng hết tội. Ý niệm giữa Đạo và Đời nẩy sinh trong tư tưởng tôi những tranh chấp quyết liệt.

Và lần nào cũng vậy. Phần đời lúc nào cũng thắng thế. Làm sao để định tâm lại vẫn là suy nghĩ trăn trở trong lòng. Tôi kiểm điểm rồi nhớ lời thầy dạy, tự nhắc nhở mình : tu tại Tâm, tu tại Tâm, tu tại Tâm ... Tôi quyết định dành thời gian rỗi rảnh trở về thăm lại chùa hàng tuần. Hy vọng với tiếng mõ câu kinh, với giáo lý giải kết, với lời dạy của thầy, với không khí trầm lặng trang nghiêm ... sẽ giúp làm dịu đi những xao xác trong lòng. Tôi cố tìm kiếm, truy lục lại nguyên nhân của lầm lạc mê muội, phát sinh của đam mê dục vọng, dẫn dắt đến cội nguồn thất tình lục dục, sinh tử, luân hồi, đau khổ mà tôi thường biết là vô minh.

Vô minh nghĩa là tâm si ám, không có huệ minh, tức là mê si, tăm tối, phiền não. Vũ trụ kia vốn hỗn độn vô minh, trái đất thì nhỏ bé, con người lại càng quá bé nhỏ ... Thế giới bí mật chỉ nằm trong một vài dạng thức cơ bản : âm dương, thiện ác, phải trái, đúng sai, xấu tốt, trẻ già, trên dưới, trước sau ... Con người mãi lẩn quẩn vướng vào mê lộ của những mối quan hệ không cân bằng, tất yếu sẽ nhầm lẫn và dẫn đến rối beng. Sự nhầm lẫn càng lúc càng chồng chéo lên nhau, càng lâu càng hỗn độn khiến con người bất khả tri, mãi mãi vô minh.

Ngược với vô minh là giác ngộ. Nhận thức cái đúng, cái sai làm theo điều đã xác định là chân lý, là thông hiểu chân lý mà hướng theo.* Tỷ như bên ngũ, bên thức. Ngũ là mê, thức là giác, tỉnh ra là ngộ. Một bên là ánh sáng, một bên thì tăm tối. Một nẻo là mê, một đàng là tỉnh. Cả hai ví như chỉ cách nhau một dòng sông. Bên nầy là bến mê, là lầm lạc, là những cái chưa thành tựu. Vượt thoát qua bờ bên kia thì tỉnh ngộ, dứt mê hết lầm, là có thể ra khỏi nơi tăm tối u ám, kết quả viên mãn. Nơi ấy, hiểu thấu đáo, mọi điều thiện ác, xấu tốt, đúng sai, phải trái, chân giả ... đều minh bạch, không còn tà kiến về sự hiện hữu cố nhiên của sự vật, con người. Muốn đạt được điều ấy chẳng phải dễ dàng gì. Đó là con đường mịt mù thăm thẳm đòi hỏi kẻ tu hành phải nhẫn nại, quyết tâm, kiên trì thiền định tu học, suy nghiệm dài lâu.

Nghĩ vậy, tôi nhớ lần thầy giảng giải cho chúng tôi hiểu về bức tranh Thập Ngưu Đồ, một ẩn dụ sâu sắc về quá trình tu đạo nhuốm màu Lão, đượm màu Thiền. Thầy bảo chúng tôi phải luôn luôn cố gắng. “ Thập ngưu đồ là một bức tranh lớn trong đó bao gồm mười bức họa nhỏ theo trình tự. Bức đầu vẽ hình một con trâu đen lêu lỗng, bướng bỉnh, thích sống tự do và gần gũi với thiên nhiên. Tiếp theo, trâu bị con người bắt xỏ mũi, dẫn dắt. Sống với người, dần dà trâu thuần phục, mầu da đen biến thành trắng từng phần, từ đầu lan xuống đến đuôi. Khi đã trắng hoàn toàn, lúc đó dây xỏ mũi không còn, người cũng chẳng cần chăn dắt. Bức kế tiếp, trâu và người ung dung, thanh thản chẳng có gì ràng buộc nhau, nhẹ thênh thênh. Đến bức vẽ thứ chín, trâu bỗng biến mất, người vỗ tay chỉ còn tiếng vọng âm của đất trời.
Bức thứ mười, trên trang giấy trắng là một vòng tròn trống không : không người, không vật, không dây trói, không ràng buộc, không nhọc công chăn dắt, không núi sông, nhà cửa, nương ruộng, không màu, không sắc ... tất cả chỉ còn lại cái hư vô độc nhất : không thực. “

Tôi nặng đời trần tục, mải mê luyến dục vọng, đã vụng về lại thêm chây lười tu tập mà tiến trình học đạo thì quá cao thâm, mênh mông và dài dằng dặc, làm sao có thể đạt tới đích ? Tội nghiệp, tôi làm thân tằm ăn dâu để nhả tơ mong hướng thượng, nào ngờ, tơ đâu chẳng thấy mà thấy nhả ra lại toàn là dâu mình đã ăn, chẳng thể tiêu hóa được. Đời tôi còn vương vấn quá nhiều lục dục thất tình nên chi, là một Phật tử mà lại không dám quy y vì sợ phạm luật, phạm giới cấm. Nam mô a di đà Phật, lời thầy dạy con biết là không thể nào thực hiện nổi, xin thầy rộng lượng thứ lỗi cho con.

Từ đó, tôi lặng lẽ bỏ cuộc.

Trong quá trình sống, học tập, sự phát triển con người là một lộ trình dài đăng đẳng đầy chông gai và thật vất vả, khó khăn. Nhưng chính nhờ vậy con người mới có thể chinh phục, chế ngự, thôn tính các thế lực chung quanh để chiếm hữu vạn vật muôn loài. Trong hoạt động, họ luôn luôn tiếp nhận mọi nguồn thông tin từ ngoại giới. Con người lại có khuynh hướng tò mò, tìm hiểu những biến động bao quanh mình, đồng thời muốn biểu hiện về mình, yêu mến thân mình, bảo tồn những sở hữu của mình như vợ con, nhà cửa, đất đai, tiền bạc ...

Như vậy, con người có đầu óc nhận xét được đúng sai, có trí tuệ biết hỷ, nộ, ái, ố chứ đâu phải là vô tri vô giác, không sáng suốt. Đó là quan điểm tiến bộ. Nhưng theo triết lý kinh điển Phật môn thì con người hành động nhưng không biết là mình đã vướng vào các mối phiền lụy, khổ não, đọa lạc, luân hồi vì cái ngã chấp, ngã kiến đó. Cũng như trong cuộc sống đầy rẫy mê luyến, dục vọng không thiếu những đố kỵ, tranh chấp, tà kiến ... nên phải sử dụng thủ đoạn, mưu mô thâm độc để loại trừ nhau, hại nhau. Bình thường có mấy ai nghĩ đến hay tin vào thuyết nhân quả của nhà Phật.

Nhân quả tức là nhân duyên và quả báo. Nhân là cái cớ có thể sinh ra quả. Quả là cái vật do nhân đẻ ra. Có nhân ắt có quả, có quả ắt có nhân. Đó là cái lý lẽ nhân quả ( nhân quả chi lý ), cái luật nhân quả ( nhân quả luật ) ( Loi causale, rétribution des actes ). Muốn biết cái nhân đã qua, hãy xem cái quả hiện tại ; Muốn biết cái quả về sau, hãy nhìn cái nhân hiện tại. Nhân quả nhãn tiền. ( Rõ rằng nhơn-quả dở dang, Đã toan trốn nợ đoạn tràng đặng sao ? ) ( Kiều ) Nhân quả là lẽ tự nhiên, là luật định sẵn, không chạy chối đặng. Tỷ như tiếng gọi ở thinh không liền có tiếng dội vọng lại vậy.*

Có lẽ vô minh là sự nhận diện lầm lạc về thực tại, thực tại về mình và những gì ở ngoài mình. Bên trong là cái Ta, cái Ngã. Cái mà mình tưởng là Mình, thuộc về mình, là Ta, của ta chắc gì đã là mình, là ta. Thế giới sự vật bên ngoài, ta tưởng là có thật như thế, rõ ràng nhất định thế, tất nhiên thế, phải chấp nhận thế, chắc gì đã là như thế. Cái Ngã to lớn, chơn chất, thành thật vẫn có ở chúng sanh. Nhưng chúng sanh bị vô minh phiền não che bít nên chẳng thấy được nó. Có thể đó là ảo tưởng, ảo tưởng về NGÃ, THA. Coi cái ngã là giả dối, là tạm hiệp, là Không – mình cũng không, các sở hữu của mình cũng là không : cho đến chúng sanh và mọi vật, mọi cảnh cũng đều là không.

Ảo tưởng có khả năng mê hoặc dễ dẫn đến sai lầm : Tưởng thật hóa ra giả. Tưởng tương lai thì ra là quá khứ. Tưởng có biến thành không. Tưởng vững bền thật ra là phù phiếm mong manh. Tưởng hạnh phúc hóa ra đau khổ. Mà đau khổ thì ngập tràn trong cõi trần thế vì vô minh theo tư tưởng Phật giáo. Nhà học đạo chân chánh phải biết rằng cõi đời tạm bợ vốn hư hư ảo ảo. Cái bản ngã tức thân-tâm là giả, vốn không (1). Giác ngộ một cách rốt ráo như vậy thì đắc đạo. Tưởng quyết như vậy mới dứt bỏ được căn bệnh phiền não, việc tu hành mới dễ bề đạt thành chánh quả.

Tôi nhận thức ra được phần nào chân lý vi diệu trên cũng nhờ thầy khai mở, điểm hóa ban đầu. Nhưng cái cốt lõi vẫn chính là suy nghiệm của bản thân mình. Về sau, tôi tập nhìn vào quãng đời dài, rất dài nỗi long đong của mình mà phán xét, suy ngẫm. Có lẽ nhờ vậy mà trên bước đường truân chuyên, chìm nổi, tù đày, lưu lạc ở mai sau đã giúp tôi phần nào đứng vững, không ngã quị vì tai ách nghiệt ngã, bất hạnh, thất vọng và đau khổ.

Cõi trần thế, chúng sanh còn ngập chìm trong bể khổ trầm luân tham, sân, si, biết nhờ ai cứu nạn? Đức Quán Tự Tại cũng chính là Đức Quán Thế Âm. Phạn ngữ là Avalokitesvara, là hình tượng một vị Phật Bà, một phụ nữ xinh đẹp rất hiền từ, rất dịu dàng, luôn luôn có nhành dương và bình tịnh thủy chứa đầy nước “ cam lồ “ trên tay, chu du khắp thiên hạ với hạnh nguyện cứu vớt sinh linh còn đang lầm than, đắm chìm trong cảnh đọa đày. Ngài “ cứu nạn cứu khổ “ với bất cứ ai, lúc nào, ở đâu khi có người cầu xin cứu giúp. Quán Tự Tại Bồ Tát tức Quán Thế Âm Bồ Tát. Bồ Tát dịch từ Bodhisattva, phiên ra tiếng Hán là Bồ đề tát đỏa (Bồ đề : giác ngộ trọn vẹn ; Tát đỏa : chúng sanh), nghĩa là người đã giác ngộ, đã tỉnh thức trọn vẹn nhưng chưa“ lên” ngôi vị Phật, hoặc đã thành Phật nhưng vì lòng thương “ cõi người ta “ mà Ngài còn nấn ná ở lại giúp chúng sanh được giác ngộ, tỉnh thức như mình. Đức Quán Thế Âm Bồ Tát phát nguyện : “ Khi nào thế gian còn một người đau khổ, thì ta còn ở lại để cứu độ. “ Do vậy, người ta thường gọi Bồ Tát là “ Phật hữu tình “ *. Cái quí của Đạo Phật là ở chỗ đó, giải thoát, phổ độ, cứu vớt con người tránh khỏi cảnh trầm luân khổ đau.

Đức Quán Thế Âm còn có khả năng thị hiện ra đủ hạng người để dễ tiếp xúc, gần gũi với họ mà lắng nghe “ tiếng kêu của trần thế “. Do vậy, người ta thường cầu nguyện Đức Quán Thế Âm mỗi khi gặp điều hung hiểm, tai nạn, bất hạnh hay hoàn cảnh bế tắc không lối thoát, đau khổ tử sinh vì tin rằng Bồ Tát có thể nghe thấu được lòng mình và sẵn sàng phù hộ độ trì mình. Khi con người đã giãi bày được hết nỗi lòng uẩn khúc và tin rằng có đấng quyền năng sẵn sàng nghe mình, giúp mình, không xua đuổi, hất hủi thì người ta đã tự giải quyết được phần lớn vấn đề rồi, bởi lúc đó con người đã tự tin, sáng suốt trở lại để có thể có những quyết định đúng đắn, như tấm kiếng bị mưa che mờ được lau chùi sạch sẽ.

Người thầy thuốc dành thời gian quý báu, sẵn sàng lắng nghe bệnh nhân trình bày căn bệnh là đã thực hành được một cái hạnh của Bồ tát. Sư phụ chịu khó chú ý nghe học trò giãi bày lỗi lầm với tấm lòng độ lượng và vị tha ; Thầy và trò cũng đã thực hành được một hạnh của Đức Quán Thế Âm. Tự nguyện giúp đỡ người tàn tật đau khổ một cách chân tình và thấu cảm, đó cũng là một cái hạnh của nhà Phật. Tóm lại, hạnh Bồ Tát mênh mông vô tận trong cõi ta bà thế gian đất trời.

Lần thứ hai tôi nghe tiếng súng vang rền trong thành phố quê hương vào tết Mậu Thân 68, nơi đặt bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân đoàn I – Quân khu I.

Lần đầu tiên là biến cố Phật Đản 1963 đã đẩy những người tu hành ra khỏi mái chùa tĩnh lặng. Phật giáo đứng lên đấu tranh, khởi đầu là ở miền Trung chống kỳ thị tín ngưỡng, đàn áp tôn giáo, đòi chính quyền thực hiện bình đẳng niềm tin dựa trên căn bản tự do và công bằng xã hội. Người Phật tử ý thức rõ rệt thực tế đạo không lìa xa đời và quan niệm hạnh phúc của mình chính là hạnh phúc của kẻ khác. Người người xuống đường. Nhà nhà xuống đường. Chợ búa không nhóm họp, công sở không làm việc, trường học đóng cửa không dạy. Người dân hiền hòa, chất phác xuống đường chỉ bằng vào lòng tin tín ngưỡng tuyệt đối, sẵn sàng tử vì đạo pháp. Huế, Đà Nẵng bị nhận chìm trong màn khói lựu đạn cay lẫn khói súng đủ loại. Người chết, người bị thương lác đác. Rồi tiếp đến Qui Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn đứng lên, cũng sục sôi hừng hực khí thế. Các tăng ni sư sãi đầu trần chân đất, trên tay không một tấc sắt tự vệ mà niềm tin thì như long trời chuyển đất. Họ bình thản đối mặt với những đội quân tinh nhuệ nhất, trang bị vũ khí hiện đại nhất, có khả năng giết người hàng loạt mà tâm họ không hề nao núng, sợ sệt. Tâm vì Đạo pháp.

Có kẻ bảo rằng, cuộc tranh đấu Phật giáo là của bọn vô chính phủ. Tôi nghĩ, chả lẽ cả miền Nam vô chính phủ hết hay sao ? Vậy những người lãnh đạo quốc gia ở đâu ? làm gì? Há lẽ cái chết của nữ sinh Quách thị Trang, 8 cuộc tự thiêu của tăng ni Phật tử, đặc biệt là của Hòa thượng Thích Quảng Đức và cảnh xuống đường biểu tình của hàng vạn nhân dân, giam cầm hàng ngàn Phật tử lại trở thành vô nghĩa tất cả hay sao ? Nước Việt, với bốn ngàn năm văn hiến, hơn nửa thế kỷ qua đã không sản sinh ra nỗi một con người yêu nước thương nòi đích thực. Ngược lại, còn đem hận thù chết chóc gieo rắc xuống lương dân. Thế mới hay, chính những người vô trách nhiệm, thiếu lương tri hay nói trắng ra là vô đạo mới có những lời phát biểu cuồng ngông như vậy. Kết quả cuối cùng đã chứng minh, đó là sự cáo chung của chế độ.

Trong chiến tranh, lớp trẻ là nguồn lực dồi dào nhất có thể huy động bất cứ lúc nào để bảo vệ tổ quốc. Lớp trẻ nhận lãnh trách nhiệm đối với quê hương như một niềm vinh dự to lớn nhưng cũng là thành phần chịu thiệt thòi nhất. Chưa kịp hiểu rõ đời đã bị đẩy vào đời. Chiến tranh bùng phát ào ạt như ngọn lửa táp ngang mày.

Tôi có lệnh gọi động viên khi đất nước còn mang cái tang chung của mùa Xuân năm 1968.

Số tôi, học hành không đạt, Đạo hạnh cũng chẳng thông, bây giờ tôi nhập Đời học cách giết người, uống rượu, tà dâm, dối trá mà trong trí vẫn thuộc nằm lòng năm điều răn cấm của ngũ giới nhà Phật là : chẳng sát sanh, chẳng uống rượu, chẳng nói láo, chẳng tà dâm, chẳng trộm cướp ; còn Nho giáo thì có Ngũ thường là : bất nhơn, bất nghĩa, bất lễ, bất trí, bất tín. Tôi ngẫm, mình chỉ còn thiếu một cái nữa là phạm đủ ngũ giới, ngũ thường. Mặc cảm tội lỗi dằn vặt, hành hạ không ít, tôi sống lặng lẽ cô đơn, xa lánh mọi người.

Mang tâm trạng bất ổn đó, tôi bước vào quân trường. Thời gian trui rèn, thao luyện đổ mồ hôi. Ngày, bận bịu tất bật với những bài học tác xạ, chiến thuật, lãnh đạo chỉ huy, tác chiến trong rừng, trong thành phố ... Đêm, không đi trực tuyến thì tập dạ hành hay quân phong quân kỷ, trình diện dã chiến ... Từ mờ sáng đến tối mịt, lúc nào quân trường cũng rầm rập tiếng đếm nhịp bước đều, đâu đâu cũng nghe vang vang hành khúc : “ Đường trường xa ... Đoàn hùng binh ... ” Thân xác mệt mỏi rã rời, đầu óc trơ lỳ chai cứng, “ Cư an Tư nguy “ mang trên vai áo trong quân trường Thủ Đức tưởng nhẹ tênh mà thật ra lại quá nhọc nhằn, nặng nề.

Khi an không quên lúc nguy, khi vững đừng xao lãng có thể mất, khi trị phải nhớ lúc loạn ... cho hay, khi tổ quốc đã tin tưởng giao phó, ủy thác lớp người trẻ trọng trách bảo vệ núi sông thì không thể chểnh mảng coi thường được. Thế rồi lâu dần cũng quen. Đời Sinh viên Sĩ quan càng lên cấp trưởng càng nhẹ nhàng, nỗi lao nhọc khó khăn ban đầu vơi đi, giúp tôi loại bỏ được chán chường, quân bình lại tâm lý. Tôi thấy mình trưởng thành lên, tự tin hơn và yêu đời ra. Có lẽ, nghiệp dĩ nhà binh với đôi giày sau bộ quần áo trận thích hợp với cuộc đời tôi hơn. Hãnh diện cũng từ đấy mà gian nan cũng bắt đầu từ đấy.

Thời gian lặng lẽ trôi, hết giai đoạn một qua giai đoạn hai rồi đến ngày mãn khóa.

Chọn đơn vị. Ai cũng sợ đi vùng I, tôi chọn. Lính ở đâu mà chả đánh giặc. Chọn binh chủng. Thứ lính ít người thích, tôi chọn. Lính gì cũng là lính, cũng phải đánh giặc chứ có tà tà ở nhà bát phố đâu. Tôi vốn dĩ ghét chiến tranh. Chiến tranh chết chóc điêu tàn, ai mà không ghét. Tuy nhiên, vì yêu tự do, chống mọi hình thức độc tài nên đã vào lính thì phải chiến đấu, phải là lính “ thứ thiệt “ mới là lính, mặc dầu đời lính tác chiến gian nan, khổ cực, sống chết chẳng ai lường trước từ quan đến đơ dzem cùi bắp. Vất vả không ít, bị xài xể cũng nhiều mà còn răn đe thường xuyên hơn là an ủi, khuyến khích. Tháng nào không băng rừng vượt suối. Tuần nào không chết chóc bị thương. Đánh giặc như ăn uống hàng ngày.

Chiến trường luôn thúc giục, réo gọi người lính ra đi. Lại lên đường, lại nhập trận, không từ chối tránh né được. Kỷ luật mà. Lính nào mà không kỷ luật. Không kỷ luật, không có quân đội. Ở đâu người lính cũng sẵn sàng, chết sống do phần, thương vong có số, đời người dài ngắn bởi trời cả. Bom rơi đạn lạc là chuyện thường tình, số chết thì chổ nào cũng chết, có trốn ở nhà cũng ăn đạn tiêu tùng. Người lính chiến kiêu hùng bất khuất, hào khí ngất trời là ở chỗ đó. Họ chết cho nhau lúc hiểm nghèo dễ dàng, tự nhiên vô cùng như người đời thường nói : xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Anh hùng, tử sĩ mấy ai nghĩ tới lúc thập tử nhất sinh đó. Họ giết nhau cũng bình thường, nhưngï không hề nghĩ phải giết người để trở thành anh hùng, mặc dầu hiếm kẻ anh hùng nào mà lại không giết người nhưng điều khác nhau là cách giết, lý do giết và giết ai ? Giết kẻ thù thấy máu run tay, chưa phải là anh hùng.

Cứ nghĩ thế rồi lòng thanh thản, tôi trải qua hết trận nầy đến trận khác chẳng mấy khó khăn. Hao hụt thì bổ sung. Bạn bè chết, buồn phát khóc cũng không tồn tại lâu, mà vui với bạn mới cũng chỉ trong giây lát bất chợt. Vui buồn lẫn lộn. Thương tích, chết chóc như người bạn chung đường. Nỗi đau chiến tranh người lính chứng kiến hàng ngày tưởng như sờ nắm, cầm bắt được. Chiến tranh thảm lắm, tự nó vốn đã tàn bạo. Dân Việt quá khổ, cái khổ lại quá lâu. Mỏi mòn con mắt trông đợi thái bình, an cư nhưng chẳng thấy đâu, chỉ toàn là hy vọng hão huyền, ảo tưởng.

Thực sự thì người lính nào cũng muốn sống và sợ chết cả, họ chỉ không còn nghĩ đến cái chết khi súng đã nổ. Người lính Cộng sản đi vào cuộc chiến với lòng sắt máu căm hờn, với hành động vô nhân của những con người máu lạnh. Còn người lính Cộng hòa đi vào cuộc chiến với tâm trạng tự vệ, chấp nhận chiến tranh như tai trời vạ nước. Họ hành động chống trả như một phương thức kháng cự. Anh đánh tôi, tôi đánh trả. Anh muốn tàn sát tôi, tôi phải tiêu diệt anh. Quân dân miền Nam chiến đấu quyết liệt để tự bảo vệ, để sinh tồn. Cứ thế, chiến tranh tiêu hao dần mòn hết tài nguyên và sinh mạng, lãng phí hết tuổi trẻ của người trai cả hai phía đối nghịch. Đời quân ngũ, người lính bận bịu không ít nên hiếm hoi có dịp trở về thăm chùa, thăm thầy. Thi thoảng hỏi mẹ, biết tin thầy khỏe, tôi mừng.

Miền Nam bại trận. Một ngày, tất cả bỗng điêu linh, đảo lộn theo quốc biến tháng Tư. Vận nước và con người bị cuốn hút theo giai đoạn lịch sử nghiêng ngã. Người lính Cộng hòa lũ lượt kéo nhau vào tù. Ở trong tù, người lính càng hiểu rõ hơn người Cộng sản. Trí trá, giảo hoạt, tàn bạo, sắt máu trong cái gọi là cải tạo hầu hủy diệt đời sống tinh thần kẻ đối phương mà không cần tra tấn, giết chết.

Trại cải tạo tức là nơi nhốt tù, dành cho những người tù khổ sai không có bản án lưu đày. Người Cộng sản Việt Nam tiếp thụ tất cả những tư tưởng man rợ, ác độc của Chủ nghĩa Xã hội từ quan thầy Nga, Tầu và tại quê hương mình, họ đem ra áp dụng còn tỏ ra xuất sắc hơn cả bậc thầy của mình. Nhục hình trong trại cải tạo không còn là đánh đập, hành hạ, tra tấn như lúc ban đầu mới bị bắt, mà là tạo sự đau đớn dai dẳng, kéo dài liên tục của thể xác và tinh thần. Đói, hành hạ triền miên. Lạnh, buốt xương thấu ruột.

Lao dịch nặng nề cực nhọc, bất kể mưa nắng ngày đêm. Đau ốm không thuốc men, đời sống không sách báo, không chuyện trò, không mua bán đổi chác, không tiếp xúc thế giới bên ngoài, không liên hệ người khác đội, không thư từ nói thật mọi điều trong trại với gia đình ... hàng trăm thứ không biến dần người tù thành đần độn.

Đói phải nói là no, ốm yếu phải nói là mạnh khỏe, cực khổ phải nói là sung sướng. Giả dối khiến họ đau khổ, tủi nhục hầu bẻ gãy ý chí, nghị lực họ, biến họ thành những cái xác vô hồn.

Những sự thật phũ phàng tàn nhẫn diễn ra quá quen thuộc trong sinh hoạt hàng ngày làm con người chai cứng, lạnh lùng, dửng dưng không còn cảm xúc. Sự lừa lọc dối trá, nói xuôi nói ngược cách nào cũng được, thay trắng đổi đen như trở bàn tay ... khiến người tù không còn tin vào bất cứ ai, bất cứ điều gì.

Nói đời sống trong tù quá tệ, không ai dám. Bảo nhà tù Xã hội chủ nghĩa tốt, nhân đạo thì bị phê bình là mỉa mai chế độ. Không phát biểu thì cho là “ nín thở qua sông “. Quần áo vài năm mới được phát một bộ nên phải mặc rách, vá chùm vá đụp thì bị phê bình là bôi bác chế độ.
Tù lao động khổ sai ai mà không mặc rách. Chỉ có cán bộ công an là mặc lành. Đi làm ngoài nương nhặt được củ khoai sót ăn ngấu nghiến cho đỡ đói, tối về cán bộ bắt đội ngồi thâu đêm để phân tích mổ xẻ phê bình, đào bới thành to chuyện. Nào là ăn uống mất vệ sinh, vi phạm nội quy trại, nào là phá hoại tài sản XHCN, cuối cùng quy cho cái tội khủng khiếp : phản động.

Biết bao nhiêu câu chuyện cười ra nước mắt trong tù. Cứ thế, năm tháng lê thê lạnh lùng trôi qua, người tù tự hủy diệt ngay chính đời mình mà họ không hề hay biết hoặc chẳng cần biết đến làm gì.

Tôi đã thấy nhiều người còn sống, còn thở, còn ăn uống đi đứng giống như những thây ma biết cử động. Đó là những chiếc bóng câm lặng, mỗi ngày một còm cõi tiêu hao, từ thể xác đến tinh thần. Cứ thế, họ mờ dần mờ dần, rồi một ngày bỗng biến mất vĩnh viễn trên cõi đời. Họ ra đi âm thầm, lặng lẽ như họ đã sống cuộc đời tù đày lặng lẽ, âm thầm.

Tôi còn trẻ, còn nghị lực và ước vọng tương lai nên nhủ lòng phải gắng mà sống, cố bức thoát ra khỏi vòng kiềm kẹp nghiệt ngã, nham hiểm của nhà tù cộng sản thật im lìm đừng để họ biết. Tôi nghĩ đến phương pháp rèn luyện thân thể theo phép thở Yoga. Tôi nhớ lời thầy dạy cách tham thiền.

Tham thiền còn gọi là Thiền, Thiền định, Thiền na, Nhập định, Định, Quán, Tư duy, tức là một phương pháp tu luyện hiệp chung của hai trạng thái liên tiếp liền nhau giữa thâm và tâm. Giữ cho hơi thở thật sâu và điều hòa, tâm bình an tĩnh lặng không giao động, bức thoát ra khỏi thế giới vật chất và những ràng buộc hệ lụy của đời người, tập trung tư tưởng cao độ vào một cảnh giới siêu hình siêu thoát, vượt ra khỏi những cái bị xem là trần tục tầm thường, để chiêm nghiệm những điều tốt đẹp và lý lẽ huyền diệu cao thâm, đó gọi là tham thiền và nhập định. Tham thiền bất cứ ở đâu và lúc nào cũng được. Đi, đứng, nằm, ngồi đều được, miễn hồ đừng để thân tâm phân tán và loạn động.*

Trong tù không ngồi thiền được thì nằm thiền. Tôi quán tưởng đến Phật, thành kính nghĩ về Phật với tấm lòng từ bi bác ái, với quyền lực quán thế của Ngài sẽ cứu giúp tôi thoát khỏi tai kiếp hiểm nghèo. Từ đó, mỗi lúc tập thiền định tôi thường xuyên quán niệm : “ Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn quảng đại linh cảm Bạch y Quán Thế Âm Bồ tát. “ Thời gian “ nhứt nhựt tại tù, thiên thu tại ngoại “ nó ảo hay thật tôi chẳng muốn biết hay không dám biết, chỉ nhớ rằng một ngày, lời cầu xin đã cảm ứng, phép lạ nhiệm mầu hiển hiện giúp tôi vượt qua được mọi khó khăn, gian khổ, tủi nhục nhất của đời người để sống còn. Tôi trở về làm con người trên quê hương mình.

Ra tù, về với gia đình, với sinh hoạt xã hội chủ nghĩa, tôi mới nhìn thấy hết cảnh xót xa cay đắng của người dân, mới thấu được nỗi khó khăn lam lũ của vợ hiền. Một xã hội bẩn thỉu và kỳ cục.
Mọi cái hay nhất, đẹp nhất, tuyệt vời nhất đều do công ơn của đảng. Kẻ có đảng tịch được nhiều ân sủng, người ngoài đảng thây kệ.


Thương đàn con nheo nhóc, miếng ăn cái mặc lúc nào cũng sừng sững trước mắt, ám ảnh hàng ngày hàng giờ, cả trong giấc ngủ chập chờn. Tôi lao vào cuộc mưu tìm sinh kế, bất kể ngày đêm khuya sớm, thời tiết nắng mưa, bất kể răn đe hù dọa, chỉ mong sao kiếm ra miếng ăn cái mặc cho các con đến tuổi ăn nhiều chóng lớn. Mọi thứ ăn mặc, học hành, phải không ... như thúc hối bên lưng khiến tôi nhức nhối tâm can.

Đêm thao thức, tôi lại nghĩ đến Đức Bồ Tát cứu nạn cứu khổ. Sáng dậy, tìm lên chùa thắp hương đảnh lễ cầu nguyện Phật, xin Ngài dang tay cứu giúp lần nữa. Tôi tìm đến thăm thầy. Thầy lúc nầy đã già lắm, lưng còng, tay lần tràng hạt run rẩy, hàng mi bạc che khuất ánh mắt tinh anh ngời sáng từ bi nhưng tâm thầy vẫn linh tuệ, trí thầy vẫn minh mẫn. Thầy bảo họa phúc thường vẫn đi kèm như hình với bóng và cẩn trọng dặn dò tôi kiên nhẫn chờ đợi, chớ vọng động “

Sống là động nhưng giữ lòng luôn bất động , nhất là giữ cái Tâm đừng để chao đảo, nghiêng ngã
- Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến. Hiện tại chỉ là thử thách, là rèn luyện, hậu vận sẽ khá hơn, không đắng cay nghiệt ngã mãi như vậy “.

Thầy như có huệ nhãn nhìn rộng thấy trước. Lời thầy gần xa như tiết lộ huyền cơ.

Đầu năm 1992, gia đình tôi được qua Mỹ. Lời thầy quả ứng nghiệm. Từ nay trên bước đường lưu vong, tôi trở lại làm con người trên xứ người.

Ở xứ người, trong cuộc mưu tìm sinh kế buộc phải bôn ba qua nhiều tiểu bang, thay đổi lắm công việc, chỗ ở nhưng dần dần rồi cũng ổn định. Trong gia đình, tôi thường đem sự thật của đời, của mình trải qua để làm gương dạy dỗ con cháu. Tôi ví đó như là những dòng suối, soi rọi chính những hình ảnh của tâm hồn, một quãng đời tuổi trẻ lãng đãng ngông cuồng, lao đao chìm nổi. Bảo là dạy con cháu, nhưng chính là tôi đang học, đang tự kiểm điểm lại chính mình.

Trong dòng suối cuộc đời, tự tâm, tôi như nhìn thấy lại từng khoảnh khắc thời gian, biết được cái đúng sai, tốt xấu, phải trái, nên hư ... để cuối cùng, trước sau, mình biết mình cần dạy con cháu những gì. Trong dòng suối trong lành và trung thực ấy, tôi thấy mình như trăm tuổi, như hình bóng một con người trôi xuôi theo dòng thời gian bất tuyệt.

Biết mình tài hèn sức mọn, không thể làm được chuyện an bang tế thế, lấp biển vá trời, nên chọn từ những mảnh vỡ của đời, tôi gom góp, đem ghép thành chiếc gương trong suốt, ước mong con cháu soi rọi để cuộc đời chúng đừng bao giờ mắc phải sai phạm và mãi mãi tràn đầy ánh sáng chân lý, hạnh phúc, mãi mãi thoát khỏi bóng tối hãi hùng của tội lỗi và đau khổ.

Riêng tôi, phần đời còn lại, tôi lấy hạnh phúc của gia đình và tha nhân làm hạnh phúc cho chính bản thân mình. Cuối đời, tôi đi tìm niềm vui trong những trang sách. Tôi chọn văn chương làm nơi gởi gắm tâm hồn và giải tỏa những uẩn ức muộn phiền còn rơi rớt lại sau cuộc chiến, sau tháng năm đăng đẳng trôi giạt lạc loài trên xứ người của đời mình.

Thời gian như bóng câu, bận bịu hoài chuyện làm ăn rồi cũng đến lúc được thư nhàn. Đứa con gái út, ngày ra đi chưa đầy tám tuổi nay đã trưởng thành, tốt nghiệp đại học, có công việc làm ăn cố định. Mấy đứa lớn thì đã yên bề gia thất, có cuộc sống riêng tư no đủ. Còn lại hai vợ chồng già, tôi kiếm cái job làm nhẹ nhàng thoải mái cho thư giãn thần kinh sức khỏe. Rảnh rang đi chơi đây đó thăm đồng hương bạn hữu, biết thêm cảnh trí đời sống quê người. Cuối tuần, dành thời gian chở cháu nội, cháu ngoại đến chùa Huệ Quang học tiếng Việt, để nhắc nhở bầy con cháu đừng bao giờ đánh mất cội nguồn, lãng quên tiếng mẹ đẻ, đồng thời cũng vay mượn hình ảnh cảnh chùa nơi quê hương đất khách mà tưởng nhớ Người xưa chốn cũ. Thầy tôi nay đã quá vãng, thọ gần 100 tuổi.

Mười sáu năm lưu lạc xứ người. Nhìn lại chặng đường đã đi qua, có cái được cũng có cái mất. Cái được thì quá ít ỏi nhưng cái mất thì nhiều vô kể. Nhưng được mất ở đời cũng đã đến lúc chẳng còn là điều quan trọng. Ý nghĩa phù du của cuộc sống rồi ra ai cũng hiểu. Đời sống lắng đọng, không còn là nỗi chập chùng lo toan.

Cứ thế, thời gian lặng lẽ cuồn cuộn trôi nhanh chóng vánh. Rồi thây kệ những nỗi đau riêng, tôi đã cố gắng quên tất cả, không nhắc nhở đến quá khứ làm gì nhưng đó là điều không dễ dàng. Tôi đã học cả đời để cố quên đi, xem thường mọi thứ, nhưng càng gắng quên thì nỗi nhớ lại càng nhói buốt, ray rức. Tôi đang tìm cách để thoát khỏi cái vòng lẩn quẩn cay nghiệt của dĩ vảng đau thương và đoạn tuyệt với những hệ lụy ràng buộc vướng bận của cuộc đời trần.

Riêng với Thầy kính yêu, tôi lại muốn nhớ, vạn lần không muốn đánh mất hơi hướm, bóng dáng, kỷ niệm ngày xưa. Cho hay ở đời, có cái cần học để quên cũng có cái cần học để nhớ. Và hôm nay trên xứ người, tôi đang học để nhớ về một quê hương yêu thương cách trở ngàn dặm. Nỗi nhớ đó luôn làm trĩu nặng lòng mình

TIÊN SHA LÊ LUYẾN
Chesterfield, Virginia - Aug 14.2007
-----------
Chú thích:

* Trích “ Từ điển Phật học “ của Đoàn trung Côn.

(1) Trái với quan điểm của Hermann Hesse trong “Sói đồng hoang”, bản ngã gồm hai phần: phần người và phần sói. Ý ông ám chỉ thiện và ác.
 
thanhlongphapsu Date: Thứ Hai, 10 Mar 2014, 5:55 AM | Message # 2
Generalissimo
Group: users
Messages: 1380
Status: Tạm vắng
 
kathy Date: Thứ Hai, 10 Mar 2014, 12:39 PM | Message # 3
Colonel general
Group: Users
Messages: 900
Status: Tạm vắng
 
atoanmt Date: Thứ Hai, 10 Mar 2014, 4:25 PM | Message # 4
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 5081
Status: Tạm vắng



AToanMT
 
FORUM » TRANG PHẬT GIÁO » PHẬT-SỰ MUÔN NƠI » THẦY TÔI VÀ TÔI (TIÊN SHA LÊ LUYẾN)
  • Page 1 of 1
  • 1
Search:


TỰ-ĐIỂN TRỰC-TUYẾN :

Từ Điển Online
Bấm vào dấu V để chọn loại Tự-Điển
Gõ Chữ muốn tìm vào khung trắng dưới đây:
Xong bấm GO