Thứ Ba
23 Apr 2024
7:18 PM
ĐĂNG NHẬP


Dưới đây là "Danh Mục" thu gọn,
xin mời bấm vào "tam-giác" nhỏ để chọn bài xem:









PHÒNG TÁN DÓC TRỰC-TUYẾN
KHÁCH 4 PHƯƠNG:

LỊCH
Search
CÁC BÀI VIẾT MỚI NHẤT
<> Realtime Website Traffic

[ BÀI VIẾT MỚI · Forum rules · TÌM KIẾM · RSS ]
  • Page 1 of 1
  • 1
FORUM » TRUYỆN HUYỀN HỌC » TRUYỆN MA - TRUYỆN KINH DỊ » CON RANH CON LỘN (CÀN SÁT QUÁI 1920) (Trần Tính & Ngô Cao Bá)
CON RANH CON LỘN (CÀN SÁT QUÁI 1920)
saigoneses Date: Chủ Nhật, 18 May 2014, 10:36 PM | Message # 1
Lieutenant general
Group: Administrators
Messages: 505
Status: Tạm vắng
​CON RANH CON LỘN (CÀN SÁT QUÁI NĂM 1920)

Tư liệu cụ Trần Tính và ông Ngô Cao Bá

Câu chuyện sau đây do cụ Trần Tính, pháp danh Đồng ​​Thiện ​, ​sinh năm 1922, người làng Mỹ Thuận​ ​và ông Ngô Cao Bá ​ ​người làng Mỹ Trạch​ ​- xã Ninh Hà - huyện Ninh Hòa​, tỉnh Khánh Hòa ​kể lại:

Tại làng Mỹ Trạch, xã Ninh Hà, huyện Ninh Hòa​ ​có gia đình ông Hồ Thụ ​​sinh ngày 26 tháng 6 năm 1896 (Bính Thân) và vợ là bà Võ Thị Trước​ ​sinh năm​​ Tân Dậu (1897). Hai vợ chồng ông bà Thụ khi sinh người con đầu lòng, hình thù quái lạ, gương mặt trông rất đần độn. Sau khi sinh, bé cất tiếng khóc chào đời thì chết ngay.

Lần thứ hai vợ ông cũng sinh một bé hình thù và khuôn mặt giống y hệt như đứa đầu lòng, vừa cất tiếng khóc chào đời thì bé cũng tắt thở.

Lần thứ ba cũng hình dạng và gương mặt đần độn ấy, khi vừa được sinh ra, cất tiếng khóc đầu đời thì chết ngay lập tức.

Cả ba đứa con cùng chung một gương mặt và đều chết non.

Lúc bấy giờ người cậu nuôi của Thụ là ông Ngô Đài​ ​sinh năm Canh Ngọ (1870) là một người giàu có thuộc vào hàng bậc nhất nhì trong làng Mỹ Trạch, ông lại là một Phật tử thuần thành, điều đáng nói nhất ở đây là ông Ngô Đài hay làm từ thiện, tu hạnh bố thí, cúng dường, nên ông được người dân trong làng và các vùng lân cận yêu thương và kính trọng.

Biết đứa cháu nuôi của mình sinh con bất bình thường, ông Ngô Đài​ ​liền chỉ bảo với Hồ Thụ rằng:

- Vợ chồng mày sinh nhầm phải con ranh con lộn rồi, cho dù vợ mày có sinh thêm bao nhiêu đứa con đi nữa, thì cũng chỉ một khuôn mặt đó và cũng kiểu chết non y hệt như vậy thôi.

Nghe thế ông Thụ buồn bã hỏi:

- Cậu ơi, trên đời này sao lại có chuyện quái lạ xảy ra với vợ chồng cháu như thế?

Ông Ngô Đài đáp:

- Tại vợ chồng mày chưa biết đó thôi, nó đâu phải là con của tụi mày, nhìn khuôn mặt của nó thì biết ngay, nó là loài “quái càn la sát con ranh con lộn đầu thai đó”, mày có biết không?

Nghe cậu nói đến đây trong lòng Hồ Thụ​ ​bất an, liền hỏi:

- Thưa Cậu, vậy có cách gì chữa trị để vợ cháu khỏi phải sinh con ranh con lộn không?

Ông Ngô Đài ôn tồn:

- Để chữa lành bệnh này thì vợ chồng mày, nên sớm tìm thầy cao tay ấn để trừ tà ma, nếu trấn yểm được loài quái càn la sát này thì vợ chồng mày mới sinh con và nuôi con khôn lớn được.

Vì xót thương cho đứa cháu nuôi của mình, nên ông Ngô Đài ​​giải thích thêm:

- Con ranh con lộn tức là khi vừa sanh ra, thì đứa bé ấy chết ngay, liên tiếp nhiều lần như vậy. Đây là một giống tà quái la sát thường hay phá phách thai nhi. Chỉ cần một con yêu quái ấy thôi mà nó thác sanh vô ra nhiều lần. Có người không tin thử, làm dấu bằng cách, đứa đầu sanh ra chết thì chặt một lóng tay, lần thứ 2 sanh ra thai nhi cũng bị mất lóng tay, họ bấm tiếp lỗ tai rách làm hai, thì lần thứ 3 sanh ra thai nhi cũng bị dấu vết y như vậy. Bởi thế nên ở xứ Ninh Hòa, người ta nguyền rủa những đứa nhỏ bợm bãi du côn là “loài con ranh con lộn”. ​ Nếu vợ chồng mày đi thầy bùa, thầy phù thủy, thầy pháp, thì họ trị nạn này bằng cách dùng dao phay chặt thai nhi làm 3 khúc, rồi họa bùa ếm trừ sau đó mới đem đi chôn, mỗi nơi mỗi khúc. Kinh khủng lắm, việc này tàn nhẫn rất không nên làm…

Nghe kể đến đây ông Thụ thở dài buông lời buồn chán:

- Con ranh con lộn là do vợ cháu sinh chứ không phải cháu. Giá như cháu có vợ hai, vợ ba thì chắc sẽ không có chuyện đau buồn, đáng tiếc như thế này…

Ông Ngô Đài ​là một Phật tử quy y Tam Bảo pháp danh Đồng Bửu, thâm tín Tam Bảo và am hiểu giáo lý Phật ​pháp , khi nghe đứa cháu của mình nói thế, thì biết ngay là nó có ý định bỏ vợ. Ông liền khuyên ngăn quở trách:

- Vợ mày là đứa đàng hoàng, không hư hỏng, nó sống thủy chung với mày, cớ sao mày lại có ý định thay lòng đổi dạ với nó, nếu mày làm như thế là không đúng với đạo nghĩa vợ chồng. Mày nên dẹp ngay cái ý định lấy vợ bé ấy đi.

Ông Thụ than thở:

- Đi thầy Pháp trừ tà thì quá tàn nhẫn, còn lấy vợ bé thì trái đạo nghĩa vợ chồng. Cả hai điều ấy cháu đều không làm được, vậy cậu bảo cháu phải làm gì bây giờ?

I​m lặng một hồi lâu, ông Ngô Đài​ ​chợt nhớ ​tới Thầy Quảng Đức (*), là bậc chân tu đạo cao đức trọng, ông vui mừng nói:

- Thầy Quảng Đức đang ẩn tu ở hang cọp tại Núi Chùa​ ​hòn Đất, đạo hạnh rất cao ​thâm, có thể “hàng yêu, phục ma”. Để cậu lên đó thỉnh Ngài xuống núi trị bệnh cho vợ mày​!​

Nói xong ông Ngô Đài ​cùng ông Hồ Thụ ​vội vã lên đỉnh Núi Chùa​ ​hòn Đất. Khi đến nơi, thì hoàng hôn cũng vừa buông xuống, cảnh vật nơi đây thật yên tĩnh, áng mây hồng bồng bềnh giăng kín chân trời Tây, khói lam chiều từ những mái tranh quê, hương mạ non từ ruộng đồng Mỹ Trạch. Trước cảnh đẹp thiên nhiên của buổi chiều tà, ​Thầy Quảng Đức đang thiền hành quanh ngôi thảo am trên đỉnh Núi. N​​hư được bảo hộ bởi một sức mạnh vô hình, hai cậu cháu ông Ngô Đài ​đều ​cảm nhận ​ trong lòng rất bình an​

Khi trông thấy Thầy từ xa, ông Ngô Đài​ ​cất tiếng:

- A Di Đà​ ​Phật, Kính bạch Thầy ​, con là Đồng Bửu​ ​và đứa cháu Hồ Thụ​​lên tìm Thầy đây… Mô Phật… Nam Mô Phật.

Tiếng gọi to của ông Ngô Đài, xé tan bầu không gian tĩnh mịch. Đang thiền hành, Thầy từ từ dừng lại, đợi cho hai cậu cháu lại gần, với chất giọng trầm từ, ôn tồn Thầy hỏi:

- Duyên sự gì mà hai cậu cháu lên núi tìm Thầy vào giờ này?

Ông Ngô Đài​ ​và đứa cháu cung kính chắp tay xá Thầy thật sâu, rồi đứng cạnh Thầy bẩm bạch một mạch:

- Bạch Thầy, con có đứa cháu dâu là vợ của thằng Thụ này đang lâm bệnh thiên thời, sinh nhầm phải con ranh con lộn, kính nhờ Thầy chữa trị, xin Thầy từ bi cứu khổ cứu nạn cho...

Nghe qua, ​Thầy ​trầm ngâm ​không nói một lời nào, chỉ nắm chặt lấy tay của ​2 cậu cháu dắt đi đến bộ ​T​hạch bàn, rồi cả ba thầy trò cùng ngồi xuống, đó là bộ bàn ghế được tạo nên từ những phiến đá cuội tại ngọn núi này.

Giữa cảnh u tịch của chốn núi rừng, màn đêm đen tối cũng từ từ buông xuống, khói hương trầm lan tỏa từ chiếc lư đồng trên bàn Phật, bên trong ngôi thảo am, khiến hai cậu cháu có cảm giác lâng lâng, lòng nhẹ nhàng thanh thản. Vẫn với chất giọng trầm từ ​Thầy giảng giải:

- Đạo Phật lấy từ bi làm nguồn cội, lấy trí tuệ làm sự nghiệp và lấy hùng​ ​dũng làm quyền môn giáo hóa.

Ngừng lại​ ​vài giây ​rồi Thầy giảng tiếp.

- Đem tâm từ để cảm hóa yêu đạo, lấy gươm tuệ để đoạn rễ vô minh, dùng hùng tâm dũng trí để đưa người về nẻo giác. ​ Nhưng theo các thầy bùa, thầy phù thủy, thầy pháp thì các vị ấy dùng uy lực của bùa chú, phép thuật để chế ngự yêu tinh con ranh con lộn, Thầy rất xót xa và thương cảm về việc này…

Ông Hồ Thụ​ ​thưa vào:

- Bạch ​Thầy, con cũng đã từng chứng kiến các thầy bùa, thầy phù thủy, thầy pháp dùng phép thuật ếm trừ con ranh con lộn, Họ lấy dao phay chặt thai nhi làm 3 khúc, rồi ếm bùa sau đó mới đem đi chôn, mỗi nơi mỗi khúc. Con thấy có một cái gì đó quá dã man và rất là tàn nhẫn, bạch Thầy…

​Thầy tiếp lời:

- Theo tinh thần của đạo Từ Bi thì việc ấy rất không nên làm, nếu đã tạo nghiệp sát nhất định phải bị tổn mạng, tuy các thầy pháp, thầy phù thủy, tạm thời chế ngự được yêu quái, nhưng lại càng làm tăng thêm lòng thù hận, vì loài phi nhơn kia không được siêu thoát, chúng sẽ quay trở lại báo oán

Nghe ​Thầy giảng dạy đến đây, hai cậu cháu đã ngộ ra một phần nào về chữ Từ Bi trong đạo Phật.

- Oán thù nên hóa giải, chứ không nên buộc chặt.

Thầy lại dạy tiếp:

- Tâm từ bi rộng mở với tất cả mọi loài, được hiển bày dưới nhiều hình thức, có khi là mưa phùn gió nhẹ, nhưng cũng có lúc là phong ba bão táp. Khi thì mềm mại nhu nhuyến uyển chuyển, nhưng có khi cũng cương quyết, dứt khoát và đầy uy lực. Do đó, mà Đạo Phật không chỉ có Từ Bi và Trí Tuệ mà còn có cả Hùng tâm và Dũng trí. ​ Từ sự quán chiếu sâu xa về cội nguồn nhân quả, rõ biết căn cơ của từng chúng sinh để tùy duyên phân biệt thiện, ác mà chuyển hóa… Phá mê đạo chuyển người về chính đạo, tùy duyên hóa độ dấu tích không lưu…

Ông ​H​ồ ​T​hụ thưa:

- Kính bạch Thầy, ​chúng con có một niềm tin vững chắc về Tam bảo, tin về lòng từ bi và trí tuệ. Chỉ có đạo hạnh tu hành của các bậc cao Tăng mới có thể làm quỷ thần phải khiếp sợ… ​ Kính bạch Thầy xin Thầy từ bi cứu giúp cho đứa cháu dâu của con…

​Thầy nhẹ nhàng gật đầu và hứa khả:

- ​ ​Vợ chồng cháu Thụ khi về đến nhà, phải chuẩn bị hương, đăng, trà, quả và trang trí bàn thờ Phật trong nhà cho thật là trang nghiêm, giữ lòng trong sạch, trai tịnh trong suốt thời gian này. Ba ngày nữa Thầy sẽ đến nhà trị bệnh.

Hai cậu cháu rất đỗi vui mừng đứng dậy chắp tay cung kính xá chào Thầy:

- Mô Phật, kính bạch ​T​hầy chúng con về.

Khi hai cậu cháu xá chào ​Tthầy rồi lui gót xuống núi, khi đến sườn đồi, thì v​ầng trăng thượng tuần cũng đã lên cao, dưới ánh trăng ngà, tiếng chuông gia trì từ ngôi thảo am khoan thai chuyển động trong nhịp mõ đều đều, lời kinh nhiệm màu lại vang lên, thoảng đưa trong gió là thanh âm trầm hùng của chú Phổ Am ​và chú Đại Bi - một sức mạnh vô biên vang rền cả thinh không, rung động cả núi rừng. ​ ​Thầy đã bế quan, thiền tọa và hành trì bí mật thần chú trong suốt thời gian đó.

Ba ngày đã trôi qua, đúng như lời hứa Thầy xuống núi và đi thẳng đến nhà ông Hồ Thụ ​ ​để trị bệnh.​ Cả nhà ra cung nghinh đón tiếp và mời Thầy vào trong nhà. ​Những người chứng kiến lúc bấy giờ trong đó có ông Ngô Đài. Họ chỉ trông thấy và nghe ​Thầy b​ảo rằng:

- Hai vợ chồng cháu Hồ Thụ ngồi thẳng​, chấp tay trước bàn thờ Phật giữa nhà. Giữ lòng thanh tịnh và nhất tâm niệm Phật ​!​

Còn ​Thầy thì đứng trì tụng mật chú khoảng 15 phút. Thế là xong cách chữa trị.

Trông rất nhanh và thật đơn giản, gia đình tạ lễ, tịnh tài và phẩm vật, Thầy không nhận bất cứ một lễ nào, chỉ uống một chung trà nóng cùng gia đình, rồi Thầy hồi quy bổn tự. Cả nhà cùng tiễn đưa Thầy trên một quãng đường làng. Hình ảnh thánh thiện vô trước của bậc chân tu, với chiếc áo nâu sồng cũ kỹ, từng bước chân nhẹ nhàng trôi giữa dòng đời - Người đã đi vào lòng Hồ Thụ ​​từ đây.

Khi trở về nhà mọi người đều nghe bà Thụ kể lại rằng:

- Khi Thầy niệm thần chú, ​tôi thấy trong người mình khỏe ra rất nhiều và niềm tin về đức Phật hết sức mãnh liệt...

Sống với chồng được một thời gian, bà Thụ thai nghén và tuần tự sinh ra các người con như sau:

- Ông Hồ Liễn ​​sinh năm Tân Dậu (1921).
- Bà Hồ Thị Ra ​sinh năm Bính Dần (26-04-1926).
- Ông Hồ Thi ​sinh năm Canh Ngọ (10-01-1930).
- Bà Hồ Thị Quán ​ ​sinh năm Quý Dậu (1933).

Thế là ông Hồ Thụ ​sống thủy chung với vợ đến suốt cả cuộc đời và ý định lấy vợ hai, vợ ba cũng không còn.

Khoảng một thời gian sau, hai ông bà Thụ cùng các con trong gia đình tìm đến ​Thầy và xin làm đệ tử. ​Thầy quán chiếu cơ duyên ​rồi bảo với ông bà Hồ Thụ rằng:

- Ông bà có duyên gặp Thầy trị bệnh chứ không phải duyên làm đệ tử của Thầy. Sau này ông bà cùng các con của ông bà sẽ quy y làm đệ tử của một vị ​S​ư khác. Vì gia đình ông bà nhiều đời có duyên với vị ​S​ư sau này, vị Sư ấy ​sẽ ​truyền Tam quy Ngũ giới để gia đình ông bà đắc giới mà tu hành.

-----
(*) Hoà Thượng Thích Quảng Đức, ngài tự thiêu vì Pháp nạn của Phật Giáo Việt Nam ngày 11 tháng 6 năm 1963



Message edited by saigoneses - Thứ Hai, 19 May 2014, 2:18 AM
 
saigoneses Date: Thứ Hai, 19 May 2014, 2:43 AM | Message # 2
Lieutenant general
Group: Administrators
Messages: 505
Status: Tạm vắng
CHÚ PHỔ AM: Xuất Xứ - Công Năng - Hành Trì

1. Sơ lược tiểu sử:

Ngài Thiền Sư Phổ Am họ Dư, tên thật là Ấn Túc (1115 – 1169), được tôn xưng là Thiền Sư Phổ Am, Tổ Sư Phổ Am… Trong nhân gian thường viết “Phổ Án”. Ngài sinh năm 1115 niên hiệu Tống Vi Tông Chánh Hòa năm thứ 5, quê tại Viên Châu, Nghi Xuân (nay là Khu Viên Châu, Thành Phố Nghi Xuân, Tỉnh Giang Tây, Trung Quốc). Ngài là cao tăng đời thứ 13 thuộc phái Thiền Lâm Tế, xuất gia năm 1134 – niên hiệu Tống Cao Tông Thiệu Hưng năm thứ 4.

Một ngày nọ Ngài tụng kinh Hoa Nghiêm đến câu: “Đạt bổn tình vong tri tâm thể hợp” Ngài hoát nhiên đại ngộ nhập vào được các quốc độ của chư Phật. Trong thời gian tại thế Ngài đã sọạn ra bài chú Phổ Am nhưng nguyên nhân sáng tác không rõ. Đến năm Hiếu Tông Càn Đạo thứ 5 (1169) ngày 21 tháng 7 Ngài tắm gội, thay quần áo, đắp y hậu ngồi kiết già phu tọa thị chúng rồi thâu thần thị tịch. Thọ thế 55 tuổi, tăng lạp 28 hạ.

2. Tước hiệu:

Năm Nguyên Thành Tông Đại Đức thứ tư (1300) phong Thụy Đại Đức Tuệ Khánh, năm Minh Thành Tổ Vĩnh Lạc 18 (1420) phong tặng “Phổ Am Chí Thiện Hoằng Nhân Viên Thông Trí Huệ Tịch Cảm Diệu Ứng Từ Tế Chơn Giác Chiêu Huống Tuệ Khánh Hộ Quốc Tuyên Giáo Đại Đức Bồ Tát".

3. Những chuyện kỳ lạ:

Sau khi Ngài viên tịch, sự linh hiển của Ngài khiến cho nhân dân ai muốn cầu gì cũng ứng, nhất là dùng bài Chú trong mọi trường hợp để được an bình. Bài chú nguyên có tên là: “Phổ Am Đại Đức Thiền Sư Thích Đàm Chương Thần Chú” hay còn gọi “Thích Đàm chương” chữ Thích Đàm tức Tất Đàm, chữ phiêm âm từ Phạn ngữ Siddam qua tiếng Trung quốc. Ở Trung quốc lúc bấy giờ người ta ít thấy Bài Chú của Tổ Sư sáng tác. Cho nên có một số người nhận định rằng vì sự tu hành của Ngài đã đạt đến cảm nhận được Phạn Chú và phỏng theo Phạn Âm hoặc theo chủng tử tự mẫu Kinh Hoa Nghiêm mà sáng tác ra. Dựa trên thực tế, chữ đầu của chú nầy là chữ “Án” còn đọc “Úm, Om”, chữ nầy là chủng tử tự thường thấy trong kinh chú Phật Giáo đều có tính cách linh thiêng. Chú ngữ trong Kim cang giới dùng chữ Án (Úm) đứng đầu, còn trong Thai tạng giới dùng chữ Nẵng mồ (Nam Mô) như Chú Lục Tự Đại Minh “Án, ma ni bát mê hồng” hay “Nẵng mồ tam mãn đà…...”

Theo truyền thuyết, Thiền Sư Phổ Am có rất nhiều chuyện tích linh nghiệm:

- Vào năm Thiệu Hưng 26 (1156), một lần nọ Ngài Thiền Sư cung hành Pháp hội nhưng quan địa phương có hiềm khích nên cho rằng đó là mê hoặc quần chúng, liền phái lính tuần phủ đến điều tra trước, đột nhiên gió to mưa lớn nỗi lên, trên trời hiện ra hình tượng một con rồng lớn, tuần phủ thấy vậy không dám điều tra phải quay về.

- Có một lần Ngài Thiền Sư Phổ Am đáp lời mời một tín đồ tên là Trần Thiên Chương đến nhà để cử hành pháp sự, Ngài hướng dẫn tăng chúng đi theo chỉ tụng một biến Kinh Kim Cang là kết thúc buổi lễ. Ông Trần Thiên Chương tỏ vẻ không vui, cho rằng Ngài Thiền Sư Phổ Am quá qua loa lấy lệ, vì thế mà Ngài Phổ Am lại tụng thêm một lần nữa.

Sau đó Ông Trần Thiên Chương tự nhiên bị chết đột ngột, nhưng 3 ngày sau sống lại. Ông kể rằng: Ông bị dẫn xuống địa phủ và vị Phán Quan quở trách “Ông đã có thái độ bất kính khi đối xử với Ngài Phổ Am, làm cho Ngài phải tụng 2 biến Kinh Kim Cang.”

Về sau Trần Thiên Chương mang 1 cây bút lớn, dầu mè, tiền đem đến cúng dường Ngài Phổ Am, Ngài Thiền Sư Phổ Am liền viết trên lưng Ông Trần Thiên Chương 4 chữ: “Thí Tài Công Cứ” khiến người ta tấm tắc khen ngợi. Sau nầy khi Ông Trần Thiên Chương tạ thế, trong gia đình Họ Cam có người sanh một hài nhi trên lưng tự nhiên có vết sẹo đúng như 4 chữ “Thí Tài Công Cứ”.

4. Công năng của Thần Chú:

- Theo tín ngưỡng nhân gian

Đặc biệt chú Phổ Am tương truyền rất linh nghiệm, dân gian đều công nhận có khả năng “phổ an thập phương, an định tùng lâm, yêu cầu côn trùng, súc vật như: chuột, kiến, muỗi, ve, gián, thằn lằn… hoặc tà ma quỷ mị … đi nơi khác, có thần lực tiêu tai giải ách, trấn sát an thai, trừ uế v.v… Do đó mà các cơ sở buôn bán Phật cụ Đài Loan đã thâu CD tụng, nhạc không lời bài Chú Phổ Am để dân chúng thỉnh về nghe vừa thoải mái tinh thần lại vừa làm cho các loài côn trùng tránh xa. Tín ngưỡng nhân gian ở Đài Loan còn truyền thuyết dùng giấy màu đỏ hoặc vàng viết 8 chữ của câu cuối trong bài chú “Phổ Am đáo thử bách vô cấm kỵ = Ngài Phổ Am đến đây trăm sự không kiêng kỵ” dán trong nhà có khả năng hoán đổi được phong thủy (địa lý) của ngôi nhà.

Dân chúng làm nghề đánh cá hay hàng hải thường thờ Thần Vị Ngài trên thuyền để cầu xin biển yên sóng lặng luôn được bình an. Đối với người dân đi biển, Ngài được xem như một vị Hải Thần. Ngài Thiền Sư Phổ Am còn được một số Đạo Sĩ Trung Quốc tôn thờ như một vị Tổ Sư, Giáo Chủ tức “Phái Phổ Am”, họ thờ phụng, tạo tượng đủ hình tướng như: Tỳ kheo, Đạo sĩ, Đế vương, Tướng quân…

- Phật Giáo:

* Phật Giáo Trung Quốc và Nhật Bản các chùa thuộc phái Lâm Tế thường có thờ Thần Vị Ngài tại hậu điện (hậu liêu) để hàng ma, phục quỷ…

* Phật Giáo Việt Nam trong các chùa không thấy thờ Tôn tượng hay Thần vị Ngài kể cả tín ngưỡng nhân gian. Tuy nhiên trong hành trì quý Thầy đều có học và tụng, đặc biệt là Phật Giáo miền Trung - Thừa Thiên - Huế quý Thầy đều phải học thuộc lòng và thường tụng trong các Lễ Khai Kinh sái tịnh, kết giới đại trai đàn: Bạt Độ, Chẩn tế, Lạc thành, Đại lễ Quy y Linh trong đám tang…

- Bài Chú:

Bài chú nầy (âm Hán Việt) có in trong cuốn Tang Lễ cho người tại gia do Tôn Giả Liễu Tạng soạn, bản in tại Huế (rất tiếc không nhớ được tên của người âm) và trên mạng lưới toàn cầu Hán văn. Sau đây là toàn văn Bài Chú gồm cả phần đầu – phần chú ngữ - phần kết.

Trì tụng Bài Phổ Am:

Phổ Am linh cảm . Diệu ứng từ tế. Chơn giác chiêu huống Huệ Khánh, Đại đức Thiền Sư Thích Đàm Chương.

Khể thủ quy y Phổ Am Sư,
Nam hải Quan Âm hóa hậu thân
Thọ long đắc đạo truyền chánh pháp
Thiên long nham nội giảng Hoa nghiêm
Định quang tháp tiền tuyên mật ngữ
Từ hóa khai sơn cứu độ nhơn
Khẩn Na la vương hiển thần thông
Hổ Già la vương trấn oai linh
Ngũ thông đắc đạo thần tiên chúng
Bích Chi La Hán tổng lai lâm
Thiên bồng thiên do đại nguyên soái
Tam đàn hốt hỏa đại tướng quân
Tứ thiên môn vương tứ yết đế
Nhị thập tứ vị chư thiên binh
Vô số Thiên long Bát bộ chúng
Bách vạn hỏa thủ Kim cang thần
Đô thiên lục tí Tôn vương Phật
Sùng ninh đức thắng đại chơn quân
Hòa quang pháp thánh đại Thuyền sư
Long Hổ nhị Tiên tả hữu phân
Lăng nghiêm Hội thượng Phật Bồ-tát
Đại bi Lăng nghiêm Dược xoa thần
Thực quỷ thôn ma chư Thiên tướng
Tắc hải di sơn tứ mục quân
Tiền truyền hậu giáo chư Phật Tổ
Điễn mẫu lôi công Tích lịch thần
Thiên long nham nội hàng ma tướng
Tế tế tham tùy nhất bộ hành
Trì xoa kỉnh xử đà thiết tỏa
Tràng phan sính tiết chỉnh như vân
Động diêu kim lĩnh sơn nhạc chấn
Tận giai vân tập tiểu yêu phân
Chư quỷ hiện hình đầu phấn toái
Ác thanh biến hóa nhập vi trần
Chư thượng thiện nhơn cu vân tập
Tiền vong hậu hóa cập tiên thân
Văn thanh phúng tụng Thích Đàm Chương
Vụ ủng vân phi giáng đạo tràng
Chí tâm xướng niệm vô tà tưởng
Thiên hạ tà thần bất cảm đương
Hoặc dạ hành hề hoặc tảo khứ
Sơn lâm vọng lượng hữu tinh mỵ
Chí tâm quy y Phổ Am sư
Tự hữu long thần lai vệ hộ
Hổ lang văn tri bôn cao sơn
Ngư long thính trước quy hải thủy
Phá tháp miếu đường vô đạo nhân
Khê động nham gia thạch cái quỷ
Xà thương hổ giảo cổ độc hại
Lạc thủy đọa thai tinh tự ải
Y thảo phụ thọ mộc thạch tinh
Bất chánh tà thần tốc hồi tỵ
Nhược bất thuận ngô đại đạo tâm
Thiên lôi tích lịch dữ phấn toái
Năng cứu nhân gian bát nạn khổ
Năng giải nhân gian tử sanh uế
Thập sanh cửu tử bệnh nhơn hôn
Năng niệm chơn ngôn trì tịnh thủy
Đà la ni chú giải oan gia
Đại bi thần chú năng an ủy
Thành hoàng xã lệnh Thổ địa thần
Ủng hộ tham tùy thính khu sử
Ngũ phương tà khí tận tiêu trừ
Tử giả hoàn hồn tăng phước huệ
Thần hôn phúng tụng Thích Đàm Chương
Phật đạo hoan duyệt an thần vị
Gia đường trù táo tất an ninh
Thổ địa long thần vô cấm kỵ
Tổ tiên tam đại cập nhơn thân
Văn thanh tận đắc siêu thăng lộ.
Thiên tinh địa diệu các hồi cung
Tiêu tai giáng phước bất tư nghị
Duy nguyện cổ Phật giáng lai lâm
Tức thuyết Thích Đàm Chương diệu cú:
Nam mô Phật đà da
Nam mô Đạt ma da
Nam mô Tăng già da
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Đại Bi quán Thế Âm Bồ-tát
Nam mô Phổ Am Tổ sư Bồ-tát
Nam mô Bách vạn Hỏa thủ Kim cang vương Bồ-tát

(Tụng đến đây tiếp tụng bài chú như sau chuyển qua điệu khác)

Án, cia cia cia nghiên giài. Che che che xẹn nhè. Tra tra tra thạn nò. Tô tô tô thạn nò. Bo bo bo phạm mò.

Mò phạm bo bò bo. Nò thạn tô tồ tô, nò thạn trá trả tra. Nhè xen che chè che, giài nghiên cia cìa cia. Cìa cìa cía nghiển giai, cia cia kê kê cú cu kề, cú kề cu. Kiếm kiểu kê, kiêu kê kiềm, Nhè xen che chè che. Chè chè ché xẻn nhe, che che chi chi chú chu chì, chú chì chu, chiếm chỉu chi, chiu chi chìm,Nò than tra trà tra. Trà trà trá thản no, tra tra tư, tư tố tô từ, tố từ tô, thám tổ tư tô tư thàm, Nò thạn tô tồ tô. Tồ tồ tố thản no, tô tô ti ti tố tô tì, tố tì tô, thám tổ ti tô ti thàm, Mò phàm bo bò bo. Bò bò bó phảm mo, bo bo bây bây bó bo bầy, bó bầy bo, phám bỏ bây bo bây phàm, Mò phạm bo bò bo - nò thạn tô tồ tô - nò thạn trá trả tra - nhè xen che chè che - giài nghiên cia cìa cia. Cìa cìa cía nghiển giai, cia cia kê, kề cu cu kế kiêu kiềm, kiềm kiềm kiêm kiềm kiêm,nghiếm nghiểu nghê, nghêu nghê nghiềm, Nhè xen che chè che. Chè chè ché xẻn nhe, che che chi ,chì chu chu chí chiu chiềm, chiềm chiềm chiêm chiềm chiêm, nghiếm nghiểu nghê, nghiêu nghê nghiềm, Nò than tra trà tra. Trà trà trá thản no, tra tra tư từ tô tô tứ tô thàm,thàm thàm tham thàm tham,nấm nỏ nê no nê nầm, Nò thạn tô tồ tô. Tồ tồ tố thản no tô tô ti, tì tô tô tí tô thàm, thàm thàm tham thàm tham, nấm nỏ nê no nê nầm, Mò pham bo bò bo. Bò bò bó phảm mo, bo bo bây bầy bo bo bấy bo phàm, phàm phàm pham phàm pham. Mò phàm bo bò bo - nò thạn tô tồ tô - nò thạn trá trả tra - nhè xen che chè che - giài nghiên cia cìa cia. Cìa cìa cía nghiển giai,cia cia kê kê cú cu dè, diệu diều diệu diều, diêu diều diêu, Nhè xen che chè che. Chè chè ché xẻn nhe, che che chi, chi chú chu dè, diệu diều diệu diều, diêu diều diêu, Nò thạn tra trà tra. Trà trà trá thản no, tra tra tư tư tố tô dè, nậu nầu nậu nầu, nâu nầu nâu, Nò thạn tô tồ tô. Tồ tồ tố thản no, tô tô ti ti tố tô dè, nậu nầu nậu nầu, nâu nầu nâu, Mò pham bo bò bo. Bò bò bó phảm mo, bo bo bây bây bó bo dè, mậu mầu mậu mầu, mâu mầu mâu. Mò phạm bo bò bo - nò thạn tô tồ tô - nò thạn trá trả tra - nhè xen che chè che, giài nghiên cia cìa cia. Ngàn cia cia cia nghiên giài, che che che xen nhè, tra tra tra thạn nò, tô tô tô thản nò, bo bo bo phàm mò. Ngàn ba tô cha, cia cía de dạ lan ho ,o sắc tra, tác hải tra, lậu lư lậu lư tra, cia cía de tóa ha.

Vô số Thiên long Bát bộ, bách vạn Hỏa Thủ Kim cang, sạ nhật phương ngung, kim nhật Phật địa - Phổ Am đáo thử, bách vô cấm kỵ.

Tán: Phổ am thần chú , hỏa thủ kim cang, cổ Phật xuất thế phóng hào quang, quỷ mỵ tận tiềm tàng, điễn diệt tai ương, phước thọ đắc miên trường.

Nam mô tiêu tai giáng kiết tường Bồ tát.

- Cung Điệu

Cung điệu tụng bài chú nầy không thể giải thích được, mà chỉ nghe và bắt chước theo như tập hát. Pháp khí dùng cho bài nầy lại không có mõ mà chỉ dùng tang. Chú ngữ lặp đi lặp lại, đảo ngược đảo xuôi, mỗi địa phương có thể thêm bớt, hoặc cung điệu khác nhau rất khó nhớ cần phải tập luyện lâu dài mới thuộc lòng được.

5. Hành Trì

Đối với Mật pháp việc hành trì rất khó khăn, có riêng nghi quỹ cho từng môn. Muốn học phải có vị thầy truyền thọ (A xà Lê), nếu tự ý học và tự ý chỉ dẫn cho người khác thì phạm tội Việt Tì Ni. (Xin xem Từ Điển Phật Học Hán Việt trang 1515 do Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội ấn hành tại Việt Nam).

Do đó mà Phật tử chúng ta muốn tu trì riêng biệt mật chú nên tìm quý Thầy chuyên môn để thỉnh ý và xin chỉ dạy. Còn chỉ tụng như những bài kinh, chú công truyền có in trong các quyển nghi thức với mục đích an định tam nghiệp, tăng trưởng tâm từ bi, cầu nguyện cho tất cả chúng sanh hiểu được ý nghĩa bài chú để tu học, không gây tổn hại cho chúng sanh khác. Ngôn ngữ bất cứ bài chú nào cũng rất đặc biệt là tất cả mọi chúng sanh đều cảm nhận được và thực hành theo lời chỉ dạy trong bài chú đó.

Trong quá trình học hỏi nghi lễ với chư vị Tôn túc trong quá khứ, các ngài đã chỉ dẫn những điều rất đơn giản nhưng rất hữu ích. Tôi xin trình bày ra đây để Phật tử chúng ta rút tỉa thêm kinh nghiệm.

Chẳng hạn như có lần tôi thỉnh ý một vị hay dùng chú thuật “Khi thực hiện tam mật: miệng mật niệm chú, thân kết ấn, ý quán tưởng” thì phải làm như thế nào?

Ngài trả lời:

- Chú ngắn phải niệm cho hết một hơi một bài = nín thở, khi xả ấn phải đưa lên không trung, không được đưa ngang, ý phải nghĩ đến sự từ bi, hỷ xả, bình đẳng vì ấn là Pháp Thân, lời chú là Báo Thân, kinh văn là Hóa Thân của Chư Phật. Đây là những lời dạy, ký hiệu cho chúng sanh biết để tu hành, tuân theo chứ không có tưởng đến sự trừ khử, tiêu diệt, xua đuổi một chúng sanh nào cả, tức không nhắm vào bất cứ một đối tượng nào. Nếu có tư tưởng xấu, phạm vào ý nghiệp tức sẽ có sự tìm cách trả thù. Được như vậy thì công đức vô lượng, tất cả chúng sanh âm và dương đều lợi lạc.

Tuy nhiên đã là Phật tử, ít nhất cũng đã thọ tam quy, ngũ giới hoặc nhứt phần, bán phần hay toàn phần cũng cố gắng giữ giới nghiêm mật, được như vậy thì sự tu hành bản thân mới tiến được.

Kinh ngưỡng mong chư Tôn đức, Thiện tri thức chỉ dạy thêm những điều còn thiếu sót để chúng con được vững tiến trên con đường học đạo.

Nam Mô thường Hoan hỷ Bồ Tát ma ha tát.

Trụ Trì chùa LUẬT BÌNH, Tỳ Kheo: THÍCH HỮU THÔNG, biên soạn.



 
kathy Date: Thứ Hai, 19 May 2014, 2:09 PM | Message # 3
Colonel general
Group: Users
Messages: 900
Status: Tạm vắng
 
atoanmt Date: Thứ Ba, 20 May 2014, 6:36 AM | Message # 4
Generalissimo
Group: Administrators
Messages: 5081
Status: Tạm vắng



AToanMT
 
hailove Date: Thứ Ba, 20 May 2014, 7:50 AM | Message # 5
Lieutenant general
Group: Moderators
Messages: 514
Status: Tạm vắng


NAM MÔ DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG VƯƠNG PHẬT
 
thanhlongphapsu Date: Thứ Ba, 20 May 2014, 6:09 PM | Message # 6
Generalissimo
Group: users
Messages: 1380
Status: Tạm vắng
Trong nhân gian truyền miệng về con ranh con lộn, những đứa trẻ này sanh ra thường yễu mệnh. Hay chết non , lập đi lập lại nhiều lần ( ba lần liên tục là quá nhiều đối với phụ nữ thời kỳ sinh sản, mang 9 tháng đẻ đau nhưng nuôi chưa được bao lâu thì chết ) Nên họ dùng mẹo để đánh dấu nếu đứa trẻ ấy lộn lại nữa thì biết chính là nó , và lần sau cùng với dấu vết đặt biệt thì đứa trẻ sẽ sống dai.

Có người dùng lọ nồi quẹt vào chân đứa trẻ trước khi mang đi chôn, có người dùng vết son đỏ chấm đâu đó trong cơ thể người đời gọi là cái bớt ( một ảng da nổi lên màu hồng trên đâu đó của cơ thể ) có người chơi ác hơn dùng da heo, da bò, da chó, da gà dán vào cơ thể em bé bị chết. Khi đầu thai lại nó sẽ y chang như chổ đánh dấu của kiếp trước.

Tui có bà chị họ không bị con ranh con lộn, nghĩa là bà ấy sanh con và nuôi đủ, nhưng trong số con đó , có một cô con gái có một miếng da trâu bằng bàn tay em bé dính trên mông, miếng da trâu này vẫn mọc lông trâu bình thường khi cháu con trong tháng. Và chắc nó cũng đeo bám cô bé suốt cuộc đời, cô ta cũng lấy chồng sanh con bình thường. Và cô ta rất siêng năng lễ Phật.

Cũng bà chị họ này, vì sanh con đông quá nên ngán, gần 10 đứa con, vì không biết dùng thuốc ngừa thai hay biện pháp tránh thai. Lần có con cuối cùng thì nghe lời mấy bà Mụ dưới quê phá thai. Phá xong rồi thì lại dính nữa. Bà ta lại phá nữa lần cuối bà dùng kéo cắt cái dáy tay ra làm đôi , sau lần phá thai đó thì bà lại dính bầu nữa và chịu trận để sanh luôn vì mỗi lần phá thai là mỗi lần sợ. Lần này bà sanh đôi và có một đứa bị cắt đôi cái dáy tai.

Như vậy, các bạn nào lở mà trên thân thể mình có điều gì hay dấu vết gì không bình thường cũng đừng nghĩ mình là quỷ hay cái thứ gì gì đó nhập vào. Mà hãy bình tỉnh vui sống , không oán Trời không trách đất và cũng không nên oán trách cha mẹ.
 
loclv88 Date: Thứ Năm, 18 Aug 2016, 4:17 AM | Message # 7
Colonel
Group: Users
Messages: 161
Status: Tạm vắng


Nam Mô A Di Đà Phật !
 
FORUM » TRUYỆN HUYỀN HỌC » TRUYỆN MA - TRUYỆN KINH DỊ » CON RANH CON LỘN (CÀN SÁT QUÁI 1920) (Trần Tính & Ngô Cao Bá)
  • Page 1 of 1
  • 1
Search:


TỰ-ĐIỂN TRỰC-TUYẾN :

Từ Điển Online
Bấm vào dấu V để chọn loại Tự-Điển
Gõ Chữ muốn tìm vào khung trắng dưới đây:
Xong bấm GO